Thất nghiệp do thiếu cầu là gì? Lý thuyết Keynes về thất nghiệp
Học thuật
Thất nghiệp do thiếu cầu ( demand-deficient unemployment ) Tình hình trong đó tổng cầu ( AD ) qua thấp, thế cho nên không đủ việc làm cho những người muốn thao tác tại mức lương thực tiễn hiện hành trên thị trường .
Thất nghiệp do thiếu cầu là gì?
Thất nghiệp do thiếu cầu (demand-deficient unemployment) là tình hình trong đó tổng cầu (AD) quá thấp, vì vậy không đủ việc làm cho những người muốn làm việc tại mức lương thực tế hiện hành trên thị trường. Theo quan điểm cổ điển, tình trạng này chỉ xuất hiện khi giá cả tiền lương danh nghĩa cứng nhắc (W), do đó tiền lương thực tế (W/P) không thể giảm để loại trừ dạng thất nghiệp do thiếu cầu. Nhưng họ cho rằng dạng thất nghiệp này chỉ mang tính chất tạm thời, vì theo thời gian, tiền lương thực tế sẽ điều chỉnh để căn bằng thị trường lao động.
Tuy nhiên, Keynes và những người theo ông cho rằng việc cắt giảm tiền lương thực tế làm cho tổng cầu giảm. Sự suy giảm của tổng cầu đến lượt nó lại làm cho tình trạng thất nghiệp do thiếu cầu trở nên trầm tọng hơn. Như vậy trong lý thuyết của Keynes, cả tiền lương và việc làm đều do tổng cầu quyết định.
(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân)
Lý thuyết Keynes về thất nghiệp
Một trong những đột phá của học thuyết Keynes đó là giải quyết tình trạng thất nghiệp. Kinh tế học cổ điển tập trung vào ý tưởng rằng thị trường ổn định khi có việc làm đầy đủ. Tuy nhiên, Keynes đã đưa ra giả thuyết rằng tiền lương và giá cả là linh hoạt, và Toàn dụng là trạng thái vừa khó đạt được và cũng không hẳn là hoàn toàn có lợi. Điều này có nghĩa là nền kinh tế luôn tìm cách cân bằng giữa mức tiền lương mà người lao động mong muốn và mức tiền lương mà doanh nghiệp sẵn sàng trả (mô hình cung cầu cơ bản).
Nếu như tỷ suất thất nghiệp giảm thì sẽ có rất ít nhân sự tìm việc, do đó những doanh nghiệp càng khó khăn vất vả trong việc thuê thêm để lan rộng ra kinh doanh thương mại, sự khan hiếm về nhân công sẽ đẩy giá lao động lên cao. Tại điểm này, những doanh nghiệp không trả được mức lương mà công nhân đó yên cầu, do đó họ sẽ quyết định hành động không tuyển thêm nữa .
Tiền lương hoàn toàn có thể được hiểu theo hai góc nhìn “ trong thực tiễn ” và “ danh nghĩa ”. Tiền lương thực tế có tính đến sự ảnh hưởng tác động của lạm phát kinh tế, trong khi đó tiền lương danh nghĩa không tính đến tác nhân này .
Đối với Keynes, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn vất vả trong việc đàm phán với công nhân để cắt giảm tiền lương thực tế và nó chỉ hoàn toàn có thể xảy ra nếu có sự sụt giảm tiền lương trong hàng loạt nền kinh tế tài chính hay Open giảm phát khiến cho công nhân hoàn toàn có thể sẽ đồng ý việc cắt giảm tiền lương. Để tăng tỷ suất việc làm, lương thực tế ( đã tính đến yếu tố lạm phát kinh tế ) phải giảm theo. Tuy nhiên điều này hoàn toàn có thể dẫn đến một cuộc suy thoái và khủng hoảng nặng hơn, tâm ý bồn chồn và sự sụt giảm trong tổng cầu. Thêm vào đó, Keynes cũng đã đưa ra giả thuyết rằng tiền lương và giá thành phản ứng chậm với những đổi khác trong cung và cầu. Một giải pháp được đưa ra đó là sự can thiệp trực tiếp của chính phủ nước nhà .
Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn