Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản – Tác phẩm đánh dấu sự trưởng thành của chủ nghĩa Mác

Thứ tư, 21 Tháng 3 2018 11:40

9513 Lượt xem

(LLCT) – Mặc dù ra đời cách đây 170 năm, tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vẫn giữ nguyên giá trị trong việc nhận thức đặc điểm, bản chất của thời đại ngày nay dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Cùng với thời gian, tác phẩm này càng tỏ rõ sức sống và khẳng định bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin trước các trào lưu tư tưởng phản động muốn phủ nhận, xuyên tạc, bóp méo học thuyết vĩ đại này.

1. Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là một trong những di sản lý luận chủ yếu của chủ nghĩa xã hội khoa học, đồng thời là bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong di sản lý luận của chủ nghĩa Mác, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Lần đầu tiên trong tác phẩm, hai ông đã hệ thống hóa những nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác một cách cô đọng nhất, thể hiện rõ ràng và đầy đủ nhất thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đưa ra các phân tích và khẳng định sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, lý luận về đảng… Tuyên ngôn thể hiện rõ mối quan hệ hữu cơ giữa ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác là triết học mácxít, kinh tế chính trị học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học.

Tác phẩm ra đời trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XIX, mâu thuẫn cơ bản của CNTB ngày càng sâu sắc, giai cấp vô sản với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập cần phải có một chính đảng có  cương lĩnh khoa học làm cơ sở lý luận và soi đường cho thực tiễn. Tại Hội nghị lần thứ 2 của Liên đoàn những người cộng sản ở Luân Đôn (11-1847), C.Mác và Ph.Ăngghen được giao nhiệm vụ khởi thảo Cương lĩnh này. Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sảnđược C.Mác và Ph.Ăngghen hoàn thành (1-1848) và sau đó được tuyên truyền rộng rãi trong phong trào công nhân.

Khác với quan điểm của các nhà kinh tế tư sản cho rằng CNTB tồn tại vĩnh viễn, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,xuất phát từ kết cấu kinh tế – xã hội của CNTB, trên cơ sở phân tích các mâu thuẫn nội tại trong phương thức sản xuất TBCN, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định rằng, CNTB mang tính lịch sử; CNTB tất yếu sẽ bị thay thế bằng một chế độ xã hội cao hơn, đó là CNCS mà giai đoạn đầu là CNXH. Trong lịch sử của mình, CNTB đã tạo ra phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất:“Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”(1). Trong CNTB, lực lượng sản xuất đã phát triển một cách không tự giác do quá trình chạy theo giá trị thặng dư nhằm duy trì sự tồn tại phát triển, giai cấp tư sản đã tạo ra thị trường thế giới. C.Mác và Ph.Ăngghen nhận xét rằng: “Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ mới, giai cấp tư sản đã xâm lấn khắp toàn cầu”( 2).

C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra rằng, trong mối quan hệ hữu cơ giữa kinh tế và chính trị, mỗi bước phát triển về mặt kinh tế tạo ra một sự thích ứng về chính trị và giai cấp tư sản, thông qua việc tạo dựng nền đại công nghiệp cơ khí, phát triển thị trường thế giới, đã khẳng định, xác lập quyền thống trị chính trị đối với xã hội. Thông qua bộ máy nhà nước, giai cấp tư sản duy trì củng cố quan hệ sản xuất TBCN, tranh thủ những điều kiện tốt nhất cho giai cấp mình. Với ưu thế về hàng hóa cạnh tranh, phương thức sản xuất TBCN đã phá hủy cơ cấu truyền thống phong kiến của các nước lạc hậu, lôi cuốn nhiều dân tộc vào con đường phát triển TBCN, “giai cấp tư sản tạo ra cho nó một thế giới theo hình ảnh của nó”.

Vai trò lịch sử của CNTB còn thể hiện ở chỗ tạo lập cơ cấu xã hội, giai cấp theo hướng hình thành các giai cấp đối địch nhau: giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sảnkhẳng định rằng, sự phát triển của CNTB đã làm cho mâu thuẫn cơ bản của nó trở nên sâu sắc, trầm trọng hơn, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất TBCN chật hẹp, đòi hỏi phải xóa bỏ quan hệ sản xuất này, thiết lập chế độ xã hội mới.

Các nhà kinh điển khẳng định rằng, một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng Cộng sản với tư cách là lực lượng duy nhất có khả năng tổ chức lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị là “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”(3). Quan điểm này đã có sự kế thừa và phát triển. Nếu trong lời nói đầu tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen,C.Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, tuy nhiên vẫn còn là vấn đề trìu tượng, thì đến tác phẩm Sự khốn cùng của triết học(1846 – 1847), C.Mác đã trình bày về sự cần thiết của việc xóa bỏ sự thống trị về kinh tế của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản phải giành lấy chính quyền, muốn vậy giai cấp vô sản phải chuyển biến từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “cho nó”. Điều này phản ánh sự trưởng thành chín muồi về trình độ chính trị và tư tưởng của giai cấp vô sản thông qua việc thiết lập một chính đảng của giai cấp công nhân với tư cách lực lượng chính trị độc lập để lãnh đạo phong trào cách mạng.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển và đề ra luận điểm chứng minh các điều kiện khách quan về sự diệt vong của CNTB và sự hình thành các tiền đề chủ quan của cách mạng XHCN. Các ông khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp thực sự cách mạng, có khả năng thực hiện cách mạng vô sản, thủ tiêu chế độ cũ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ mới – cộng sản chủ nghĩa. “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy, những công nhân hiện đại, những người vô sản”(4). Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã đi từ đơn lẻ, tự phát đến tự giác, có tổ chức với sự hình thành chính đảng của giai cấp công nhân, chuyển từ đấu tranh kinh tế sang đấu tranh chính trị.

C.Mác và Ph.Ăngghen vạch rõ bước quá độ từ CNTB lên CNXH chỉ có thể hoàn thành thông qua những cải tạo căn bản trong quan hệ sở hữu và trong toàn bộ hệ thống các quan hệ sản xuất. Nhưng để làm được điều đó, phải tiến hành cách mạng XHCN và giai cấp vô sản phải nắm được chính quyền. Tư tưởng cách mạng XHCN là nội dung cốt yếu của toàn bộ tác phẩm, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: giai cấp vô sản “công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội hiện có”.

Nhiệm vụ của giai cấp vô sản được xác định là:

– Thủ tiêu bằng bạo lực chế độ sở hữu TBCN và thiết lập chế độ sở hữu toàn dân.

– Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, “tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất lên”.

Các nhà kinh điển cũng khẳng định, tùy theo điều kiện lịch sử cụ thể của các nước khác nhau mà những biện pháp áp dụng sẽ phải khác nhau, không có một khuôn mẫu chung cho mọi quốc gia. Trong Tuyên ngôn, chế độ sở hữu được xem xét trong quá trình phát triển của lịch sử theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trong sự phát triển của mình, thời kỳ đầu, CNTB đã thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sự hình thành phát triển của quan hệ sản xuất TBCN. Tuy nhiên đến một giai đoạn nhất định, những quan hệ sản xuất này trở nên chật hẹp, trở thành sức cản đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất mới, chế độ sở hữu tư nhân TBCN và những quan hệ người bóc lột người trên cơ sở đó đã kìm hãm sự phát triển của xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định, “Chế độ sở hữu tư sản là đại biểu cuối cùng và hoàn bị nhất của phương thức sản xuất và chiếm hữu dựa trên cơ sở những đối kháng giai cấp, trên cơ sở những người này bóc lột những người khác”.Với việc xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã làm thay đổi căn bản mục đích của nền sản xuất xã hội, “thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người”.

Với bản chất cách mạng và khoa học trong học thuyết của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những dự báo thiên tài vượt thời đại và mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc, như: về vấn đề cách mạng công nghiệp, sự phát triển của đại công nghiệp, thị trường thế giới… Các ông viết: “ Các thị trường cứ lớn lên không ngừng, nhu cầu luôn luôn tăng lên. Ngay cả công trường thủ công cũng không thỏa mãn được nhu cầu đó nữa. Lúc ấy, hơi nước và máy móc dẫn đến cuộc cách mạng trong công nghiệp… đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới”(5).

Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh tính đúng đắn của nhận định trên, thế giới đã trải qua và phát triển từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và hiện nay chuyển sang Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Cách mạng công nghiệp 4.0). Đặc trưng chủ yếu của cách mạng công nghiệp đầu tiên là sử dụng năng lượng nước và hơi nước để cơ giới hóa sản xuất; cuộc cách mạng lần hai diễn ra nhờ ứng dụng điện năng để sản xuất hàng loạt, cuộc cách mạng lần ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất; cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay có sự kết hợp các công nghệ với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật và sinh học vàsẽ diễn ra trên ba lĩnh vực chính, gồm: kỹ thuật số, vật lý và công nghệ sinh học.

Đồng thời với quá trình đó, toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ không những là xu thế khách quan mà còn là quá trình lôi cuốn các nước, các dân tộc tham gia, tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hiện nay, có nhiều vấn đề mang tính toàn cầu mà để giải quyết nó cần có sự hợp tác của tất cả các nước. 

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sảncủa C.Mác và Ph.Ăngghen là tác phẩm mẫu mực mang tính chiến đấu, phê phán cao đối với các lý luận phản khoa học, phản động chống chủ nghĩa Mác và CNXH khoa học. Tác phẩm phê phán, vạch rõ tính chất không tưởng và phản động của CNXH kiểu tư sản mà đại biểu điển hình là Xixmônđi và Pruđông. Điều này phù hợp với việc phê phán mục đích làm cho phong trào công nhân xa rời đấu tranh cách mạng của chủ nghĩa cải lương xã hội hiện đại mà hệ tư tưởng tiểu tư sản đại diện cho lợi ích của tầng lớp trên trong giai cấp công nhân, “tầng lớp công nhân quý tộc” đã bị tư sản hóa.

C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, quan điểm của chủ nghĩa xã hội tư sản  tuy có những luận điệu khác nhau nhưng bản chất vẫn nhằm bảo vệ chế độ TBCN, phủ nhận đấu tranh giai cấp, mang tính lừa bịp quần chúng lao động, không muốn cải biến căn bản chế độ TBCN.

C.Mác và Ph.Ăngghen tỏ rõ thái độ đối với CNXH không tưởng của Xanhximông, Phuriê, Ôoen, những bậc tiền bối của chủ nghĩa Mác. Các nhà XHCN không tưởng đã không thấy được vai trò lịch sử của giai cấp công nhân cũng như con đường giải phóng của họ.

Không đầy 25 năm sau khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sảnra đời (1848), trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức (1872), C.Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định “chính Tuyên ngôn cũng đã giải thích rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đư­ơng thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối ch­ương II. Đoạn này ngày nay mà viết lại thì về nhiều mặt cũng phải viết khác đi. Vì đại công nghiệp đã có những bước tiến hết sức lớn trong 25 năm qua”. Các ông lý giải lý do không sửa lại là vì: “Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại”(6).

Bản thân các nhà kinh điển không coi học thuyết của mình nh­ư một cái gì đó hoàn thiện, bất biến, mà luôn đòi hỏi phải có sự bổ sung, vận dụng, phát triển sáng tạo trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Bởi lẽ chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, do vậy phải căn cứ vào những điều kiện lịch sử cụ thể mới có những định hướng, giải pháp phù hợp. Các nhà kinh điển không coi học thuyết của mình như­ là những câu trả lời vạn năng cho mọi tình huống của cuộc sống mà đòi hỏi phải luôn đ­ược xem xét gắn với sự phát triển của thực tiễn, với t­ư cách là động lực của nhận thức là tiêu chuẩn khách quan của mọi chân lý.

Thực ra phải hiểu điều kiện lịch sử cụ thể của những quan điểm của các nhà kinh điển, điều khẳng định ở trên của C.Mác và Ph.Ăngghen là những dự đoán về giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản chứ không phải nói về giai đoạn thấp của nó, tức là CNXH. Các nhà kinh điển đã chỉ ra một cách đúng đắn về mặt phư­ơng pháp luận khi cho rằng, cơ sở để xóa bỏ chế độ t­ư hữu là lực lư­ợng sản xuất phải đư­ợc phát triển đến một trình độ nhất định với trình độ xã hội hóa cao, chứ không phải chỉ bằng quyết định mệnh lệnh hành chính hay mong muốn chủ quan.

2. Những nội dung và tư tưởng của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản có giá trị to lớn trong việc cung cấp thế giới quan và phương pháp giải quyết các vấn đề nảy sinh của thực tiễn hiện nay, đặc biệt vào những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, một số người cho rằng, lịch sử phải chăng kết thúc ở CNTB, tột đỉnh của văn minh loài người. Một số lập luận khác cho rằng, CNTB đã thay đổi về chất với các hình thức mới như: “Chủ nghĩa tư bản nhân dân”, “Chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh”, “Xã hội hậu công nghiệp”, “Chủ nghĩa tư bản của người lao động”. Song trên thực tế, CNTB vẫn không thay đổi bản chất và mâu thuẫn cơ bản của nó gắn với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất vẫn tồn tại. Điều này đã được khẳng định trong Tuyên ngôn. Các trào lưu phê phán chủ nghĩa Mác và CNXH mới xuất hiện gần đây như thuyết “Xung đột các nền văn minh”, “Sự tận cùng của lịch sử”, “Thuyết chính đáng”, “Thuyết chủ nghĩa xã hội mới” chung quy đều tập trung phủ nhận nội dung của học thuyết  mang tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin về hình thái kinh tế – xã hội, học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, học thuyết giá trị thặng dư và phủ nhận tính chất thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đang diễn ra hiện nay.

Mặc dù còn có những ý kiến khác nhau, song ý nghĩa, vai trò hiện thực hóa CNXH trong lịch sử của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917  không thể phủ nhận vì nó định hướng phát triển của cả xã hội loài người, mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Bên cạnh những thành tựu to lớn của CNXH hiện thực, thực tế cho thấy, nếu CNXH không bị khủng hoảng, suy yếu và tan rã từ bên trong bởi những sai lầm khuyết tật của chính mình, nếu chế độ không bị biến dạng nghiêm trọng, được nhân dân tín nhiệm và ủng hộ thì mọi âm mưu phá hoại thâm độc của chủ nghĩa đế quốc không thể trở thành yếu tố gây khủng hoảng và sụp đổ của một loạt các quốc gia độc lập có chủ quyền như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, như Lênin đã khẳng định, chúng ta không thể bị đánh bại từ kẻ thù bên ngoài nếu chúng ta không bị suy yếu, tan vỡ từ bên trong.

Sau sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù địch cho rằng, CNXH đã lâm vào thoái trào và chủ nghĩa tư bản mới là “sự tận cùng của lịch sử”. Tuy nhiên, gần 30 năm đã qua, CNXH và phong trào cánh tả vẫn tiếp tục phát triển ở nhiều nước trên thế giới, ngày càng khẳng định vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Điều đó chứng tỏ, biến cố chính trị năm 1991 chỉ là sự sụp đổ của một mô hình CNXH, không thể phủ nhận bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, những giá trị xuyên thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản.

3. Vận dụng những tư tưởng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta tất yếu phải đi theo con đường cách mạng vô sản, “Không có con đường nào khác”. Nhờ sự lựa chọn đúng đắn đó, cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn. Đó là thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thắng lợi cuộc kháng chiến chống xâm lược để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân mới và cũ, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc năm 1975, đưa cả nước đi lên CNXH và những thành tựu có ý nghĩa lịch sử trong 30 năm đổi mới. Những điều đó là sự khẳng định giá trị thời đại của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đảng ta khẳng định, mặc dù chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến CNXH tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất thời đại: Loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Toàn cầu hóa là xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh, tạo ra thời cơ và thách thức cho các quốc gia nhất là các nước đang phát triển. Đảng đã đánh giá toàn diện hơn về chủ nghĩa tư bản, chỉ ra mặt mạnh và mặt yếu, những mâu thuẫn nội tại khó khăn, khuyết tật của nó. Nhờ áp dụng những thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, đổi mới phương pháp quản lý và tổ chức lại nền kinh tế, chủ nghĩa tư bản đã kích thích phát triển kinh tế, thích nghi với điều kiện mới, tuy nhiên nó không khắc phục được những mâu thuẫn vốn có của nó và đang tích tụ để làm trầm trọng hơn mâu thuẫn cơ bản của CNTB. Mặc dù chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, song không thể làm thay đổi tính chất của thời đại chúng ta là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Trong thời đại hiện nay, chúng ta càng cần nhận thức sâu sắc những nội dung quan trọng của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,vận dụng sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh điển Mác – Lênin trong việc đề ra chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, nhằm xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.

Nhìn lại 30 năm đổi mới với những thành tựu, hạn chế và khuyết điểm, Đảng ta đã rút ra một số bài học có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện mô hình CNXH ở Việt Nam, trong đó bài học đầu tiên là: “Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”(7). Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc nhận thức và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nền dân chủ XHCN với nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”…

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2-2018

(1), (4) C.Mác và Ph.Ăngghen: Tuyển tập,t.1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.557, 549.

(2) C.Mác: Tư bản, quyển thứ ba, t.1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr.456.

(3) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2002, tr.615.

(5) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.624.

(6) C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.18, tr.128.

(7)ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.69.

 

PGS, TSKH Trần Nguyễn Tuyên

Hội đồng Lý luận Trung ương