Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong cách mạng dân tộc, dân chủ | Tạp chí Quản lý nhà nước

(Quanlynhanuoc.vn) – Sau một thế kỷ, nhìn lại thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin (tháng 7/1920), chúng ta càng thấy tầm vóc lớn lao và ý nghĩa lịch sử vĩ đại của sự kiện này. Chủ nghĩa Mác – Lênin đã soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, mở ra thời đại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã vận dụng trung thành, sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, trong đó nổi bật là tư tưởng về giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc.

 

1. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trước sự xâm lược của thực dân Pháp, xã hội nước ta bị phân hóa mạnh mẽ. Giai cấp công nhân và giai cấp tư sản lần lượt ra đời, các mâu thuẫn của xã hội Việt Nam – xã hội thuộc địa nửa phong kiến ngày càng diễn ra gay gắt, trong đó, nổi bật là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Sự thống trị, áp bức, bóc lột, sự chà đạp quyền độc lập dân tộc càng tăng thì sự phản kháng của dân tộc và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc càng quyết liệt. Mặc dù các tổ chức, các hội, đảng chính trị lần lượt ra đời và vươn lên giành ngọn cờ lãnh đạo phong trào dân tộc, song tất cả đều lần lượt thất bại, cách mạng nước ta rơi vào khủng hoảng về đường lối.

Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu) đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau gần một thập kỷ, Người đã tiếp cận được chân lý – chủ nghĩa Mác-Lênin và rút ra kết luận: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác cách mạng vô sản, vì “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”1.

Trong Chính cương thành lập Đảng (năm 1930), Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”2. Đây chính là tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Vì vậy, đánh đổ đế quốc và địa chủ phong kiến giành độc lập dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là mục tiêu của cách mạng Việt Nam.

Xã hội Việt Nam trong những thập kỷ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn dân tộc với thực dân Pháp và bè lũ tay sai; mâu thuẫn giữa nhân dân lao động với địa chủ phong kiến. Hồ Chí Minh đã phát hiện ra những nét đặc thù của Việt Nam so với các quốc gia khác, đặc biệt là các nước phương Tây. Nếu như ở phương Tây, mâu thuẫn giai cấp đã trở nên sâu sắc thì ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với chủ nghĩa thực dân Pháp và bè lũ tay sai là mâu thuẫn hàng đầu.

Vì vậy, Người cho rằng, trong hai nhiệm vụ đánh đổ đế quốc và đánh đổ phong kiến, cần tập trung cho nhiệm vụ đánh đổ đế quốc giành độc lập dân tộc, còn đánh đổ phong kiến thực hiện sau. Với mục tiêu tập trung lực lượng để chống kẻ thù số một của dân tộc, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân chia giai cấp, nghĩa là sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Xuất phát từ lợi ích, truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, đây chính là cội nguồn để toàn thể nhân dân Việt Nam muôn người như một chống lại kẻ thù chung, giành độc lập cho dân tộc.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quá trình tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” đều phản ánh lợi ích chung, nguyện vọng chung của toàn dân tộc, đều nhằm vào kẻ thù chủ yếu lúc này là thực dân Pháp và bọn tay sai phản động. Còn giải quyết mâu thuẫn giai cấp, đánh đổ phong kiến sẽ thực hiện sau khi dân tộc đã được độc lập, giành lấy dân chủ và đi lên CNXH, chủ nghĩa cộng sản. Quan điểm này được Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định về sau, trong Báo cáo của Việt Nam gửi Quốc tế Cộng sản (tháng 7/1940) chỉ rõ: dù là sĩ, nông, công, thương, ai cũng căm ghét ách thống trị của người Pháp, ai cũng muốn giành lại độc lập dân tộc, do đó, “nhân dân Việt Nam tuy hiện nay chưa được tổ chức, nhưng ai cũng chán ghét cuộc đời nô lệ, ai cũng mong muốn được độc lập, tự do, và đang trong tư thế một người lên tiếng vạn người ủng hộ”4.

Ở đây, cần nhấn mạnh rằng, khi chủ nghĩa đế quốc câu kết với bọn phong kiến phản động thì nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên hàng đầu, nhưng không phải vì thế mà hiểu đơn thuần là chỉ chống đế quốc mà còn bao hàm trong đó chống lại bộ phận phong kiến phản động, vấn đề là “chống phong kiến nhưng không làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ chống đế quốc”. Mặt khác, chống đế quốc và bọn phong kiến phản động mang lại độc lập cho dân tộc và một phần ruộng đất cho dân cày cũng đã thể hiện bao hàm nội dung dân chủ, đó là tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh trong việc xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam ở thời điểm này.

Tuy nhiên, Quốc tế Cộng sản trong quá trình chỉ đạo phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa lại có một số quan điểm khác biệt. Điều này được thể hiện rõ qua bản Đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa do Kunxinen đại diện cho Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản trình bày tại Đại hội lần thứ VI của Quốc tế Cộng sản (năm 1928). Về vấn đề quan hệ dân tộc và giai cấp, phản đế và phản phong thì Quốc tế Cộng sản cho rằng, mấu chốt của cách mạng dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa là ruộng đất, do đó, trong quá trình cách mạng, nhiệm vụ dân chủ phải được tiến hành “song song với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc”5.

Tuy nhiên, rõ ràng trong thời điểm đó, ở các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng, không thể đặt nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến song song, cũng như không thể coi cách mạng ruộng đất là vấn đề mấu chốt của cách mạng dân chủ tư sản trong khi chưa giành được độc lập dân tộc. Sau này, chính Kunxinen thừa nhận: ngay từ khi Đề cương ra đời, một số nhận định đã mang màu sắc của chủ nghĩa biệt phái trên một mức độ nhất định6.

2. Từ nhận thức về đối tượng của cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam – khi Người phân tích, đánh giá vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp trong cách mạng, đặc biệt là thái độ của các giai cấp đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc đã ăn sâu, bám chặt vào quần chúng trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, chính vì điều đó mà ngay cả các nhà tư sản dân tộc, thậm chí những người đứng đầu của chế độ phong kiến như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân… cũng nổi dậy chống lại sự xâm lược của thực dân Pháp.

Từ thực tiễn đó, với một nhãn quan chính trị nhạy bén, Hồ Chí Minh khi xem xét, đánh giá hai giai cấp đối lập với giai cấp công nhân và nông dân là giai cấp tư sản và địa chủ đã cho rằng, về lợi ích kinh tế thì tư sản và địa chủ là những giai cấp bóc lột, đối lập với lợi ích cơ bản của công nhân và nông dân. Nhưng xét về lợi ích dân tộc, trước hết là độc lập dân tộc thì tư sản và địa chủ là những giai cấp không thuần nhất. Một bộ phận đi hẳn về phía thực dân, đế quốc (tư sản mại bản hay “đại tư sản” và đại địa chủ), trong khi một bộ phận khác (tư sản dân tộc, phú nông, trung địa chủ, tiểu địa chủ, tiểu tư sản…) có thể đồng hành cùng dân tộc, họ “tuy hai mà một, một mà hai”7.

Chính vì vậy, Hồ Chí Minh chủ trương: chúng ta phải có thái độ khôn khéo, mềm dẻo, phải hết sức lôi kéo họ, thúc đẩy họ hành động nếu có thể, cô lập họ về chính trị nếu cần, chí ít là trung lập họ, “tránh hết sức để họ ra ngoài Mặt trận, vì như thế là đẩy họ rơi vào tay bọn phản động, là tăng thêm lực lượng cho chúng”8.

Trong khi đó, Quốc tế Cộng sản lại đối lập giai cấp công nhân, giai cấp nông dân với giai cấp tư sản và địa chủ phong kiến, không có sự phân hạng trong các giai cấp đó, mà cho rằng tất cả họ đều là phản động. Theo Quốc tế Cộng sản, giai cấp vô sản phải “đấu tranh triệt để và không khoan nhượng với bọn đế quốc, bọn địa chủ và giai cấp tư sản bản xứ”9. Còn đối với giai cấp địa chủ, không thể phân chia thành nhiều hạng, nhiều loại mà tất cả đều là đồng minh trực tiếp của đế quốc, vì vậy, sẽ là “sai lầm nguy hiểm khi phân chia địa chủ thành loại “tốt”và “xấu”10.

Quốc tế Cộng sản cho rằng, nếu địa chủ chui luồn được vào trong nông hội thì đó là nguy cơ lớn nhất của nông dân và cho cách mạng. Cho nên, phải “đuổi bọn địa chủ, quan lại, phú hào ra khỏi làng, chủ động tịch thu tài sản của địa chủ, phú hào và quan lại chia cho nông dân”11. Tuy nhiên, quan điểm này nếu được thực thi sẽ biến nhiều người là đồng minh của cách mạng hoặc chí ít là lực lượng trung lập trở thành kẻ thù của cách mạng. Điều đáng nói là, không chỉ riêng giai cấp tư sản và địa chủ mà ngay cả các tầng lớp khác trong xã hội như trí thức, tiểu tư sản cũng bị Quốc tế Cộng sản nghi ngờ và cô lập họ, “đối với trí thức và tiểu tư sản, nếu như liên minh với họ là một sách lược sai lầm”12.

3. Thực tiễn cho thấy, từ khi V.I.Lênin qua đời (năm 1924), trong Quốc tế Cộng sản đã bắt đầu xuất hiện tư tưởng “tả khuynh”, tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, xem nhẹ, thậm chí coi thường vấn đề dân tộc, thuộc địa. Tại Đại hội lần thứ V (năm 1924), Hồ Chí Minh đã phê phán thái độ thờ ơ, xem thường vấn đề dân tộc và thuộc địa của nhiều Đảng Cộng sản chính quốc cũng như trong Quốc tế Cộng sản. Đồng thời, Người nhắc nhở những đại biểu tham dự Đại hội hãy tỏ rõ mình là học trò của Lênin, không được quên di huấn của Người: “Chúng ta tự coi mình là học trò của Lênin, cho nên chúng ta cần phải tập trung hết tất cả sức lực và nghị lực để thực hiện trên thực tế những lời di huấn quý báu của Lênin đối với chúng ta về vấn đề thuộc địa cũng như các vấn đề khác”13.

Phong trào cách mạng Việt Nam, cách mạng thế giới đã chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc đề ra chiến lược và sách lược cách mạng. Từ những bài học kinh nghiệm cách mạng nước ta cũng như nhu cầu thực tiễn đòi hỏi những người cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dương phải từng bước vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh trong việc xác định đối tượng, nhiệm vụ và động lực của cách mạng. Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh” ngày 08/11/1930 đã thể hiện việc từng bước từ bỏ tư tưởng “tả khuynh”. Chỉ thị khẳng định, để giành thắng lợi, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng tư sản dân quyền “phải tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông, thật kín”. Sau Chỉ thị này, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương còn ra một số chỉ thị khác phù hợp với quan điểm Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, sửa chữa, uốn nắn những thiếu sót, sai lầm.

Đặc biệt, tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa I (tháng 11/1939) đã đưa ra những dự báo về tiền đồ cách mạng, đòi hỏi “Đảng ta phải thay đổi chính sách”14, trong đó nhấn mạnh phải đưa vấn đề dân tộc thành vấn đề khẩn cấp rất quan trọng; đứng trên lập trường giải phóng dân tộc lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cách mạng, cả vấn đề cách mạng điền địa cũng phải nhằm vào mục đích ấy mà giải quyết. Bước đường sinh tồn của nhân dân Đông Dương không có con đường nào khác là con đường đánh đổ đế quốc Pháp để giành độc lập. Công nông phải giương cao ngọn cờ dân tộc, tất cả mọi hoạt động phải hướng vào mục tiêu “phản đế, giải phóng dân tộc”15. Việc giương cao ngọn cờ dân tộc không có nghĩa là bỏ vấn đề điền địa, phản phong. Đánh đổ thực dân Pháp gắn liền với đánh đổ vua chúa bản xứ, bọn tay sai cho đế quốc và bọn phản bội dân tộc là một phần của nhiệm vụ dân chủ.

Để phù hợp với tình hình mới, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, thay cho Mặt trận Dân chủ trước đó, nhằm mục đích liên hợp tất cả các dân tộc Đông Dương, tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế đấu tranh chống đế quốc chiến tranh, chống xâm lược phát xít, đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bản xứ và tất cả bọn tay sai đế quốc, đòi hòa bình cơm áo, thực hiện nền độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương với quyền dân tộc tự quyết16. Chính đường lối, quyết sách đúng đắn trong giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc mà cách mạng Việt Nam phát huy được sức mạng tổng hợp, với tinh thần đoàn kết của các giai cấp, tầng lớp để đưa cách mạng đi đến thành công, đây chính là cội nguồn của sức mạnh cách mạng Việt Nam.

4. Như vậy, Hồ Chí Minh đã vận dụng trung thành, sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với điều kiện cách mạng Việt Nam. Đây là một sự đóng góp to lớn, có ý nghĩa đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Có thể thấy rõ, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đúng như Ph.Ăngghen từng khẳng định, những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính.

5. Trong xu thế toàn cầu hóa của thế kỷ XXI, việc xử lý mối quan hệ giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại đang trở thành một vấn đề mang tính chiến lược lâu dài đối với mỗi quốc gia – dân tộc. Đối với Việt Nam, để giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc và xây dựng đất nước đi lên CNXH, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa các nhân tố dân tộc, giai cấp, nhân loại trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Muốn vậy, chúng ta cần kiên định nguyên tắc thống nhất giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như Đảng ta là đặt lợi ích của giai cấp và dân tộc trong mối quan hệ thống nhất biện chứng – lợi ích của giai cấp gắn liền với lợi ích của dân tộc, lợi ích của dân tộc được thể hiện ở bản chất lợi ích của giai cấp. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất nước, bài học kinh nghiệm này càng được Đảng ta tiếp tục quán triệt và phát huy.

Để bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới, trong tất cả các văn kiện của Đảng luôn khẳng định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và CNXH, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều kiện cơ bản bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có nghĩa là trung thành với lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và lợi ích dân tộc.

Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết quan hệ dân tộc và giai cấp trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải giải quyết một cách toàn diện ở nhiều lĩnh vực, trong đó, trước hết tập trung giải quyết các quan hệ lợi ích: lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích toàn dân tộc; lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích các giai cấp, tầng lớp khác; lợi ích của dân tộc Việt Nam với lợi ích các dân tộc khác và lợi ích quốc tế nói chung trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Toàn thể dân tộc Việt Nam có chung lợi ích, mục tiêu, tập hợp dưới một ngọn cờ duy nhất do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”17.

Trong nhiều văn kiện Đại hội, Đảng ta đều xác định mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đồng thời, chỉ rõ phương hướng và mục tiêu tổng quát của công tác xây dựng Đảng là tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân.

Cùng với đó là mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc. Muốn tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những thành tựu to lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn nữa việc mở rộng, phát huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc ở Việt Nam.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia, 2000, tr.128.
2, 4, 7, 8. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, 2000, tr. 1, 174, 165, 138.
3. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia, 2000, tr. 266.
4. Điacốp – Xớckin. Quốc tế Cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa. H. NXB Sự thật, 1960, tr. 62.
5. Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Trần Phú tiểu sử. H. NXB Chính trị quốc gia, 2007, tr. 69.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng. Toàn tập. Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia, 2005, tr. 277.
9, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng. Toàn tập. Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, 2005, tr. 357, 360.
12. Hà Huy Tập – Một tác phẩm. H. NXB Chính trị quốc gia, 2006, tr. 275.
13. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, 2000, tr. 282.
14, 15, 16. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng. Toàn tập. Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia, 2005, tr. 537, 543, 537.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 88.

TS. Phạm Văn Giang
Học viện Chính trị khu vực III