THIẾT LẬP MỤC TIÊU VÀ CHỈ TIÊU SAU KHI KẾT THÚC MỘT CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản rất đầy đủ của tài liệu tại đây ( 827.71 KB, 80 trang )

Luận văn thạc sỹ

Trang 9

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

ít nhất một người được làm cho tốt hơn và không ai bị làm nghèo đi (1896).

Tiêu chí này có sức hấp dẫn đáng kể. Nhưng hầu như không có chính sách

công cộng nào đáp ứng các thử nghiệm là cải thiện Pareto thực sự, bởi vì khi

một chính sách công cộng được đưa ra thì chắc chắn có một số người trong xã

hội sẽ bị làm cho nghèo đi. Gần 50 năm sau đó, Nicholas Kaldor (1939) và

John Hicks (1939) mặc nhiên công nhận một tiêu chí thực dụng hơn đó là xác

định “sự cải thiện Pareto tiềm năng:”

Tiêu chuẩn này được định nghĩa như sau: Một chính sách công cộng

được xác đinh như là cải thiện phúc lợi nếu những người đạt được lợi ích từ

sự thay đổi chính sách có thể bù đắp hoàn toàn những kẻ thua cuộc, thậm chí

chỉ với (ít nhất) một người thắng cuộc sẽ vẫn tốt hơn là không ai thắng cuộc.

Tiêu chuẩn Kaldor-Hicks, một kiểm định xem liệu lợi ích toàn xã hội

có vượt quá chi phí toàn xã hội hay không, là nền tảng lý thuyết cho việc sử

dụng phương thức phân tích được gọi là lợi ích – chi phí (hoặc giá trị hiện tại

ròng) để phân tích. Cả tiêu chuẩn hiệu quả Pareto và tiêu chuẩn Kaldor-Hicks

đều không kêu gọi hỗ trợ cho bất kỳ chính sách nào mà lợi ích lớn hơn chi

phí. Thay vào đó, chìa khóa để xác định một chính sách có hiệu quả chính là

khoảng cách giữa lợi ích và chi phí là lớn nhất.

Nếu mục tiêu là để tối đa hóa khoảng cách giữa lợi ích – chi phí (lợi ích

ròng), khi đó

𝑁𝑁

𝑚𝑚𝑚𝑚𝑚𝑚 𝑞𝑞 𝑖𝑖 �[𝐵𝐵𝑖𝑖 (𝑞𝑞 𝑖𝑖 ) − 𝐶𝐶𝑖𝑖 (𝑞𝑞 𝑖𝑖 )] → 𝑞𝑞 ∗

𝑖𝑖

𝑖𝑖=1

(1)

là hàm lợi ích từ nguồn i; C i là hàm chi phí từ nguồn i; 𝑞𝑞 ∗ là mức độ hiệu quả

𝑖𝑖

Trong đó q i là khối lượng chất thải được xử lý của nguồn i (i=1-N); B i

R

R

R

R

R

R

của việc bảo vệ môi trường (xử lý chất thải ô nhiễm môi trường). Điều kiện

Học viên: Mai Thị Quyên

Lớp: CH17KT

Luận văn thạc sỹ

Trang 10

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

then chốt nổi bật lên từ việc tối đa hóa bài toán trong phương trình (1) là lợi

ích cận biên bằng với chi phí cận biên.

Tiêu chuẩn Kaldor-Hicks rõ ràng là thực tế hơn so với tiêu chuẩn

nghiêm ngặt của Pareto, nhưng thời gian tồn tại tiêu chuẩn của nó ít bền vững

hơn và đã bị bác bỏ từ nhiều phía khác nhau. Các câu hỏi đã được đặt ra về

việc liệu lợi ích và thiệt hại xã hội có thể được thể hiện thông qua sự kết hợp

đơn giản của việc thay đổi phúc lợi của các cá nhân. Do đó, lưu ý rằng tiêu

chuẩn Kaldor-Hicks không được coi là điều kiện cần cũng như điều kiện đủ

để đưa ra một chính sách công.

Trong những năm gần đây đã có nhiều cuộc tranh luận giữa các nhà

kinh tế với nhau và giữa các nhà kinh tế với những người có liên quan mật

thiết khác về ý nghĩa của việc thường xuyên sử dụng khái niệm “tính bền

vững”. Phát triển bền vững, là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát

triển: Kinh tế tăng triển bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định,

văn hóa đa dạng và môi trường trong lành, tài nguyên được duy trì bên vững.

Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên tắc đạo đức cho phát triển bền vững

bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế chân kiềng”

kinh tế, xã hội, môi trường.

Học viên: Mai Thị Quyên

Lớp: CH17KT

Luận văn thạc sỹ

Trang 11

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Hình 2.1. Kinh tế – Xã hội – Môi trường trong phát triển bên vững

– Công bằng xã hội

– Công bằng giữa các thế hệ

– Đời sống được nâng cao

– Xã hội đoàn kết

Xã hội

Kinh tế

Môi trường

– Kinh tế tăng trưởng

cao

– Tài nguyên thiên nhiên

giàu có

– Hiệu quả kinh tế lơn

– Môi trường sống trong

lành

– Tiết kiệm tài nguyên

– Môi trường sản xuất

thuận lợi hơn và phù

hợp với trình độ sản

xuất

Sinh thái học và nhiều ngành bên ngoài nền kinh tế khác đã đưa tính

bền vững là tiêu chí duy nhất và toàn diện nhất mà có thể nên hướng đến phát

triển toàn cầu. Ngược lại, các nhà kinh tế có xu hướng xác định tính bền vững

chỉ là sự công bằng giữa các thế hệ. Như vậy, hầu hết các nhà kinh tế chỉ xem

tính bền vững như là một yếu tố để phát triển hướng đi như mong muốn.

2.2.2. Phân tích lợi ích – chi phí của việc điều chỉnh môi trường

Trong khi khái niệm đơn giản, tính đúng đắn của thực nghiệm phân tích

lợi ích – chi phí dựa trên những ước lượng đáng tin cậy sẵn có của các lợi ích

và chi phí xã hội, bao gồm ước lượng tỷ lệ chiết khấu xã hội.

2.2.2.1. Chiết khấu:

Các quyết định được đưa ra hôm nay đều có tác động cả trong hiện tại

và tương lai. Trong lĩnh vực môi trường, nhiều ảnh hưởng của tương lai là từ

việc cải tiến chính sách, và như vậy trong bối cảnh này, lợi ích cũng như chi

phí trong tương lai của các chính sách đã bị chiết khấu. Giá trị hiện tại của lợi

ích ròng (PVNB) được định nghĩa như sau:

Học viên: Mai Thị Quyên

Lớp: CH17KT

Luận văn thạc sỹ

Trang 12

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Nếu mục tiêu là để tối đa hóa khoảng cách giữa lợi ích và chi phí (lợi

ích ròng), thì mức độ liên quan đến bảo vệ môi trường (xử lý chất thải ô

nhiễm) được định nghĩa là hiệu quả mức độ bảo vệ:

𝑃𝑃𝑃𝑃𝑃𝑃𝑃𝑃 = � 𝑡𝑡=0{(Bt − Ct ). (1 + r)−t }

𝑇𝑇

(2)

Trong đó B t là lợi ích tại thời điểm t, C t là chi phí tại thời điểm t, r là tỷ

R

R

R

R

lệ chiết khấu và T là năm phân tích cuối cùng. PVNB có giá trị dương nghĩa

là chính sách hoặc dự án đó có tiềm năng để mang lại hiệu quả Pareto (thỏa

mãn tiêu chuẩn Kaldor–Hicks). Do đó, thực hiện phân tích lợi ích – chi phí

hoặc giá trị hiện tại dòng (NPV) đòi hỏi giá trị chiết khấu làm dịch chuyển các

tác động trong tương lai sang những giá trị tương đương mà có thể được so

sánh. Về bản chất, tiêu chuẩn Kaldor–Hicks cung cấp cơ sở hợp lý cho việc

phân tích lợi ích – chi phí và chiết khấu.

2.2.2.2. Khái niệm lợi ích và phân loại

Nếu một sự thay đổi của môi trường có ý nghĩa với bất kỳ ai đó trong

hiện tại hoặc tương lai thì nó sẽ xuất hiện trong một đánh giá kinh tế. Môi

trường có thể được coi như là một dạng tài sản tự nhiên cung cấp các luồng

dịch vụ được sử dụng bởi con người trong việc sản xuất hàng hóa và dịch vụ,

chẳng hạn như: Sản lượng nông nghiệp, sức khỏe con người, giải trí và nhiều

hàng hóa vô định khác như chất lượng cuộc sống.

Bảo vệ môi trường thường đòi hỏi nhữngviệc làm thiết thực của vốn,

lao động và các nguồn lực khan hiếm khác. Sử dụng các nguồn lực này để bảo

vệ môi trường có nghĩa là chúng không sẵn có để được sử dụng vào những

mục đích khác. Do đó, khái niệm kinh tế của các giá trị hoặc lợi ích của hàng

hóa và dịch vụ môi trường được diễn đạt bằng thuật ngữ sự sẵn sàng của xã

hội để thực hiện một sự đánh đổi giữa việc sử dụng cạnh tranh những nguồn

lực hạn chế, và thuật ngữ sự sẵn sàng của các cá nhân để thực hiện những

Học viên: Mai Thị Quyên

Lớp: CH17KT

Luận văn thạc sỹ

Trang 13

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

đánh đổi này. Vì vậy, những lợi ích của một chính sách môi trường được định

nghĩa là một tập hợp sự sẵn lòng chi trả của các cá nhân (WTP) cho việc giảm

hoặc ngăn ngừa những thiệt hại của môi trường hoặc sẵn lòng chấp nhận bồi

thường của các cá nhân (WTA) để chịu đựng các thiệt hại môi trường như thế.

Những lợi ích mang lại cho con người từ việc bảo vệ môi trường là rất

nhiều và đa dạng. Dưới góc độ sinh lý, lợi ích như vậy có thể được phân loại

như là liên quan đến sức khỏe con người (tỷ lệ tử vong và bệnh tật), các tác

động sinh thái (cả thị trường và phi thị trường) hoặc thiệt hại về vật chất. Từ

góc độ kinh tế, một sự phân biệt quan trọng là giữa giá trị sử dụng và giá trị

không sử dụng. Ngoài những lợi ích trực tiếp (giá trị sử dụng) mà con người

nhận được thông qua bảo vệ sức khỏe của họ hoặc thông qua việc sử dụng tài

nguyên thiên nhiên, người ta cũng nhận được giá trị thụ động hoặc không sử

dụng từ chất lượng môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực sinh thái. Ví dụ, một

cá nhân có thể coi trọng một sự thay đổi tốt cho môi trường vì bởi vì người đó

muốn giữ gìn các tùy chọn để sử dụng trong tương lai hoặc bởi vì người đó

mong muốn những người thừa kế của mình được hưởng môi trường trong

sạch. Vẫn còn những người khác mà họ không sử dụng một trong những lợi

ích từ môi trường trong hiện tại hoặc tương lai cho bản thân hoặc người thừa

kế, nhưng họ vẫn muốn bảo vệ môi trường vì họ tin rằng môi trường cần được

bảo vệ hoặc đơn giản họ cảm thấy hài lòng khi biết những gì của ngày hôm

nay vẫn còn tồn tại cho đến ngày mai.

2.2.2.3. Khái niệm chi phí và phân loại

Khái niệm về chi phí trong bối cảnh môi trường, hay chính xác hơn, chi

phí cơ hội, là một thước đo giá trị của bất cứ điều gì phải hy sinh để ngăn

ngừa hoặc làm giảm nguy cơ của một tác động môi trường. Do đó, chi phí của

các chính sách môi trường là những lợi ích xã hội bị bỏ qua do sử dụng các

Học viên: Mai Thị Quyên

Lớp: CH17KT

Luận văn thạc sỹ

Trang 14

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

nguồn lực khan hiếm cho các mục đích chính sách môi trường, thay vì đưa

những nguồn lực đó để sử dụng tốt nhất tiếp theo

2.2.3. Các phương pháp tiếp cận khác để phân tích mục tiêu của chính

sách môi trường

Những nhà quản lý và các nhà nghiên cứu đã đề xuất ra các tiêu chí ước

lượng khác mà có thể đánh giá được các chính sách môi trường. Một cách tiếp

cận, phản ánh cách diễn giải phổ biến của Đạo luật không khí sạch và một vài

bộ luật môi trường khác, đã được khẳng định chỉ dựa vào thông tin của khoa

học tự nhiên để xác định các chính sách mà loại trừ hoàn toàn những rủi ro

môi trường hoặc giảm rủi ro đến mức được coi là chấp nhận được.

Ví dụ, đạo luật Không khí sạch là một trong số những văn bản pháp lý

liên quan đến việc giảm ô nhiễm khói và không khí nói chung. Chính phủ sử

dụng đạo luật này để thực thi các tiêu chuẩn không khí sạch, điều này đã góp

phần cải thiện sức khỏe con người và kéo dài tuổi thọ. Nhưng kể từ khi ô

nhiễm môi trường không có khả năng biểu lộ ngưỡng sạch dưới đây:

Phân tích y tế – sức khỏe là một phương pháp để đánh giá tính kinh tế

của chính sách y tế và các quy định an toàn. Đó là một bước đi xa hơn bằng

cách cố gắng xác định số lượng tài nguyên và chi phí cơ hội, dựa trên quan

điểm cho rằng chi tiêu cho các chương trình điều tiết mà nguồn lực là từ các

cá nhân, khiến họ chi tiêu ít hơn cho an toàn và chăm sóc sức khỏe, do đó làm

tăng tỷ lệ mắc bệnh và/hoặc rủi ro tỷ vong. Như vậy, lợi ích y tế công cộng bị

tương phản với những ảnh hưởng tiêu cực tới sức khỏe. Phân tích y tế – sức

khỏe cung cấp một thước đo “lợi ích ròng” (người được cứu sống), nhưng

phương pháp phân tích này bị một số hạn chế nghiêm trọng đó là: Nó không

bao gồm các lợi ích khác ngoài việc giảm bớt các rủi ro; mỗi cá nhân chỉ phải

trích ra một tỷ lệ phần trăm ngân sách tương đối nhỏ để điều chỉnh môi

Học viên: Mai Thị Quyên

Lớp: CH17KT

Luận văn thạc sỹ

Trang 15

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

trường nghĩa là có thể không có ảnh hưởng nào đáng kể đến chi tiêu y tế cá

nhân, và phân tích chính xác phụ thuộc vào nhiệm vụ khó khăn là đánh giá

mối quan hệ phức tạp giữ sự đánh đổi thu nhập cận biên và rủi ro về sức khỏe.

Phân tích phân phối cung cấp một cách tiếp cận khác để phân tích các

mục tiêu kinh tế của chính sách môi trường. Phân tích lợi ích – chi phí chỉ tập

trung vào tổng lợi ích ròng, và không đưa vào bản báo cáo hiệu quả phân phối

của các chính sách. Tuy nhiên, vấn đề về phân phối phát sinh trong cả hai mặt

lợi ích và chi phí tính toán, và xuất hiện cùng một số chiều, bao gồm: Phân

tích chéo (như đặc điểm địa lý, thu nhập, chủng tộc, khu vực, và công ty) và

tính liên thời gian (chẳng hạn như theo mùa, hàng năm, dài hạn, và giữa các

thế hệ). Phân bổ vốn chủ sở hữu có thể là một sự xem xét mang tính xã hội

quan trọng, đặc biệt là trong vấn đề tác động đến những người có thu nhập

khác nhau, và hai phương pháp tiếp cận đến vấn đề này xứng đáng được đề

cập đến: Phân tích lợi ích – chi phí theo trọng số phân phối và phân tích phân

phối riêng biệt.

Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế không ủng hộ việc cố gắng để kết

hợp các cân nhắc phân phối vào phân tích lợi ích – chi phí, nhưng họ khuyên

nên sử dụng riêng biệt phân tích phân phối như là một phần phụ để phân tích

lợi ích – chi phí tiêu chuẩn như: phân tích phân phối có thể kiểm tra tác động

đến nhóm dân số, cũng như phân phối thu nhập hoặc của cải của các quốc gia.

Các nhóm dân số thường xuyên được xem xét trong bối cảnh chính sách bao

gồm các thành phần kinh tế, chính phủ, người tiêu dùng, người già và trẻ em.

Phân tích phân phối cũng có thể báo cáo về tiềm năng thay đổi lợi nhuận của

các công ty, thay đổi việc làm, đóng cửa nhà máy, thay đổi doanh thu, chính

phủ và tính cạnh tranh của ngành công nghiệp.

Học viên: Mai Thị Quyên

Lớp: CH17KT

Luận văn thạc sỹ

Trang 16

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

2.3. CÁC VẤN ĐỀ THỰC CHỨNG VÀ PHÂN TÍCH

Với những cải tiến phúc lợi mà việc làm của các tiêu chí hiệu quả và

phương pháp đánh giá có liên quan trong phương pháp phân tích lợi ích – chi

phí có thể mang lại chính sách môi trường, đó là hợp lý để yêu cầu việc tiếp

nhận nào trong ba ngành của chính phủ là hành pháp, lập pháp, và tư pháp sử

dụng các công cụ phân tích này.

2.3.1. Ban hành luật pháp

Trong những năm qua, Quốc hội đã gửi những tín hiệu lẫn lộn về việc

sử dụng các phân tích lợi ích – chi phí trong việc đánh giá chính sách. Một số

quy chế thực sự đòi hỏi việc sử dụng các phân tích lợi ích – chi phí, trong khi

những số khác đã được giải thích để loại trừ có hiệu quả việc xem xét các lợi

ích và chi phí trong việc phát triển của một số quy định nhất đinh. Nhưng điều

này đã không ngăn cản cơ quan quản lý xem xét lợi ích và chi phí trong đề

xuất của họ.

Mặc dù lập luận như vậy, phân tích lợi ích – chi phí chính thức đã

không thường xuyên được sử dụng để giúp thiết lập tính chặt chẽ của tiêu

chuẩn môi trường. Nhà nước đã ủng hộ một tập hợp các phương pháp tiếp cận

để thiết lập các tiêu chuẩn khác nhau, chẳng hạn như Đạo luật không khí sạch.

Các nhà kinh tế và một số học giả đã dành rất nhiều thời gian tranh luận rằng

tiêu chí như vậy là không hợp lý cũng không được định rõ.

2.3.2. Nhận biết pháp lý

Ngành tư pháp cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy

hơn nữa việc sử dụng các phương pháp phân tích để hỗ trợ các cơ quan đưa ra

quyết định. Những quy tắc mặc định này yêu cầu cơ quan hành chính xem xét

các chi phí quy định khi ban hành các quy định và phản ánh một sự chấp nhận

pháp lý rộng rãi của việc phân tích lợi ích – chi phí trong quản lý luật lệ.

Học viên: Mai Thị Quyên

Lớp: CH17KT

Luận văn thạc sỹ

Trang 17

Ngành: Kinh tế TNTN&MT

2.3.3. Sắp đặt tiêu chuẩn

Tại sao việc sử dụng các kỹ thuật phân tích không trở nên phổ biến hơn

trong chính sách môi trường? Thay vì tại sao Quốc hội tiếp tục làm luật

thường xuyên mà không liên quan đến lợi ích và chi phí?

Đầu tiên, một số quy định cho phép các doanh nghiệp được thành lập

để trục lợi và thiết lập các rào cản nhập ngành để truyền cho họ một lợi thế

cạnh tranh. Ví dụ, tiêu chuẩn chỉ huy và kiểm soát giới hạn tổng lượng xả thải

của một doanh nghiệp có thể là nguyên nhân để các doanh nghiệp làm giảm

sản lượng của họ để đáp ứng yêu cầu môi trường. Việc hạn chế đầu ra có thể

đẩy giá sản phẩm của doanh nghiệp cao hơn chi phí trung bình của nó, và kết

quả là, doanh nghiệp có thể kiếm được chênh lệch. Sự cạnh tranh mạnh mẽ sẽ

tiêu tan tiền chênh lệch này, nhưng các quy định về môi trường thường tạo ra

các rào cản gia nhập thị trường bằng cách áp đặt các tiêu chuẩn khí thải

nghiêm ngặt đối với các doanh nghiệp mới, do đó đưa ra một lợi thế cạnh

tranh cho các doanh nghiệp.

Thứ hai, thậm chí nếu các quy định môi trường không làm tăng lợi

nhuận của toàn bộ một ngành công nghiệp, nó có thể mang lại lợi ích cho các

doanh nghiệp nhất định trong một ngành công nghiệp. Các doanh nghiệp

trong một ngành công nghiệp có khả năng sẽ phải chịu những chi phí khác

nhau trong các yêu cầu pháp lý, bởi vì một số doanh nghiệp sẽ có thể điều

chỉnh quá trình sản xuất của họ dễ dàng hơn những số khác.

Thứ ba, động lực để đưa ra các quy định đôi khi đến từ các nhà sản

xuất thiết bị kiểm soát ô nhiễm, công nghệ thân thiện với môi trường, hoặc

các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất được ưu tiên bởi chế độ quản lý. Ví

dụ, các công ty chuyên về dọn dẹp các khu vực có rác thải nguy hại đã xuất

hiện để đáp ứng nhu cầu của làm sạch môi trường.

Học viên: Mai Thị Quyên

Lớp: CH17KT

Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn