‘Lễ hội’, hay ‘Lễ’ và ‘Hội’ – vài lời bàn góp
Dĩ nhiên là tôi đang nói tới lễ hội truyền thống (chứ không phải loại lễ hội xuất hiện mới đây) và là lễ hội của dân gian (chứ không phải loại lễ hội do nhà nước hoặc các chính quyền địa phương chế định, tổ chức). Lễ hội truyền thống dân gian Việt Nam, như ta biết, đa phần là lễ hội làng và thường diễn ra tại không gian trung tâm/ không gian thiêng của làng. Về thời gian, lễ hội truyền thống dân gian thường được tổ chức vào mùa xuân. Những dấu chỉ về không gian và thời gian như thế cho thấy, lễ hội không phải một loại hoạt động có tính chất bình thường, hàng ngày. Nó thuộc về một không gian/ thời gian khác: không gian/ thời gian của lễ và hội. “Lễ” và “Hội”. “Lễ” hoặc “Hội”.
Bạn đang đọc: ‘Lễ hội’, hay ‘Lễ’ và ‘Hội’ – vài lời bàn góp
Chính xác là người rất lâu rồi đã dùng, tùy từng trường hợp đơn cử, chỉ một trong hai từ này mà thôi, để gọi tên những hoạt động giải trí mà người ngày này đang có thói quen gộp chung ( một cách khá hồ đồ, không rõ tại sao ? ) bằng cái từ ghép “ Lễ hội ”. Người xưa nói “ lễ khai ấn Đền Trần ”, “ hội Phủ Dày ”, “ lễ đâm / tế trâu ”, “ hội Lim ”, “ lễ tịch điền ”, “ hội Chùa Hương ”, “ lễ giỗ ( quốc ) tổ Đền Hùng ”, “ hội làng Tứ Xã ” v.v … Hoặc là “ Lễ ” hoặc là “ Hội ”. Rõ ràng, rành mạch, chứ không “ Lễ hội ” theo kiểu tùy tiện và đầy niềm tin nhập nhằng như giờ đây. Không có ý hậu cổ bạc kim, tuy nhiên theo quan điểm của tôi, người xưa mới là “ bên có lý ” trong câu truyện này. Vấn đề không chỉ là phải “ gọi sự vật bằng đúng tên của nó ” ( như F. Engels từng nhấn mạnh vấn đề ), mà điều quan trọng ở chỗ là bằng cách gọi tên ấy – “ Lễ ” hoặc “ Hội ” – người xưa đã xác lập và thông tin cho ta biết cái gì mới là phần trọng tâm, là nội dung đa phần trong cấu trúc toàn diện và tổng thể của hoạt động giải trí đang diễn ra kia, “ lễ ” hay “ hội ” ?
Hãy trở lại với mô hình “chuẩn” của lễ hội truyền thống dân gian – tôi dùng từ “Lễ hội” ở đây như một cách định danh đối tượng về mặt loại hình học chứ không nhằm gọi tên một hoạt động cụ thể nào đó – ta sẽ thấy có hai phần theo thứ tự trước sau: phần Lễ và phần Hội. Nếu có thể xếp Lễ vào phạm trù cái trang nghiêm, biểu hiện cho lòng thành kính của con người trước thần thánh, thì Hội chính là phần thuộc về phạm trù suồng sã, biểu hiện cho sức sống và tinh thần vui sống, ham sống của con người giữa cuộc đời trần tục. Trên thực tế của lễ hội truyền thống dân gian Việt Nam, hai phần Lễ và Hội thường không cân phân, cho dẫu giữa chúng luôn tồn tại những liên hệ không thể tách rời. Chỉ ở một số ít lễ hội nhấn mạnh phần Lễ, còn đại đa số nhấn mạnh vào phần Hội – gọi lễ hội nào đấy là “Lễ” hay “Hội” hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhấn mạnh này – và nhìn từ góc độ tâm lý của người tham gia lễ hội, có thể nói rằng họ thường mong cho chóng qua phần Lễ để nhập cuộc phần Hội, để được vui chơi, được phóng xả và qua đó được tái tạo năng lượng cho cuộc sống tiếp theo.
Làm cho rõ sự khác biệt này không hề là chuyện duy danh định nghĩa vô ích, nhất là trong bối cảnh đời sống xã hội hiện nay, khi rất nhiều lễ hội truyền thống dân gian được khôi phục sau một quãng thời gian dài tưởng như đã bị lãng quên. Theo tôi, chính vì nhồi nhét tất cả lễ hội truyền thống dân gian vào một rọ gọi là “Lễ hội” và không cần nhận thức cho đúng nó là “Lễ” hay là “Hội” mà các nhà quản lý văn hóa mới lúng túng như gà mắc tóc, còn dư luận xã hội mới chia năm xẻ bảy để nhiều phen chát chúa với nhau và với lễ hội (nói chung) theo một cách chưa hẳn đã thỏa đáng. Nếu nó là “Lễ” – trong khuôn khổ có hạn của một bài báo, tôi sẽ chỉ đề cập trường hợp “Lễ”, còn “Hội” xin để giành khi khác – nên khôi phục toàn bộ phần nghi thức cúng tế tôn vinh và phần mô phỏng/ nhắc lại những sự tích, những hành trạng của vị thần chủ tể, không thêm vào hay bớt đi, cũng không được làm méo mó sai lạc ý nghĩa ban đầu của Lễ. Lễ khai ấn Đền Trần bị dư luận lên án dữ dội – và là lên án đúng – chính bởi những người tổ chức đã phạm vào cấm kỵ này. Xưa, người ta khai ấn, phát ấn Đền Trần là để hướng tới những nội dung nhân văn tốt đẹp. Nay, người ta đẻ ra việc cướp ấn rồi bán ấn Đền Trần, là cốt để kiếm lợi từ lòng tham và sự mê muội vào cái hào quang công danh của đám người dự lễ đang lúc nhúc dẫm đạp nhau kia. Việc bán ấn, cướp ấn cần phải xóa bỏ. Thế nhưng, với một số Lễ khác, như Lễ tế trâu đền Đông Cuông (Yên Bái) hay Lễ chém lợn làng Ném Thượng (Bắc Ninh) thì sao?
Câu chuyện khá rắc rối khi những người phản đối nghi thức “ đâm, chém ” đã sử dụng những tiêu chuẩn của xã hội văn minh tân tiến làm vũ khí. Họ cho rằng những đâm những chém những con vật là hủ tục, là hành vi dã man, là sự kích động đấm đá bạo lực và hoàn toàn có thể làm dậy lên máu cuồng sát so với những người dự lễ. Họ nhu yếu phải giảm thiểu nghi thức bằng cách làm thế nào đó cho con vật hiến sinh được … chết nhẹ nhàng hơn, hoặc giả nếu vẫn muốn đâm muốn chém thì hãy triển khai việc ấy ở những nơi khuất con mắt bàn dân thiên hạ để tránh những ảnh hưởng tác động thị giác xấu đi. Theo tôi, ở đây ta chỉ có một trong hai lựa chọn : a ) Nếu những nghi thức “ đâm, chém ” con vật hiến sinh trong những Lễ ấy là sự vi phạm những nguyên tắc lao lý và đạo đức của xã hội văn minh, cần phải khai tử chính bản thân Lễ. Và b ) Nếu còn hoàn toàn có thể giữ lại Lễ, hãy giữ lại trong tính toàn vẹn của nó. Bởi những nghi thức “ đâm, chém ” ấy, mặc cho ấn tượng hình ảnh gây sốc mà nó tạo ra so với người quan sát, chính là những tượng trưng có nối kết sâu xa và bền chặt với niềm tin, với sự kính ngưỡng của con người trước thần thánh, cái nhờ đó mà hoạt động giải trí Lễ hình thành. Giả sử, thay vì “ đâm, chém ”, người ta dí điện hoặc dìm nước con vật ; thay vì hóa kiếp chúng trước sân đình, người ta giết chúng ở phía sau đình, thì không gì khác, ấy chính là lúc mà Lễ đã bị xuyên tạc ! ( Hẳn tất cả chúng ta còn chưa quên lời than của đức Khổng Tử khi có kẻ ý kiến đề nghị ngài bớt con dê ra khỏi lễ tế : ngươi tiếc con dê của ngươi, còn ta thì tiếc Lễ của ta ). Vả lại, đây là quan điểm của riêng tôi, hình như những người phản đối “ đâm, chém ” đã, vô tình hoặc cố ý, quên không hỏi xem những cộng đồng cư dân chủ thể của Lễ có “ đâm, chém ” kia nghĩ gì, có thấy nghi thức “ đâm, chém ” nọ là dã man và mang hiệu ứng kích động đấm đá bạo lực hay không ? Sự “ quên ” ấy, phải chăng hoàn toàn có thể gọi là thói áp đặt văn hóa truyền thống, là cái ý thức “ dĩ ngã vi trung ” rất đáng ghét ? Thêm nữa, liệu có ai dám đoan quyết rằng con người rồi sẽ hiền hòa hơn, sẽ đối xử với nhau tử tế hơn, xã hội rồi sẽ bớt đấm đá bạo lực hơn nếu cái nghi thức “ đâm, chém ” mỗi năm chỉ diễn ra một lần kia được / bị triệt tiêu trong Lễ ? Bắt một nghi thức tế lễ vốn có từ truyền kiếp phải chịu nghĩa vụ và trách nhiệm về những cái tệ lậu của đời sống hiện tại, xem ra sẽ chẳng yếu tố nào được xử lý cả : Lễ thì bị mất hoặc bị xuyên tạc, còn đấm đá bạo lực xã hội ắt vẫn cứ sống sót sờ sờ ra đấy. Trong một toàn cảnh như vậy, việc chính quyền sở tại những địa phương can thiệp vào liên hoan truyền thống cuội nguồn dân gian bằng những pháp luật hành chính, xem ra, là do không chịu được sức ép của dư luận xã hội, đặc biệt quan trọng là thư dư luận ầm ào của … hội đồng facebook. Và do đó, thật oái oăm, câu hỏi của facebooker, nhà thơ, dịch giả Hồng Thanh Quang : “ Lễ hội được làm ra để người ta tham gia, hay liên hoan được làm ra để người ta đứng ngoài nhìn vào rồi bình phẩm ? ”, là một câu hỏi tưởng như bâng quơ nhưng rất đáng để người chăm sóc thực sự đến tiệc tùng truyền thống cuội nguồn dân gian phải dừng lại, suy ngẫm .
Source: https://evbn.org
Category : Lễ Hội