Tiểu luận triết học Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người – Lời mở đầu Phát triển con người là – StuDocu

Lời mở đầu
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của toàn nhân loại.
Làn sóng văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra
bao khả năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối
cảnh đó sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự
do tìm kiếm con đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt
Nam càng dễ đi đến phủ nhận vai trò và khả năng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong thực tế, không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó
trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con
người trong các tôn giáo và hệ tư tưởng truyền thống, con người lại “sáng
tạo” ra những tư tưởng, tôn giáo mới cho “phù hợp” hơn với con người Việt
Nam hiện nay. Song nhìn nhận lại một cách thật sự khách quan và khoa học
sự tồn tại của chủ nghĩa Mác – Lênin trong xã hội ta, có lẽ không ai phủ nhận
được vai trò ưu trội và triển vọng của nó trong sự phát triển con người.
Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về
con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII,
Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt
Nam toàn diện với tư cách quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn
diện với tư cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời
là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, em đã chọn
đề tài: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về con người”.

Nội dung
chương i. lý luận của chủ nghĩa mác về con người.

Iản chất của con người.
a. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người:
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất
của thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học,
các nhà nghiên cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong
nhiều đề tài khoa học của xã hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung
tâm được các nhà nghiên cứu cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học,
sinh học, y học, triết học, xã hội học.v.v..ừ rất sớm trong lịch sử đã quan
tâm đến con người và không ngừng nghiên cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên
cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối vưói sự hiểu biết và làm lợi cho con người.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu
thuẫn trong quan điểm, nhận thức và nó đã gây nên sự đấu tranh không biết
khi nào dừng. Những lập trường chính trị trình độ nhận thức và tâm lý của
những người nghiên cứu khác nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng hướng
giải quyết khác nhau.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất
con người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu
thuẫn troch chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con
người là một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản
chất con người là bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời
đất, là chúa tể của muôn loài. Chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia
làm hai phần là phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho
rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra; quy định, chi phối mọi hoạt động của
phần xác, linh hoòn con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược
lại họ cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần hồn, không có linh hồn

Tóm lại: Các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những các thức lý
luận xem xét người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá
phần hồn thành con người trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực
quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu tượng. Sinh học, tuy
nhiên họ vẫn còn nhiều hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy
đủ đến bản chất con người.
Sau này chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế đó,
đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học
thuyết triết học trước đây để đi tới quan niệm về con người thiện thực, con
người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cdách là con người hiện thực.
Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội đồng thời vừa là chủ thể
cải tạo tự nhiên.
b. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội.
Sự “sinh động” ở đây có nghĩa là con người có thể chinh phục tự nhiên,
cỉa tạo tự nhiên. Tuy rằng con người đã bỏ xa giới động vật trong quá trình
tiến hoá nhưng như thế không có nghĩa là con người đã lột bỏ tất cả những cái
tự nhiên để không còn một sự liên hệ nào với tổ tiên của mình. Con người là
sản phẩm tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh,
đã là con người thì phải trải qua giai đoạn sinh trưởng, tử vong, mỗi con
người đều có nhu cầu ăn, mặc ở, sinh hoạt… Song con người khong phải là
động vật thuần tuý như các động vật khác mà xét trên khía cạnh xã hội thì con
người là động vật có tính xã hội, con người là sản phẩm của xã hội, mang bản
tính xã hội. Những yếu tố xã hội là tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất
hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những quy định về
mặt xã hội toạ nên con người. Con người chỉ có thể tồn tịa được khi tiến hành
lao động sản xuất của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu mình và chính lao
động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành con người và ý thức. Lao động
là nguồn gốc duy nhất của vật chất, vật chất quyết định tinh thần theo logic thì
lao động là nguồn gốc của văn hoá vật chất và tinh thần.

Mặt khác trong lao động con người quan hệ với nhau trong nghành sản xuất, đó là những quan hệ nền tảng để từ đó hình thành những quan hệ xã hội khác trong những nghành đời sống và ý thức. Chính vì con người là loại sản phẩm của tự nhiên và xã hội cho nên vì thế con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên tự nhiên và xã hội cùng những quy luật đổi khác của chúng. Các quy luật tự nhiên như quy luật về sự tương thích giữa khung hình và thiên nhiên và môi trường, quy luật về quy trình trao đổi chất … tác động ảnh hưởng tạo nên phương diện sinh học của con người. Các quy luật tâm ý, ý thức hình thành và hoạt động giải trí trên nền tảng sinh học của con người hình thành tư tưởng tình cảm khát vọng niềm tin, ý chí. Các quy luật xã hội lao lý mối quan hệ giữa người với người, kiểm soát và điều chỉnh hành vi của con người. Hệ thống những quy luật trên cũng ảnh hưởng tác động lên con người, tạo nên thể thống nhất hoàn hảo giữa sinh học cái xã hội trong con người. Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động giải trí thực tiễn con người sản xuất và của cải vật chất, ảnh hưởng tác động vào tự nhiên để tái tạo tự nhiên, con người là chủ thể tái tạo tự nhiên. Như vậy con người vừa do tự nhiên sinh ra, bị phụ thuộc vào vào tự nhiên vừa tác động ảnh hưởng vào tự nhiên. Tình cảm thống trị tự nhiên chỉ có con người mới khắc phục được tự nhiên bằng cách tạo ra những vật chất, hiện tượng kỳ lạ không như tự nhiên bằng cách toạ ra những vật chất, hiện tượng kỳ lạ không như tự nhiên vốn có bằng cách đó con người đã đổi khác bộ mặt của tự nhiên, bắt tự nhiên phải Giao hàng con người. Tuy nó là loại sản phẩm của tự nhiên. Một điều chắc như đinh rằng có con người chỉ hoàn toàn có thể thống trị tự nhiên nếu biết tuân theo và chớp lấy những quy luật của chính bản thân đó. Quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng tạo ra lịch sử dân tộc cho mình. Con người không những là mẫu sản phẩm của xã hội mà con người còn là chủ thể tái tạo chúng. Bằng mọi hoạt động giải trí lao động sản xuất con người phát minh sáng tạo ra hàng loạt nền văn hoá vật chất, ý thức. Bằng hoạt động giải trí cách mạng. Con người lưu lại thêm những trang sử mới cho chính mình mặc dầu tự nhiên và xã hội đều hoạt động theo những quy luật khách quan tuy nhiên quy trình hoạt động của con người luôn xuấtnhiều lần đã so sánh con người với con vật, so sánh con người với những con vật có bản năng gần giống với con người … Và để tìm ra sự độc lạ đó. Mác đã chỉ ra sự độc lạ ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu hoạt động và sinh hoạt của mình, con người đổi khác tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra công cụ sản xuất … Luận điểm xem con người là sinh vật biết sản xuất ra công cụ sản xuất được xem là vấn đề tiêu biểu vượt trội của chủ nghĩa Mác về con người. Luận điểm của Mác coi “ Bản chất của con người là tổng hoà những quan hệ xã hội ” Mác trọn vẹn không có ý phủ nhận vai trò của những yếu tố và đặc thù sinh học của con người, ông chỉ trái chiều vấn đề coi con người đơn thuần như một phần của giới tự nhiên còn bỏ lỡ, không nói gì đến mặt xã hội của con người. Khi xác lập thực chất của con người trước hết Mác nêu bật cái chung, cái không hề thiếu và có đặc thù quyết định hành động làm cho con người trở thành một con người. Sau, thì khi nói đến “ Sự khuynh hướng hài hòa và hợp lý về mặt sinh học ” Lênin cũng chỉ bác bỏ những yếu tố xã hội tiếp tục tác động ảnh hưởng và ảnh hưởng tác động to lớn so với thực chất và sự tăng trưởng của con người. Chính Lênin cũng đã không đống ý quan điểm cho rằng mọ người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “ thực thi một sự bình đẳng về công sức của con người và năng lực con người thì đó là một điều ngu xuẩn … Nói tới bình đẳng thì đó luôn luôn là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về vị thế chỉ không phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá thể ”. Để chứng minh và khẳng định cho tiến trình tăng trưởng lịch sử dân tộc của xã hội loài người là sự thay thế sửa chữa lẫn nhau của những hình thái kinh tế tài chính – xã hội, Mác đã nói tới việc lấy sự tăng trưởng tổng lực của con người làm thước đo chung cho sự tăng trưởng xã hội, Mác cho rằng xu thế chung của tiến trình tăng trưởng lịch sử dân tộc được pháp luật bởi sự tăng trưởng của lực lượng sản xuất xã hội gồm có con người và những công cụ lao động do con người tạo ra, sự tăng trưởng của lực lượng sản xuất xã hội, tự nó đã nói lên trình độ tăng trưởng của xã hội qua việc con người đã sở hữu xã hội và sử dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với tư

cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính con người và quyết định
quan hệ giữa người với người trong sản xuất. Sản xuất ngày càng phát triển
tính chất xã hội hoá ngày cnàg tăng. Việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực
lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do nó mang lại sẽ
cần đến những con người hoàn toàn mới. Những con người có năng lực phát
triển toàn diện và đến lượt nó, nền sản xuất sẽ tạo nên những con người mới,
sẽ làm nên những thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng một cách toàn
diện năng lực phát triển của mình theo Mác “phát triển sản xuất vì sự phồn
vinh của xã hội, vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong cộng đồng
xã hội và phát triển con người toàn diện là một quá trình thống nhất để làm
tăng thêm nền sản xuất xã hội” để sản xuất ra những con người phát triển toàn
diện hơn nữa, Mác coi sự kết hợ chặt chẽ giữa phát triển sản xuất và phát triển
con người là một trong những biện pháp mạnh mẽ để cải biến xã hội.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất là yếu
tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã
hội mà hơn nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá
trình lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chật con người sáng tạo ra
lịch sử của mình, lịch sử 7của xã hội loài ngoài. Từ đó quan niệm đó Mác
khẳng định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội có ý nghĩa là sự phát
triển phong phú bản chất con người, coi như là một mục đích tự thân. Bởi vậy
theo Mác ý nghĩa lịch sử mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển
con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá con người, giải phóng
con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người để con người được sống với
cuộc sống đích thực. Và bước quan trọng nhất trên con đường đó là giải
phóng con người về mặt xã hội.
Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất của tiến trình phát
triển lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì cuộc sống ngày cnàg tốt đẹp
hơn cho con người, phát triển con người toàn diện và giải phóng con người,
nói theo Anghen là đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc

Mác “đến xã hội cộng sản chủ nghĩa, con người không còn thất nghiệp, không
còn bị ràng buộc vào một nghề nghiệp nhất định họ có thể làm bất kỳ một
nghề nào nếu có khả năng và thích thú, họ có quyền làm theo năng lực, hướng
theo nhu cầu tuy nhiên những ý muốn đó không xảy ra bởi vì cách mạng cộng
sản chủ nghĩa không diễn ra theo ý của họ. Nó không diễn ra đồng loạt tren
tất cả các nước tư bản, ít ra là ở các nước tư bản tiên tiến, trái lại nó lại diễn ra
ở những nước xã hội chủ nghĩa tiêu biểu là nước Nga (Liên Xô cũ)… Một
nước công nghiệp chưa phát triển, nông dân chiếm số đông trong dân số. Vì
vậy quan niệm của ông về con người khó có điều kiện được chứng minh.
III. Vai trò của chủ nghĩa Mác về con người trong đời sống xã hội.
Do nhân thức được vai trò và tầm quan trọng của vấn đề con người đạc
biệt là vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước ta hiện nay. Đảng và nhân dân ta đã và đang xây dựng và phát triển đất
nước toàn diện về nhiều mặt đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, nó phụ thuộc rất
nhiều vào nhiều chiến lược con người: Cần đào tạo con người một cách có
chiều sâu lấy tư tương và chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng, cũng như trên
thế giới ở nước ta chiến lược con người nó có một ý nghĩa hết sức quan trọng
và để phát triển đúng hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát triển
con người, không để con người đi lệch tư tưởng tuy nhiên trong thực tế không
ít người sẽ ngang đi tìm khả năng phát triển nó trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều
người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con người trong các tôn giáo và
các hệ tư tưởng truyền thống. Có người lại sáng tạo ra tư tưởng tôn giáo mới
cho phù hợp với con người Việt Nam. Song nhìn lại một cdách khách quan và
khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác – Lênin trong xã hội Việt Nam có lẽ
không ai có thể phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng cuả nó trong sự
nghiệp phát triển con người tạo đà cho bước phát triển tiếp theo của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì một nước đang còn ở tình trạng kém phát
triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu dài,
có tầm nhìn xa trông rộng phát triển con người nâng cao chất lượng của người

lao động. Hơn bất kỳ một nghành nghiên cứu và điều tra nào khác, nghành tăng trưởng con người là tiềm năng cao quý nhất của toàn dân, đưa loài người tới một kỷ nguyên mới, mở ra nhiều năng lực để tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai con đường khả quan nhất cho sự nghiệp tăng trưởng con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá quốc gia. Trong đời sống xã hội thực tiễn cơ sở vận dụng khoa học và phát minh sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành TW Đảng khoá VII đề ra nghị quyết và trải qua nghị quyết về việc tăng trưởng con người Nước Ta tổng lực với tư cách là ” Động lực của sự nghiệp thiết kế xây dựng xã hội mới, đồng thời là tiềm năng của chủ nghĩa xã hội ” Đó là ” con người tăng trưởng cao về trí tuệ, cường tráng về sức khỏe thể chất đa dạng và phong phú về ý thức, trong sáng về đạo đức “. Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi nghành nghề dịch vụ của đời sống xã hội và trong sự tăng trưởng của nền kinh tế tài chính quốc gia theo cớ chế thị trường, dưới sự quản trị của nhà nước, theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa thì chất lượng của người lao động là tác nhân quyết định hành động nghị quyết đại hội đại biểu toàn nước lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định chắc chắn ” Nâng cao dân trí, tu dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Nước Ta là tác nhân quyết định hành động thắng lợi cuả công cuộc thay đổi quốc gia “. Thực tiễn đã chứng tỏ xã hội ta lúc bấy giờ thực trạng mất hài hoà về mặt bản thể của mỗi cá thể là đa phần, là tổng thể bản thể cá thể tăng trưởng tổng lực và hài hoà về đạo đức, trí tuệ, thể lực là tiềm năng kiến thiết xây dựng con người trong chủ nghĩa xã hội nhưng tiềm năng cơ bản và quan trọng hơn cả là yếu tố con người phải trở thành tác nhân quyết định hành động lịch sử vẻ vang xã hộivà lịch sử vẻ vang của chính mình. Các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc chủ nghĩa Mác cho rằng đó là ” chủ nghĩa không có con người ” trong thực tiễn thì, chủ nghĩa Mác là một chỉnh thể thống nhất của ba bộ phận triết học nghiên cứu và điều tra những quy luật của quốc tế, giúp ta hiểu thực chất, mới quan hệ tự nhiên – xã hội – con người, chính trị kinh tế tài chính vạch ra quy luật đi lên của xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ ra con đường và chiêu thức nghiên cứu và điều tra con người. Chủ nghĩa Mác là một chỉ nghĩ vì con

tính tích cực trong con người của các hệ tư tưởng truyền thống. Mặt khác, chủ
nghĩa Mác – Lênin còn thể hiện rõ tính ưu việt trong con người đối với các
luồng tư tưởng tư sản ngoại nhập của Phương Tây, và các trào lưu tư tưởng tư
sản hiện tại đang làm lệch hướng đi của những con người chân chính trong
điều kiện đời sống vật chất khó khăn. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc xiềng
xích của chân lý cổ truyền, của nền sản xuất tiểu nông với tư duy còn hạn chế,
kinh nghiệm, phi khoa học trong con người thiếu văn hoá do xã hội cũ để lại
đã được tri thức khoa học Mác xít phá tan. Một ý thức tiên tiến ra đời. Các tín
ngưỡng dần dần cũng phải nhường chỗ cho niềm tin khoa học. Các yếu tố tư
duy duy vật biện chứng hình thành trong đời sống thường ngày, trong lao
động, cũng như trong mọi hoạt động của xã hội. Thế giới quan khoa học ngày
càng ăn sâu ở những con người luôn phấn đấu cho thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội nó nhìn thế giới, xã hội, con người trong sự vận động và phát triển trong
tính hiện thực và tiềm ẩn những khả năng, sự tồn tại khách quan là điều kiện
sống và sự phát triển con người.
Thế giới quan đó hàm chứa nhân sinh quan tiến bộ, khắc phục dần
những quan niệm sai lầm, phiến diện về con người của các hệ tư tưởng khác.
Sự chuyển đổi hệ tư tưởng dẫn đến chuyển đổi hệ giá trị của xã hội và
giá trị con người, con người từ chỗ phục tùng chuyển sang tự chủ, sáng tạo, từ
chỗ dựa trên tập quán chuyển sang lý trí, dân chủ, từ chí tìm cách hoà đồng
chuyển sang tôn trọng cả cá tính và bản lĩnh riêng. Các chuẩn mực mới của
con người đòi hỏi không chỉ phát triển từng mặt riêng lẻ mà phải là cá nhân
phát triển hài hoà tính cách mạng của học thuyết Mác xít khắc phục dần lối
sống thụ động, hẹp hòi, làm cơ sở cho lối sống tích cực, vì xã hội, phát triển ý
thức luôn vươn lên làm chủ và xây dựng cuộc sống mới xuất hiện những nhân
cách mới.
Tuy nhiên sự phát triển con người ngày nay không chỉ là sản phẩm của
hệ tư tưởng Mác xít vì ngay khi chủ nghĩa Mác xít trở thành hệ tư tưởng
chính thống ở Việt Nam thì các tôn giáo, các hệ tư tưởng và văn hoá bản địa

đã có sức sống riêng của nó. Chủ nghĩa Mác – Lênin xâm nhập, nó như một hệ tư tưởng khoa học vượt hẳn lên cái nền văn hoá địa phương, nhưng nó cũng chịu sự chi phối tác động ảnh hưởng xen kẽ của những yếu tố sai – đúng, yếu – mạnh, mới – cũ, v .. Các yếu tố tích cực đã thôi thúc, còn những yếu tố xấu đi thì ngưng trệ sự tăng trưởng con người. Sự văn minh, phát triển hoá con người Nước Ta của chủ nghĩa Mác – Lênin vừa có lợi thế tuy nhiên cũng không tránh khỏi những sai lầm đáng tiếc. Sai lầm là sự chống trả của tư tưởng văn hoá địa phương đã thành truyền thống cuội nguồn. Lợi thế là văn hoá địa phương chưa có một hệ tư tưởng khoa học định hình vững chãi, nó có vẻ như đang thiếu một kim chỉ nan khoa học. Nếu như không có chủ nghĩa Mác – Lênin xã hội Nước Ta tăng trưởng hơn, đó là tư tưởng của những người thiếu hiểu biết về một xã hội tân tiến, luôn coi cái trước mắt mình là những thứ vô giá trị mà chỉ chạy theo trào lưu, điều đáng trách hơn là họ cần cho rằng văn hoá Nước Ta sẽ đa dạng và phong phú hơn, rực rỡ hơn. Thực tế, từ khi Open chủ nghĩa Mác – Lênin xã hội Nước Ta như được tiếp thêm sức mạnh, tăng trưởng có khoa học hơn, ở góc nhìn nào đó trình độ dân trí, trình độ năng lượng, văn hoá, khoa học, nghệ thuật và thẩm mỹ … Con người Nước Ta không thua kém con người của những nước văn minh khác. Theo chủ nghĩa Mác – Lênin con người chỉ những thành viên, là sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Cái mà chủ nghĩa Mác – Lênin đã làm được đó là lý luận con người trong xã hội chứ không chỉ mặt sinh học như trước đây. Và chính vậy mà nó đã được vận dụng vào xã hội Nước Ta, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa con người là yếu tố quyết định hành động vừa là điểm xuất phát vừa là tiềm năng của mọi chủ trương kinh tế tài chính – xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến thiết xây dựng được một xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện kèm theo vật chất và niềm tin để triển khai trong thực tiễn nguyên tắc ” Sự tăng trưởng tự do của mỗi người là điều kiện kèm theo cho sự tăng trưởng tự do của toàn bộ mọi người ” và ở một quốc gia ta, một quốc gia đang còn nghèo nàn thì việc tăng trưởng yếu tố con người là một yếu tố mà Đảng ta đã xác lập đó là yếu tố then chốt cho sự

kết luận
Chủ nghĩa xã hội do con người, vì con người. Do vậy hình thành mối
quan hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát triển xã
hội nói chung trong xã hội, xã hội chủ nghĩa nói riêng là một ván đề không
thể thiếu được của thế giới quan Mác – Lênin.
Con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể, trong
sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Nếu chỉ dừng lại ở một số trước tính sinh học của con người thì không
thể giải thích được bản chất của con người, con người là một thực thể đặc biệt
hoạt động có ý thức, có khả năng sáng tạo cho mình. Từ tự nhiên và chính
trong quá trình hoạt động đó những quan hệ xã hội được hình thành có tác
động mạnh mẽ tới sự hình thành nhân cách, bản chất con người Mác viết
“Con người là tổng hoà của những quan hệ xã hội”.
Con người là chủ thể lịch sử, sáng tạo và lịch sử. Trong CMXHCN con
người là yếu tố quyết didnhj vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích của một
chính sách kinh tế – xã hội xây dựng xã hội chủ nghĩa là xây dựng xã hội chủ
nghĩa là xây dựng một xã hội mà ở đố có đủ những điều kiện vật chất và tinh
thần.
Việt Nam đã làm được điều đó hay chưa; cho tới nay tuy chúng ta đã đạt
được những thành tựu đáng kể nhưng đời sống vật chất tinh thần của đại đa
số, người dân còn thiếu. Do vậy lý luận chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và
quan điểm chủ nghĩa Mác Lênin về con người là kim chỉ nam để hướng đất
nước ta cần pahỉ đi đâu, làm gì và làm như thế nào, để thực hiện thành công
công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước, có như vậy chúng ta mới
vượt qua được cái ngưỡng của nghèo nàn và lạc hậu…

Tài liệu tham khảo

  1. Giáo tình triết học Mác Lên của NXB chính trị quốc gia (tập I, tập II).
  2. Giáo trình kinh tế chính trị học của NXB giáo dục 1996,
  3. Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông (NXB chính trị quốc gia
    (tập 1).
  4. Tạp chí cộng sản.
  5. Con người Việt Nam và công cuộc đổi mới kỷ yếu hội nghị khoa học
    từ 28 – 29 /7/1993. Tại TPHCM.

Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn