VSA 330 – Biện pháp xử lý của kiểm toán viên đối với rủi ro đã đánh giá

HỆ THỐNG CHUẨN MỰC KIỂM
TOÁN VIỆT NAM

 Chuẩn mực kiểm toán số 330: Biện pháp xử lý của

kiểm toán viên đối với rủi ro đã đánh giá

(Ban hành kèm theo Thông tư số
214/2012/TT-BTC

 ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính)

 

I/ QUY ĐỊNH
CHUNG

Phạm vi áp dụng

01.      
Chuẩn mực kiểm
toán này quy định và hướng dẫn trách nhiệm của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán (sau đây gọi là “kiểm toán viên”) trong việc thiết kế và thực hiện các biện pháp xử
lý đối với các rủi ro có sai sót trọng yếu mà kiểm toán viên đã xác định và
đánh giá khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính theo Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 315.

02.       Kiểm toán
viên và doanh nghiệp kiểm toán (sau đây gọi là “kiểm toán viên”) phải tuân thủ
các quy định và hướng dẫn của Chuẩn mực này trong quá trình thực hiện kiểm toán
báo cáo tài chính.

Đơn vị được
kiểm toán (khách hàng) và các bên sử dụng kết quả kiểm toán phải có những hiểu
biết cần thiết về các quy định và hướng dẫn của Chuẩn mực này để phối hợp công
việc với kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán, cũng như xử lý các mối quan
hệ liên quan đến các thông tin đã được kiểm toán.

Mục tiêu

03.      
Mục tiêu của kiểm
toán viên và doanh nghiệp kiểm toán là thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp liên
quan đến các rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá, thông qua việc
thiết kế và thực hiện các biện pháp xử lý phù hợp đối với các rủi ro này.

Giải thích thuật ngữ

04.      
Trong các chuẩn mực
kiểm toán Việt Nam,
các thuật ngữ dưới đây được hiểu như sau:

(a)    Thử nghiệm cơ bản: Là thủ tục kiểm toán được thiết
kế nhằm phát hiện các sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu. Các thử
nghiệm cơ bản bao gồm:

(i)      Kiểm tra chi tiết (các nhóm giao dịch, số dư tài khoản
và thông tin thuyết minh);

(ii)    Thủ tục phân tích cơ bản.

(b)    Thử nghiệm kiểm soát: Là thủ tục kiểm toán được thiết
kế nhằm đánh giá tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát trong việc ngăn ngừa,
hoặc phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở dẫn liệu.

II/ NỘI DUNG
CHUẨN MỰC

Yêu cầu

Biện pháp xử
lý tổng thể

05.      
Kiểm toán viên phải
thiết kế và thực hiện các biện pháp xử lý tổng thể đối với các rủi ro có sai
sót trọng yếu đã được đánh giá ở cấp độ báo cáo tài chính (xem hướng dẫn tại đoạn
A1 – A3 Chuẩn mực này).

Thủ tục kiểm
toán đối với rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu

06.      
Kiểm toán viên phải
thiết kế và thực hiện các thủ tục kiểm toán tiếp theo với nội dung, lịch trình
và phạm vi dựa vào kết quả đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ
sở dẫn liệu (xem hướng dẫn tại đoạn A4 – A8 Chuẩn mực này).

07.      
Khi thiết kế các
thủ tục kiểm toán tiếp theo, kiểm toán viên phải:

(a)     Xem xét các lý do đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu
ở cấp độ cơ sở dẫn liệu cho từng nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông
tin thuyết minh, bao gồm:

(i)       
Khả năng xảy ra
sai sót trọng yếu do các đặc tính cụ thể của các nhóm giao dịch, số dư tài khoản,
hoặc thông tin thuyết minh có liên quan (rủi ro tiềm tàng);

(ii)     Liệu việc đánh giá rủi ro có xem xét đến các kiểm soát
có liên quan hay không (rủi ro kiểm soát), và nếu có, kiểm toán viên phải thu thập
bằng chứng kiểm toán để xác định xem các kiểm soát có hoạt động hiệu quả không
(có nghĩa là: kiểm toán viên dự định dựa vào tính hữu hiệu của hoạt động kiểm
soát để xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản)
(xem hướng dẫn tại đoạn A9 – A18 Chuẩn mực này);

(b)     Mức độ rủi ro được kiểm toán viên đánh giá càng cao
thì càng phải thu thập bằng chứng kiểm toán thuyết phục hơn (xem hướng dẫn tại
đoạn A19 Chuẩn mực này).

Thử nghiệm kiểm
soát

08.      
Kiểm toán viên phải
thiết kế và thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm
toán thích hợp về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát có liên quan nếu:

(a)    Khi đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở
dẫn liệu, kiểm toán viên kỳ vọng rằng các kiểm soát hoạt động hiệu quả (nghĩa
là: kiểm toán viên có ý định dựa vào tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát để
xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản); hoặc

(b)    Nếu chỉ thực hiện các thử nghiệm cơ bản thì không thể
cung cấp đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp ở cấp độ cơ sở dẫn liệu (xem hướng
dẫn tại đoạn A20 – A24 Chuẩn mực này).

09.      
Khi thiết kế và
thực hiện thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên càng tin tưởng vào tính hữu hiệu
của hoạt động kiểm soát thì càng phải thu thập bằng chứng kiểm toán thuyết phục
hơn (xem hướng dẫn tại đoạn A25 Chuẩn mực này).

Nội dung và phạm vi của thử nghiệm kiểm soát

10.       Khi thiết kế và thực hiện thử nghiệm kiểm soát, kiểm
toán viên phải:

(a)    Thực hiện các thủ tục kiểm toán khác kết hợp với thủ tục
phỏng vấn nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm
soát, gồm:

(i)          
Các kiểm soát đã
được thực hiện như thế nào tại các thời điểm liên quan trong suốt giai đoạn được
kiểm toán;

(ii)     Các kiểm soát
có được thực hiện nhất quán hay không;

(iii)    Các kiểm soát
được ai thực hiện và thực hiện bằng cách nào (xem hướng dẫn tại đoạn A26 – A29
Chuẩn mực này)

(b)    Xác định liệu các kiểm soát được thử nghiệm có phụ thuộc
vào các kiểm soát khác không (kiểm soát gián tiếp) và, nếu có, liệu có cần thiết
thu thập bằng chứng kiểm toán chứng minh tính hữu hiệu của các hoạt động kiểm
soát gián tiếp đó hay không (xem hướng dẫn tại đoạn A30 – A31 Chuẩn mực này).

Lịch trình thử nghiệm kiểm soát

11.      
Kiểm toán viên phải
thực hiện thử nghiệm kiểm soát cho một thời điểm cụ thể, hoặc cho cả giai đoạn
mà kiểm toán viên dự định dựa vào các kiểm soát đó, theo quy định tại đoạn 12
và 15 dưới đây, để đưa ra cơ sở thích hợp cho sự tin cậy của kiểm toán viên vào
các kiểm soát đó (xem hướng dẫn tại đoạn A32 Chuẩn mực này).

Sử dụng bằng chứng kiểm toán thu thập được trong giai
đoạn giữa kỳ

12.      
Nếu kiểm toán
viên thu thập bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát
trong giai đoạn giữa kỳ, kiểm toán viên phải:

(a)       
Thu thập bằng chứng
kiểm toán về những thay đổi quan trọng trong các kiểm soát xảy ra sau giai đoạn
giữa kỳ;

(b)       
Xác định bằng chứng
kiểm toán bổ sung cần thu thập cho giai đoạn còn lại (xem hướng dẫn tại đoạn
A33 – A34 Chuẩn mực này).

Sử dụng bằng chứng kiểm toán thu thập được từ các cuộc
kiểm toán trước

13.      
Để xác định xem
việc sử dụng bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát đã
có từ các cuộc kiểm toán trước có phù hợp hay không và để xác định khoảng thời
gian trước khi tiến hành lại thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên phải xem xét
những vấn đề sau:

(a)       
Tính hữu hiệu của
các thành phần khác của kiểm soát nội bộ, bao gồm môi trường kiểm soát, việc
giám sát các kiểm soát và quy trình đánh giá rủi ro của đơn vị;

(b)       
Các rủi ro phát
sinh từ các đặc tính của kiểm soát, cho dù kiểm soát đó được thực hiện thủ công
hay tự động;

(c)       
Tính hữu hiệu của
các kiểm soát chung về công nghệ thông tin;

(d)       
Tính hữu hiệu của
kiểm soát và việc thực hiện kiểm soát đó của đơn vị, bao gồm nội dung và mức độ
của các sai lệch trong việc thực hiện kiểm soát đã ghi nhận trong các cuộc kiểm
toán trước, và liệu có thay đổi nào về nhân sự có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực
hiện kiểm soát đó hay không;

(e)       
Liệu việc không
thay đổi một kiểm soát cụ thể có gây rủi ro khi hoàn cảnh đã thay đổi hay
không;

(f)        
Rủi ro có sai sót
trọng yếu và mức độ tin cậy vào các kiểm soát (xem hướng dẫn tại đoạn A35 Chuẩn
mực này).

14.      
Nếu kiểm toán
viên dự định sử dụng bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm
soát cụ thể đã thu thập được từ cuộc kiểm toán trước, kiểm toán viên phải chứng
minh rằng các bằng chứng đó vẫn còn giá trị bằng cách thu thập bằng chứng kiểm
toán về việc liệu có phát sinh những thay đổi đáng kể trong các kiểm soát đó kể
từ sau cuộc kiểm toán trước hay không. Kiểm toán viên phải thu thập bằng chứng
này bằng cách thực hiện phỏng vấn kết hợp với quan sát hoặc điều tra, để xác nhận
sự hiểu biết về các kiểm soát cụ thể đó, và:

(a)       
Nếu có những thay
đổi ảnh hưởng đến sự phù hợp của bằng chứng kiểm toán đã thu thập từ cuộc kiểm
toán trước, kiểm toán viên phải thực hiện thử nghiệm kiểm soát trong cuộc kiểm
toán hiện tại (xem hướng dẫn tại đoạn A36 Chuẩn mực này);

(b)       
Nếu không có thay
đổi nào, kiểm toán viên phải thực hiện thử nghiệm kiểm soát ít nhất một lần
trong ba cuộc kiểm toán liên tục, và phải thực hiện thử nghiệm đối với một số
kiểm soát trong mỗi cuộc kiểm toán để tránh tình trạng phải tiến hành thử nghiệm
tất cả các kiểm soát mà kiểm toán viên dự định tin cậy vào trong một cuộc kiểm
toán duy nhất mà không thực hiện thử nghiệm bất kỳ kiểm soát nào trong hai cuộc
kiểm toán tiếp theo (xem hướng dẫn tại đoạn A37 – A39 Chuẩn mực này).

Các kiểm soát đối với rủi ro đáng kể

15.      
Nếu kiểm toán
viên dự định tin cậy vào các kiểm soát đối với một rủi ro mà kiểm toán viên xác
định là rủi ro đáng kể, kiểm toán viên phải thử nghiệm các kiểm soát đó trong
giai đoạn hiện tại.

Đánh giá tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát

16.      
Khi đánh giá tính
hữu hiệu của hoạt động kiểm soát liên quan, kiểm toán viên phải đánh giá liệu
các sai sót được phát hiện từ các thử nghiệm cơ bản có cho thấy các kiểm soát
không hoạt động hiệu quả hay không. Tuy nhiên, nếu các thử nghiệm cơ bản không
phát hiện ra sai sót thì không có nghĩa là các kiểm soát có liên quan đến cơ sở
dẫn liệu được thử nghiệm là hiệu quả (xem hướng dẫn tại đoạn A40 Chuẩn mực
này).

17.      
Nếu phát hiện những
sai lệch trong các kiểm soát mà kiểm toán viên dự định tin cậy vào, kiểm toán
viên phải thực hiện những cuộc phỏng vấn cụ thể để tìm hiểu về những vấn đề này
cũng như những hậu quả tiềm tàng, và phải xác định (xem hướng dẫn tại đoạn A41
Chuẩn mực này):

(a)       
Các thử nghiệm kiểm
soát đã thực hiện có cung cấp cơ sở thích hợp để kiểm toán viên tin cậy vào các
kiểm soát đó hay không;

(b)       
Có cần thực hiện
các thử nghiệm kiểm soát bổ sung hay không; hoặc

(c)       
Các rủi ro có khả
năng xảy ra sai sót có cần được xử lý bằng cách áp dụng các thử nghiệm cơ bản
hay không.

Thử nghiệm cơ
bản

18. Cho dù kết quả đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu
như thế nào, kiểm toán viên phải thiết kế và thực hiện các thử nghiệm cơ bản đối
với từng nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông tin thuyết minh trọng yếu
(xem hướng dẫn tại đoạn A42 – A47 Chuẩn mực này).

19. Kiểm toán viên phải xem xét có cần thực hiện các thủ tục
xác nhận từ bên ngoài như các thử nghiệm cơ bản hay không (xem hướng dẫn tại đoạn
A48 – A51 Chuẩn mực này).

Thử nghiệm cơ bản liên quan đến quy trình khóa sổ kế
toán lập báo cáo tài chính

20. Thử nghiệm cơ bản của kiểm toán viên phải bao gồm các
thủ tục kiểm toán liên quan đến quy trình khóa sổ kế toán lập báo cáo tài
chính, như sau:

(a)       
Đối chiếu số liệu
trên báo cáo tài chính với số liệu trên sổ kế toán;

(b)       
Kiểm tra các bút
toán trọng yếu và các điều chỉnh khác được thực hiện trong quá trình lập và
trình bày báo cáo tài chính (xem hướng dẫn tại đoạn A52 Chuẩn mực này).

Thử nghiệm cơ bản đối với các rủi ro đáng kể

21. Nếu kiểm toán viên đã xác định rủi ro có sai sót trọng
yếu đã được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu là rủi ro đáng kể thì kiểm toán
viên phải thực hiện các thử nghiệm cơ bản để xử lý rủi ro này. Nếu chỉ thực hiện
thử nghiệm cơ bản đối với một rủi ro đáng kể thì thử nghiệm cơ bản phải bao gồm
kiểm tra chi tiết (xem hướng dẫn tại đoạn A53 Chuẩn mực này).

Lịch trình thực hiện thử nghiệm cơ bản

22. Nếu thực hiện thử nghiệm cơ bản tại thời điểm kiểm
toán giữa kỳ, để cung cấp cơ sở hợp lý cho việc mở rộng các kết luận kiểm toán
từ giữa kỳ cho đến cuối kỳ, kiểm toán viên phải bao quát cả giai đoạn còn lại bằng
cách (xem hướng dẫn tại đoạn A54 – A57 Chuẩn mực này):

(a)       
Thực hiện các thử
nghiệm cơ bản kết hợp với các thử nghiệm kiểm soát cho giai đoạn từ giữa kỳ đến
cuối kỳ; hoặc

(b)       
Chỉ thực hiện các
thử nghiệm cơ bản bổ sung nếu kiểm toán viên xác định rằng như vậy là đủ.

23. Khi đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu tại thời điểm
giữa kỳ, nếu phát hiện các sai sót không mong đợi thì kiểm toán viên phải đánh
giá liệu có cần điều chỉnh việc đánh giá rủi ro liên quan và điều chỉnh nội
dung, lịch trình hoặc phạm vi dự kiến của các thử nghiệm cơ bản cho giai đoạn
còn lại hay không (xem hướng dẫn tại đoạn A58 Chuẩn mực này).

Mức độ đầy đủ
của việc trình bày và thuyết minh báo cáo tài chính

24. Kiểm toán viên phải thực hiện các thủ tục kiểm toán để
đánh giá liệu việc trình bày tổng thể báo cáo tài chính, bao gồm các thông tin
thuyết minh liên quan, có phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài
chính được áp dụng hay không (xem hướng dẫn tại đoạn A59 Chuẩn mực này).

Đánh giá tính đầy đủ và thích hợp của bằng chứng kiểm
toán

25. Căn cứ vào các thủ tục kiểm toán đã thực hiện và bằng
chứng kiểm toán thu thập được, trước khi đưa ra kết luận về cuộc kiểm toán, kiểm
toán viên phải xem xét việc đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu ở cấp độ cơ sở
dẫn liệu có còn phù hợp hay không (xem hướng dẫn tại đoạn A60 – 61 Chuẩn mực
này).

26. Kiểm toán viên phải đưa ra kết luận về tính đầy đủ,
thích hợp của bằng chứng kiểm toán đã thu thập. Khi đưa ra ý kiến kiểm toán, kiểm
toán viên phải xem xét tất cả bằng chứng kiểm toán liên quan, bất kể bằng chứng
này chứng thực hay mâu thuẫn với các cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính (xem
hướng dẫn tại đoạn A62 Chuẩn mực này).

27. Nếu chưa thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán
thích hợp liên quan đến một cơ sở dẫn liệu trọng yếu của báo cáo tài chính, kiểm
toán viên phải cố gắng thu thập thêm bằng chứng kiểm toán. Nếu không thể thu thập
được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp, kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến
kiểm toán ngoại trừ hoặc từ chối đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính.

Tài liệu, hồ
sơ kiểm toán

28. Theo quy định tại đoạn 08 – 11 và hướng dẫn tại đoạn
A6 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 230, kiểm toán viên phải lập và lưu lại
trong hồ sơ kiểm toán:

(a)       
Biện pháp xử lý tổng
thể đối với các rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá ở cấp độ báo cáo
tài chính và nội dung, lịch trình, phạm vi các thủ tục kiểm toán tiếp theo đã
thực hiện;

(b)       
Mối liên hệ giữa
các thủ tục kiểm toán đó với các rủi ro đã được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu;

(c)       
Kết quả của các
thủ tục kiểm toán, kể cả các kết luận, nếu các thủ tục này không rõ ràng (xem
hướng dẫn tại đoạn A63 Chuẩn mực này).

29. Nếu kiểm toán viên dự định sử dụng bằng chứng kiểm
toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát thu thập được từ các cuộc kiểm
toán trước, kiểm toán viên phải ghi chép trong hồ sơ kiểm toán các kết luận
trên cơ sở tin cậy vào các kiểm soát đã được thử nghiệm trong cuộc kiểm toán
trước.

30. Tài liệu, hồ sơ kiểm toán phải chứng minh rằng các số
liệu trên báo cáo tài chính đã được đối chiếu khớp với các số liệu trên sổ kế
toán.

III/ HƯỚNG DẪN
ÁP DỤNG

Khi thực hiện Chuẩn mực này cần tham khảo Chuẩn mực kiểm
toán Việt Nam số 200.

Biện pháp xử
lý tổng thể
(hướng dẫn đoạn 05 Chuẩn
mực này)

A1.           
Biện pháp xử lý tổng
thể đối với các rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá trong báo cáo tài
chính có thể bao gồm:

(1)       
Nhấn mạnh với
nhóm kiểm toán về sự cần thiết phải duy trì thái độ hoài nghi nghề nghiệp;

(2)       
Bổ nhiệm các
thành viên nhóm kiểm toán có kinh nghiệm hoặc có kỹ năng chuyên môn đặc biệt,
hoặc sử dụng chuyên gia;

(3)       
Tăng cường giám
sát;

(4)       
Kết hợp các yếu tố
không thể dự đoán trước khi lựa chọn các thủ tục kiểm toán tiếp theo cần thực
hiện;

(5)       
Thực hiện những
thay đổi chung đối với nội dung, lịch trình và phạm vi các thủ tục kiểm toán,
ví dụ: thực hiện các thử nghiệm cơ bản vào giai đoạn cuối kỳ thay vì giữa kỳ,
hoặc thay đổi nội dung của các thủ tục kiểm toán nhằm thu thập được bằng chứng
kiểm toán thuyết phục hơn.

A2.           
Hiểu biết của kiểm
toán viên về môi trường kiểm soát của đơn vị có ảnh hưởng đến việc đánh giá rủi
ro có sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính và do đó cũng ảnh hưởng đến biện
pháp xử lý tổng thể. Môi trường kiểm soát hữu hiệu có thể cho phép kiểm toán
viên tin tưởng hơn vào kiểm soát nội bộ và độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán
bắt nguồn từ bên trong đơn vị và do đó, cho phép kiểm toán viên thực hiện một số
thủ tục kiểm toán vào giai đoạn giữa kỳ thay vì cuối kỳ. Tuy nhiên, các khiếm
khuyết trong môi trường kiểm soát lại có ảnh hưởng ngược lại, ví dụ, kiểm toán
viên có thể thực hiện các thủ tục sau đối với môi trường kiểm soát không hiệu
quả:

(1)       
Thực hiện thêm
các thủ tục kiểm toán vào giai đoạn cuối kỳ thay vì giai đoạn giữa kỳ;

(2)       
Thu thập thêm bằng
chứng kiểm toán từ các thử nghiệm cơ bản;

(3)       
Mở rộng phạm vi
kiểm toán ra nhiều địa điểm hơn.

A3.           
Việc xem xét những
vấn đề trên có ảnh hưởng quan trọng đến phương pháp tiếp cận chung của kiểm
toán viên, ví dụ, tập trung vào thử nghiệm cơ bản (phương pháp cơ bản) hoặc
phương pháp kết hợp thử nghiệm kiểm soát với thử nghiệm cơ bản (phương pháp kết
hợp).

Thủ tục kiểm
toán đối với rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu

Nội dung, lịch
trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán tiếp theo
(hướng dẫn đoạn 06 Chuẩn mực này)

A4.           
Đánh giá của kiểm
toán viên về các rủi ro phát hiện được ở cấp độ cơ sở dẫn liệu cung cấp cơ sở
nhằm lựa chọn phương pháp kiểm toán thích hợp để thiết kế và thực hiện các thủ
tục kiểm toán tiếp theo. Ví dụ, kiểm toán viên có thể xác định rằng:

(a)       
Chỉ cần thực hiện
thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên cũng có thể đưa ra biện pháp xử lý hiệu quả
đối với rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá cho một cơ sở dẫn liệu cụ
thể;

(b)       
Chỉ cần thực hiện
các thử nghiệm cơ bản là phù hợp đối với các cơ sở dẫn liệu cụ thể, do đó, kiểm
toán viên bỏ qua ảnh hưởng của các kiểm soát khi đánh giá rủi ro liên quan. Việc
bỏ qua này có thể là do các thủ tục đánh giá rủi ro của kiểm toán viên đã không
xác định được bất kỳ kiểm soát hữu hiệu nào liên quan đến cơ sở dẫn liệu, hoặc
do việc thử nghiệm kiểm soát không hiệu quả, làm cho kiểm toán viên không có ý
định dựa vào tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát để xác định nội dung, lịch
trình và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản; hoặc

(c)       
Phương pháp kết hợp
thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm cơ bản là một phương pháp hữu hiệu.

Tuy nhiên, theo quy định tại đoạn 18 Chuẩn mực này, dù
lựa chọn phương pháp nào thì kiểm toán viên vẫn phải thiết kế và thực hiện các
thử nghiệm cơ bản cho từng nhóm giao dịch, số dư tài khoản và thông tin thuyết
minh trọng yếu.

A5.           
Nội dung của một
thủ tục kiểm toán phản ánh mục tiêu của thủ tục đó (ví dụ, thử nghiệm kiểm soát
hoặc thử nghiệm cơ bản) và loại thủ tục (ví dụ, kiểm tra, quan sát, phỏng vấn,
xác nhận, tính toán lại, thực hiện lại hay thủ tục phân tích). Nội dung của thủ
tục kiểm toán là vấn đề quan trọng nhất cần xác định sau khi đã đánh giá rủi
ro.

A6.           
Lịch trình của thủ
tục kiểm toán là thời điểm tiến hành thủ tục kiểm toán, giai đoạn hoặc thời điểm
mà bằng chứng kiểm toán được áp dụng.

A7.           
Phạm vi của thủ tục
kiểm toán là số lượng thủ tục kiểm toán cần thực hiện, ví dụ cỡ mẫu hay số lần
quan sát một kiểm soát.

A8.           
Việc thiết kế và
thực hiện các thủ tục kiểm toán tiếp theo, mà nội dung, lịch trình và phạm vi của
các thủ tục này được xác định dựa trên cơ sở đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu
ở cấp độ cơ sở dẫn liệu, cung cấp mối liên kết rõ ràng giữa các thủ tục kiểm
toán tiếp theo và việc đánh giá rủi ro của kiểm toán viên.

Thủ tục kiểm toán trên cơ sở đánh giá rủi ro ở cấp độ
cơ sở dẫn liệu (hướng dẫn đoạn 07(a) Chuẩn mực này)

Nội dung

A9.           
Các rủi ro được
kiểm toán viên đánh giá có thể ảnh hưởng đến cả loại thủ tục kiểm toán cần thực
hiện và việc kết hợp các thủ tục kiểm toán. Ví dụ, khi kiểm toán viên đánh giá
có rủi ro cao, ngoài việc kiểm tra tài liệu, kiểm toán viên có thể xác nhận với
một bên thứ ba về sự đầy đủ của các điều khoản hợp đồng. Ngoài ra, các thủ tục
kiểm toán nhất định có thể thích hợp đối với một số cơ sở dẫn liệu này hơn là đối
với các cơ sở dẫn liệu khác. Ví dụ, liên quan đến doanh thu, các thử nghiệm kiểm
soát có thể là biện pháp thích hợp nhất để xử lý rủi ro có sai sót về cơ sở dẫn
liệu “tính đầy đủ”, trong khi các thử nghiệm cơ bản lại có thể là biện pháp
thích hợp nhất để xử lý rủi ro có sai sót về cơ sở dẫn liệu “tính phát sinh”.

A10.       Khi xác định nội dung thủ tục kiểm toán, kiểm toán
viên cần xem xét lý do đánh giá rủi ro. Ví dụ, nếu một rủi ro được đánh giá là
thấp chỉ do đặc trưng riêng của nhóm giao dịch mà không xem xét đến các kiểm
soát liên quan thì kiểm toán viên có thể xác định rằng chỉ cần thực hiện các thủ
tục phân tích cơ bản cũng có thể cung cấp đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp.
Ngược lại, nếu rủi ro được đánh giá là thấp do kiểm soát nội bộ hiệu quả, và kiểm
toán viên dự định sẽ thiết kế các thử nghiệm cơ bản căn cứ vào hiệu quả kiểm
soát, thì kiểm toán viên sẽ thực hiện các thử nghiệm kiểm soát theo quy định tại
đoạn 08(a) Chuẩn mực này. Ví dụ cho trường hợp này là các nhóm giao dịch tương
đối đồng nhất, không phức tạp, được xử lý thường xuyên và được hệ thống thông
tin của đơn vị kiểm soát.

Lịch trình

A11.       Kiểm toán viên có thể thực hiện thử nghiệm kiểm soát
hoặc thử nghiệm cơ bản ở thời điểm kiểm toán giữa kỳ hay cuối kỳ. Rủi ro có sai
sót trọng yếu càng cao thì kiểm toán viên càng cần phải thực hiện các thủ tục
cơ bản gần hoặc tại thời điểm cuối kỳ hơn là vào thời điểm trước đó, hoặc thực
hiện các thủ tục kiểm toán mà không cần thông báo trước về nội dung và thời
gian (ví dụ, thực hiện các thủ tục kiểm toán tại một số địa điểm được chọn mà
không thông báo trước). Điều này đặc biệt thích hợp khi lựa chọn các thủ tục kiểm
toán để xử lý rủi ro có gian lận. Ví dụ, khi phát hiện rủi ro cố ý gây sai sót
hoặc thao túng số liệu, kiểm toán viên có thể kết luận rằng các thủ tục kiểm
toán để mở rộng các kết luận kiểm toán từ thời điểm kiểm toán giữa kỳ đến cuối
kỳ sẽ không hiệu quả.

A12.       Việc thực hiện các thủ tục kiểm toán vào thời điểm trước
khi kết thúc kỳ kế toán có thể giúp kiểm toán viên phát hiện sớm các vấn đề
quan trọng và do đó có thể giải quyết các vấn đề đó với sự hỗ trợ của Ban Giám
đốc đơn vị được kiểm toán hoặc thiết kế phương pháp kiểm toán hiệu quả để giải
quyết các vấn đề này.

A13.       Một số thủ tục kiểm toán nhất định chỉ có thể được thực
hiện vào giai đoạn cuối kỳ hoặc sau giai đoạn cuối kỳ, ví dụ:

(1)       
Đối chiếu số liệu
trên báo cáo tài chính với số liệu trên sổ kế toán;

(2)       
Kiểm tra các khoản
mục được điều chỉnh trong quá trình lập và trình bày báo cáo tài chính;

(3)       
Các thủ tục kiểm
toán để xử lý rủi ro mà tại thời điểm cuối kỳ, đơn vị được kiểm toán lại ký kết
những hợp đồng bán hàng không minh bạch hoặc có các giao dịch không được quyết
toán.  

A14.       Quyết định của kiểm toán viên về thời điểm thực hiện
các thủ tục kiểm toán chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên quan, bao gồm:

(1)       
Môi trường kiểm
soát;

(2)       
Thời điểm có
thông tin thích hợp (ví dụ, dữ liệu trong các tệp điện tử sau đó có thể bị điều
chỉnh, hoặc các thủ tục cần quan sát có thể chỉ diễn ra tại những thời điểm nhất
định);

(3)       
Bản chất của rủi
ro (ví dụ, nếu có rủi ro doanh thu bị khai tăng để đáp ứng các mức lợi nhuận kỳ
vọng bằng cách tạo ra những hợp đồng bán hàng giả mạo sau khi kết thúc kỳ kế
toán, kiểm toán viên có thể kiểm tra các hợp đồng hiện có vào thời điểm kết
thúc kỳ kế toán);

(4)       
Giai đoạn hoặc thời
điểm liên quan đến bằng chứng kiểm toán.

Phạm vi

A15.       Kiểm toán viên xác định phạm vi của thủ tục kiểm toán
được xét đoán là cần thiết sau khi cân nhắc mức trọng yếu, các rủi ro được đánh
giá và mức độ đảm bảo mà kiểm toán viên dự kiến đạt được. Khi kiểm toán viên đạt
được mục đích nhờ thực hiện kết hợp các thủ tục kiểm toán thì phạm vi của mỗi
thủ tục được xem xét riêng rẽ. Nói chung, kiểm toán viên cần mở rộng phạm vi
các thủ tục kiểm toán nếu rủi ro có sai sót trọng yếu tăng lên. Ví dụ, để xử lý
rủi ro có sai sót trọng yếu do gian lận, kiểm toán viên có thể cần tăng cỡ mẫu
hoặc thực hiện các thủ tục phân tích cơ bản ở mức độ chi tiết hơn. Tuy nhiên,
việc mở rộng phạm vi thủ tục kiểm toán chỉ có hiệu quả nếu bản thân thủ tục kiểm
toán là phù hợp với rủi ro đặc thù.

A16.       Việc sử dụng các kỹ thuật kiểm toán với sự hỗ trợ của
máy tính (CAATs) có thể cho phép kiểm tra nhiều giao dịch điện tử và dữ liệu
trong các tài khoản điện tử. Kỹ thuật này có thể hữu ích khi kiểm toán viên quyết
định điều chỉnh phạm vi kiểm tra, ví dụ khi xử lý rủi ro có sai sót trọng yếu
do gian lận. Các kỹ thuật này có thể được sử dụng để chọn mẫu từ các tệp tin điện
tử chính để phân loại thành các giao dịch đặc thù hoặc kiểm tra tổng thể thay
vì kiểm tra mẫu.

Lưu ý khi kiểm toán các đơn vị trong lĩnh vực công

A17.       Khi kiểm toán các đơn vị trong lĩnh vực công, các quy
định của Kiểm toán Nhà nước và bất kỳ yêu cầu kiểm toán đặc biệt nào khác có thể
ảnh hưởng đến quyết định của kiểm toán viên về nội dung, lịch trình và phạm vi
của các thủ tục kiểm toán tiếp theo.

Lưu ý khi kiểm toán các đơn vị nhỏ

A18.       Đối với các đơn vị nhỏ, kiểm toán viên có thể không
xác định được nhiều hoạt động kiểm soát, hoặc đơn vị có thể có rất ít tài liệu
thể hiện sự tồn tại hoặc vận hành của các hoạt động kiểm soát đó. Trong trường
hợp này, việc thực hiện các thủ tục kiểm toán tiếp theo mà chủ yếu là thử nghiệm
cơ bản sẽ có thể hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp hãn hữu, kiểm
toán viên sẽ không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp nếu
không có các hoạt động kiểm soát hay những thành phần khác của kiểm soát.

Đánh giá mức độ rủi ro cao (hướng dẫn đoạn 07(b) Chuẩn
mực này)

A19.       Khi cần thu thập bằng chứng kiểm toán thuyết phục hơn
do mức độ rủi ro được đánh giá cao hơn, kiểm toán viên có thể tăng số lượng bằng
chứng, hoặc thu thập bằng chứng thích hợp hơn hoặc đáng tin cậy hơn, bằng cách
tập trung thu thập bằng chứng từ bên thứ ba hoặc thu thập bằng chứng chứng thực
từ một số nguồn độc lập.

Thử nghiệm kiểm
soát

Thiết kế và thực hiện thử nghiệm kiểm soát (hướng dẫn
đoạn 08 Chuẩn mực này)

A20.       Các thử nghiệm kiểm soát chỉ được thực hiện đối với những
kiểm soát mà kiểm toán viên xác định rằng được thiết kế phù hợp để ngăn chặn hoặc
phát hiện và sửa chữa một sai sót trọng yếu trong một cơ sở dẫn liệu. Nếu các
kiểm soát khác nhau về cơ bản được thực hiện tại những thời điểm khác nhau
trong giai đoạn được kiểm toán thì mỗi kiểm soát đó phải được xem xét riêng.

A21.       Việc kiểm tra tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát
khác với việc tìm hiểu và đánh giá về mặt thiết kế và thực hiện của các kiểm
soát đó. Tuy nhiên, kiểm toán viên vẫn có thể sử dụng các loại thủ tục kiểm
toán giống nhau để kiểm tra. Vì thế, kiểm toán viên có thể quyết định cách kiểm
tra hiệu quả là kiểm tra tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát đồng thời với việc
đánh giá về mặt thiết kế và xác định rằng các kiểm soát đó đã được thực hiện.

A22.       Mặc dù một số thủ tục đánh giá rủi ro có thể không được
thiết kế để làm thử nghiệm kiểm soát nhưng các thủ tục đó cũng có thể cung cấp
bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát và, do đó, đóng
vai trò như thử nghiệm kiểm soát. Ví dụ, các thủ tục đánh giá rủi ro của kiểm
toán viên có thể bao gồm:

(1)       
Phỏng vấn về việc
sử dụng dự toán của Ban Giám đốc;

(2)       
Quan sát việc Ban
Giám đốc so sánh chi phí dự tính và chi phí thực tế hàng tháng;

(3)       
Kiểm tra các báo
cáo để phát hiện biến động giữa số liệu thực tế với kế hoạch.

Các thủ tục kiểm toán này không chỉ cung cấp những hiểu
biết về công tác lập kế hoạch của đơn vị và liệu kế hoạch đó đã được thực hiện
hay chưa, mà còn có thể cung cấp bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của quy
trình lập kế hoạch của đơn vị trong việc ngăn ngừa và phát hiện các sai sót trọng
yếu trong phân loại chi phí.

A23.       Kiểm toán viên có thể thiết kế một thử nghiệm kiểm
soát để thực hiện đồng thời với việc kiểm tra chi tiết cùng một giao dịch. Mặc
dù mục tiêu của thử nghiệm kiểm soát khác với mục tiêu của kiểm tra chi tiết
nhưng có thể thực hiện đồng thời cả hai thủ tục này đối với cùng một giao dịch,
gọi là “thử nghiệm kép”. Ví dụ, kiểm toán viên có thể thiết kế và đánh giá các
kết quả kiểm tra một hóa đơn nhằm xác định xem hóa đơn đó đã được phê duyệt hay
chưa, đồng thời cung cấp bằng chứng kiểm toán chi tiết về giao dịch đó. Thử
nghiệm kép được thiết kế và đánh giá bằng cách xem xét riêng rẽ mỗi mục tiêu kiểm
toán nêu trên.

A24.       Theo đoạn 30 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 315,
trong một số trường hợp, kiểm toán viên có thể nhận thấy rằng không thể thiết kế
các thử nghiệm cơ bản một cách hiệu quả mà bản thân các thử nghiệm này cung cấp
đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp ở cấp độ cơ sở dẫn liệu. Tình huống này
có thể xảy ra khi một đơn vị điều hành hoạt động kinh doanh bằng công nghệ
thông tin và không ghi lại hoặc không lưu trữ bằng tài liệu mà chỉ thông qua hệ
thống công nghệ thông tin. Trong trường hợp này, kiểm toán viên phải thực hiện
các thử nghiệm kiểm soát có liên quan theo yêu cầu trong đoạn 08(b) Chuẩn mực
này.

Bằng chứng kiểm toán và độ tin cậy dự tính (hướng dẫn
đoạn 09 Chuẩn mực này)

A25.       Kiểm toán viên có thể đạt được mức độ đảm bảo cao hơn
về tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát khi phương pháp kiểm toán chủ yếu sử dụng
thử nghiệm kiểm soát, đặc biệt là khi không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm
toán thích hợp chỉ từ các thử nghiệm cơ bản.

Nội dung và phạm vi của thử nghiệm kiểm soát

Các thủ tục kiểm toán khác kết hợp với thủ tục phỏng vấn
(hướng dẫn đoạn 10(a) Chuẩn mực này)

A26.       Chỉ thực hiện thủ tục phỏng vấn thôi thì không đủ để
kiểm tra tính hữu hiệu của các kiểm soát, do đó, kiểm toán viên cần thực hiện
các thủ tục kiểm toán khác kết hợp với phỏng vấn. Thủ tục phỏng vấn kết hợp với
kiểm tra hoặc thực hiện lại có thể cung cấp sự đảm bảo cao hơn so với việc kết
hợp thủ tục phỏng vấn và quan sát vì quan sát chỉ phù hợp tại thời điểm diễn ra
giao dịch.

A27.       Nội dung của một kiểm soát cụ thể sẽ ảnh hưởng đến loại
thủ tục cần thực hiện để thu thập bằng chứng kiểm toán về tính hoạt động hữu hiệu
của kiểm soát đó. Ví dụ, nếu tính hoạt động hữu hiệu được chứng minh dưới hình
thức văn bản thì kiểm toán viên có thể quyết định kiểm tra tài liệu của đơn vị
để thu thập bằng chứng kiểm toán về tính hoạt động hữu hiệu đó. Tuy nhiên, đối
với các kiểm soát khác, tài liệu về hoạt động có thể sẽ không có sẵn hoặc không
thích hợp. Ví dụ, có thể không có tài liệu về hoạt động của một số yếu tố của
môi trường kiểm soát như việc phân quyền, phân nhiệm, hoặc không có tài liệu về
một số loại hoạt động kiểm soát như các hoạt động kiểm soát được xử lý bằng máy
tính. Trong trường hợp này, kiểm toán viên có thể thu thập bằng chứng về tính
hoạt động hữu hiệu bằng cách phỏng vấn kết hợp với các thủ tục kiểm toán khác,
như quan sát hoặc sử dụng các kỹ thuật kiểm toán với sự hỗ trợ của máy tính.

Phạm vi của thử nghiệm kiểm soát

A28.       Kiểm toán viên có thể phải mở rộng phạm vi thử nghiệm
đối với một kiểm soát khi cần thu thập bằng chứng kiểm toán thuyết phục hơn về
tính hữu hiệu của kiểm soát đó. Ngoài mức độ tin cậy vào các kiểm soát, kiểm
toán viên có thể xem xét các vấn đề sau khi xác định phạm vi của thử nghiệm kiểm
soát:

(1)       
Tần suất thực hiện
kiểm soát của đơn vị trong suốt giai đoạn;

(2)       
Khoảng thời gian
trong giai đoạn kiểm toán mà kiểm toán viên tin cậy vào tính hữu hiệu của hoạt
động kiểm soát;

(3)       
Tỷ lệ sai lệch dự
kiến của một kiểm soát;

(4)       
Tính thích hợp và
độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán cần thu thập về tính hữu hiệu của hoạt động
kiểm soát ở cấp độ cơ sở dẫn liệu;

(5)       
Phạm vi của bằng
chứng kiểm toán cần thu thập được từ các thử nghiệm kiểm soát khác liên quan đến
cơ sở dẫn liệu đó.

Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 530 quy định và hướng dẫn
chi tiết hơn về phạm vi thử nghiệm.

A29.       Do tính nhất quán vốn có của quy trình xử lý công nghệ
thông tin, kiểm toán viên có thể không cần phải mở rộng phạm vi thử nghiệm đối
với một kiểm soát tự động. Một kiểm soát tự động sẽ được thực hiện một cách nhất
quán nếu chương trình (bao gồm các bảng biểu, tệp tin hay dữ liệu cố định được
sử dụng trong chương trình) không thay đổi. Nếu kiểm toán viên xác định là một
kiểm soát tự động vận hành đúng như dự kiến (việc xác định có thể được thực hiện
tại thời điểm bắt đầu thực hiện kiểm soát hoặc một thời điểm khác) thì kiểm
toán viên có thể xem xét thực hiện các thử nghiệm để xác định rằng kiểm soát đó
tiếp tục vận hành hiệu quả. Các thử nghiệm đó có thể bao gồm việc xác định:

(1)        
Các thay đổi của
chương trình sẽ không được thực hiện khi chưa có sự kiểm soát thích hợp đối với
các thay đổi đó;

(2)        
Phiên bản chính
thức của chương trình được sử dụng để xử lý giao dịch;

(3)        
Các kiểm soát
chung khác có liên quan được thực hiện hiệu quả.

Các thử nghiệm này cũng có thể bao gồm việc xác định rằng
những thay đổi của chương trình chưa được triển khai, như trường hợp đơn vị sử
dụng các gói phần mềm ứng dụng mà không chỉnh sửa hoặc bảo trì các phần mềm
này. Ví dụ, kiểm toán viên có thể kiểm tra hồ sơ quản trị về an ninh công nghệ
thông tin để thu thập được bằng chứng kiểm toán cho thấy chưa có sự truy cập trái
phép nào trong suốt giai đoạn.

Thử nghiệm đối với các kiểm soát gián tiếp (hướng dẫn
đoạn 10(b) Chuẩn mực này)

A30.       Trong một số trường hợp, kiểm toán viên có thể cần thu
thập bằng chứng kiểm toán để chứng minh tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát
gián tiếp. Ví dụ, khi kiểm toán viên quyết định kiểm tra tính hữu hiệu của việc
người sử dụng soát xét báo cáo ngoại lệ về việc bán hàng vượt hạn mức nợ cho
phép, thì việc soát xét của người sử dụng và các hoạt động liên quan sau đó là
các kiểm soát được kiểm toán viên xác định là liên quan trực tiếp. Các kiểm
soát đối với tính chính xác của thông tin trong báo cáo (ví dụ, kiểm soát chung
về công nghệ thông tin) được coi là các kiểm soát gián tiếp.

A31.       Do tính nhất quán vốn có của quy trình xử lý công nghệ
thông tin, bằng chứng kiểm toán về việc thực hiện một ứng dụng kiểm soát tự động,
khi được xem xét kết hợp với các bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của hoạt
động kiểm soát chung của đơn vị (đặc biệt là các kiểm soát đối với sự thay đổi),
cũng có thể cung cấp bằng chứng kiểm toán quan trọng về tính hữu hiệu của hoạt
động kiểm soát đó.

Lịch trình thử nghiệm kiểm soát

Khoảng thời gian tin cậy dự tính (hướng dẫn đoạn 11
Chuẩn mực này)

A32.       Bằng chứng kiểm toán chỉ liên quan đến một thời điểm vẫn
có thể là đầy đủ cho mục đích kiểm toán, ví dụ khi thử nghiệm kiểm soát đối với
việc kiểm kê hàng tồn kho của đơn vị vào cuối kỳ kế toán. Mặt khác, nếu kiểm
toán viên dự định dựa vào một kiểm soát trong cả giai đoạn, kiểm toán viên cần
thực hiện các thử nghiệm có khả năng cung cấp bằng chứng kiểm toán về việc kiểm
soát đó được thực hiện hiệu quả tại những thời điểm liên quan trong giai đoạn
đó. Những thử nghiệm loại này có thể bao gồm thử nghiệm đối với việc giám sát
các kiểm soát của đơn vị.

Sử dụng bằng chứng kiểm toán thu thập được trong giai
đoạn giữa kỳ (hướng dẫn đoạn 12(b) Chuẩn mực này)

A33.       Khi xác định bằng chứng kiểm toán bổ sung cần thu thập
về các kiểm soát được thực hiện trong giai đoạn từ giữa kỳ đến cuối kỳ, kiểm
toán viên cần xem xét các yếu tố bao gồm:

(1)       
Mức độ nghiêm trọng
của các rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá ở cấp độ cơ sở dẫn liệu;

(2)       
Các kiểm soát cụ
thể đã được thử nghiệm trong giai đoạn giữa kỳ, cũng như những thay đổi quan trọng
đối với các kiểm soát đó kể từ khi được thử nghiệm, kể cả những thay đổi về hệ
thống thông tin, quy trình xử lý và nhân sự;

(3)       
Mức độ thu thập
được bằng chứng kiểm toán về tính hữu hiệu của các hoạt động kiểm soát đó;

(4)       
Khoảng thời gian
còn lại của giai đoạn kiểm toán;

(5)       
Phạm vi thử nghiệm
cơ bản mà kiểm toán viên dự định giảm bớt dựa vào mức độ tin cậy của các kiểm
soát;

(6)       
Môi trường kiểm
soát.

A34.       Kiểm toán viên có thể thu thập bằng chứng kiểm toán bổ
sung bằng cách thực hiện thử nghiệm kiểm soát cho giai đoạn còn lại hoặc kiểm
tra công tác giám sát các kiểm soát của đơn vị được kiểm toán.

Sử dụng bằng chứng kiểm toán thu thập được từ các cuộc
kiểm toán trước (hướng dẫn đoạn 13 Chuẩn mực này)

A35.       Trong một số trường hợp nhất định, bằng chứng kiểm
toán thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước cũng có thể cung cấp bằng chứng
cho cuộc kiểm toán hiện tại nếu kiểm toán viên thực hiện các thủ tục kiểm toán
để chứng minh các bằng chứng kiểm toán năm trước vẫn tiếp tục
phù hợp cho cuộc kiểm toán hiện tại. Ví dụ,
khi thực hiện cuộc kiểm toán trước, kiểm toán viên đã xác định là một kiểm soát
tự động của đơn vị đã vận hành như dự kiến thì trong cuộc kiểm toán hiện tại,
kiểm toán viên có thể thu thập bằng chứng kiểm toán để xác định liệu có thay đổi
nào trong kiểm soát tự động này có thể ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát hay
không, thông qua việc phỏng vấn Ban Giám đốc và kiểm tra sổ theo dõi để xác định
các kiểm soát nào đã bị thay đổi. Bằng chứng kiểm toán về những thay đổi này có
thể giúp kiểm toán viên quyết định tăng hoặc giảm bằng chứng kiểm toán cần thu
thập trong giai đoạn hiện tại để đánh giá tính hữu hiệu của hoạt động kiểm
soát.

Các kiểm soát đã thay đổi kể từ các cuộc kiểm toán trước
(hướng dẫn đoạn 14(a) Chuẩn mực này)

A36.       Các thay đổi có thể làm ảnh hưởng đến tính thích hợp của
bằng chứng kiểm toán đã thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước, làm cho các
bằng chứng này không còn tiếp tục được kiểm toán viên tin cậy trong cuộc kiểm
toán hiện tại. Ví dụ, các thay đổi trong hệ thống cho phép đơn vị nhận một báo
cáo mới từ hệ thống có thể không ảnh hưởng đến tính thích hợp của bằng chứng kiểm
toán đã thu thập được từ cuộc kiểm toán trước nhưng các thay đổi làm cho dữ liệu
được cộng lũy kế hoặc được tính toán theo một cách khác sẽ ảnh hưởng đến tính
thích hợp của bằng chứng kiểm toán đó.

Các kiểm soát không thay đổi kể từ các cuộc kiểm toán
trước (hướng dẫn đoạn 14(b) Chuẩn mực này)

A37.       Kiểm toán viên cần sử dụng xét đoán chuyên môn để quyết
định liệu có thể tiếp tục tin tưởng vào những bằng chứng kiểm toán đã thu thập
được trong các cuộc kiểm toán trước đối với các kiểm soát sau:

(a)       
Các kiểm soát
không có sự thay đổi kể từ lần thử nghiệm cuối cùng;

(b)       
Các kiểm soát
không làm giảm bớt rủi ro đáng kể.

Kiểm toán viên cũng sử dụng xét đoán chuyên môn để xác
định khoảng thời gian thích hợp để kiểm tra lại các kiểm soát, tuy nhiên theo
quy định tại đoạn 14(b) Chuẩn mực này, việc này cần được thực hiện ít nhất một
lần trong 3 năm liên tục.

A38.       Nói chung, rủi ro có sai sót trọng yếu càng cao, hoặc
mức độ tin cậy vào kiểm soát càng lớn, thì thời gian giữa các lần kiểm tra (nếu
có) càng ngắn. Các yếu tố có thể rút ngắn thời gian kiểm tra lại một kiểm soát,
hoặc làm cho kiểm toán viên quyết định không tin cậy vào bằng chứng kiểm toán
thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước, bao gồm:

(1)       
Môi trường kiểm
soát yếu kém;

(2)       
Sự yếu kém của
công tác giám sát các kiểm soát;

(3)       
Các kiểm soát
liên quan có một yếu tố quan trọng được thực hiện thủ công;

(4)       
Thay đổi nhân sự
có ảnh hưởng đáng kể đến việc ứng dụng một kiểm soát;

(5)       
Tình hình thay đổi
dẫn đến sự cần thiết phải thay đổi về kiểm soát;

(6)       
Yếu kém trong các
kiểm soát chung về công nghệ thông tin.

A39.       Khi kiểm toán viên dự định tin cậy vào bằng chứng kiểm
toán thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước đối với một số kiểm soát, việc
kiểm tra một số trong các kiểm soát đó ở từng cuộc kiểm toán sẽ cung cấp thông
tin chứng thực về tính hữu hiệu liên tục của môi trường kiểm soát. Việc này
giúp kiểm toán viên quyết định liệu có thể tin cậy vào bằng chứng kiểm toán đã
thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước hay không.

Đánh giá tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát (hướng
dẫn đoạn 16 – 17 Chuẩn mực này)

A40.       Một sai sót trọng yếu được kiểm toán viên phát hiện là
dấu hiệu rõ ràng về sự tồn tại của một khiếm khuyết nghiêm trọng trong kiểm
soát nội bộ.

A41.       Khái niệm tính hữu hiệu của hoạt động kiểm soát vẫn
cho thấy có thể có những sai lệch trong cách thức triển khai các kiểm soát của
đơn vị. Những sai lệch đó có thể do các yếu tố như thay đổi nhân sự chủ chốt, sự
dao động đáng kể về số lượng giao dịch theo mùa vụ và các nhầm lẫn chủ quan. Tỷ
lệ sai lệch được phát hiện, đặc biệt là khi so với tỷ lệ sai lệch dự kiến, có
thể cho thấy không thể tin cậy vào kiểm soát để giảm rủi ro ở cấp độ cơ sở dẫn
liệu xuống mức độ mà kiểm toán viên đánh giá.

Thử nghiệm cơ bản (hướng dẫn đoạn 18 Chuẩn mực này)

A42.       Theo quy định tại đoạn 18 Chuẩn mực này, kiểm toán
viên cần thiết kế và thực hiện các thử nghiệm cơ bản cho mỗi nhóm giao dịch, số
dư tài khoản và thông tin thuyết minh trọng yếu, cho dù kết quả đánh giá rủi ro
có sai sót trọng yếu như thế nào. Quy định này xuất phát từ thực tế là: (a) việc
đánh giá rủi ro của kiểm toán viên là mang tính xét đoán, do đó kiểm toán viên
có thể không phát hiện ra tất cả các rủi ro có sai sót trọng yếu; và (b) có những
hạn chế tiềm tàng trong kiểm soát nội bộ, bao gồm việc Ban Giám đốc khống chế
kiểm soát.

Nội
dung và phạm vi thử nghiệm cơ bản

A43.       Tùy theo tình hình, kiểm toán viên có thể xác định rằng:

(1)       
Chỉ thực hiện các
thủ tục phân tích cơ bản là đủ để giảm rủi ro kiểm toán xuống mức thấp có thể
chấp nhận được. Ví dụ: khi kiểm toán viên đánh giá rủi ro dựa vào bằng chứng kiểm
toán thu thập được từ thử nghiệm kiểm soát;

(2)       
Chỉ có kiểm tra
chi tiết là thích hợp;

(3)       
Việc kết hợp thủ
tục phân tích cơ bản và kiểm tra chi tiết là thích hợp nhất để xử lý rủi ro đã
được đánh giá.

A44.       Thủ tục phân tích cơ bản thường được áp dụng cho số lượng
lớn các giao dịch có thể dự đoán theo thời gian. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
520 quy định và hướng dẫn về việc áp dụng thủ tục phân tích trong việc kiểm
toán.

A45.       Kiểm toán viên cần xem xét bản chất của rủi ro và cơ sở
dẫn liệu khi thiết kế kiểm tra chi tiết. Ví dụ, khi kiểm tra chi tiết liên quan
đến cơ sở dẫn liệu “tính hiện hữu” hoặc “tính phát sinh”, kiểm toán viên có thể
lựa chọn số liệu từ các khoản mục đã có trong báo cáo tài chính và thu thập bằng
chứng kiểm toán thích hợp. Mặt khác, khi kiểm tra chi tiết liên quan đến cơ sở
dẫn liệu “tính đầy đủ”, kiểm toán viên có thể cần lựa chọn số liệu từ những khoản
mục sẽ phải có trong báo cáo tài chính và kiểm tra xem các khoản mục đó đã được
trình bày trong báo cáo tài chính hay chưa.

A46.       Do việc đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu cần xem
xét đến kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên sẽ cần mở rộng phạm vi thử nghiệm cơ bản
khi kết quả thử nghiệm kiểm soát là không thỏa đáng. Tuy nhiên, việc mở rộng phạm
vi của một thủ tục kiểm toán chỉ thích hợp khi thủ tục kiểm toán đó có liên
quan đến rủi ro cụ thể.

A47.       Khi thiết kế kiểm tra chi tiết, phạm vi kiểm tra thường
được xem xét như là việc lựa chọn cỡ mẫu. Tuy nhiên, kiểm toán viên cần xem xét
những vấn đề khác liên quan, như liệu có phương pháp nào hiệu quả hơn để lựa chọn
các phần tử kiểm tra hay không (xem đoạn 10 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
500).

Xem xét sự cần thiết phải thực hiện thủ tục xác nhận từ
bên ngoài (hướng dẫn đoạn 19 Chuẩn mực này)

A48.       Thủ tục xác nhận từ bên ngoài thường được thực hiện
khi thu thập bằng chứng kiểm toán về các cơ sở dẫn liệu liên quan đến các số dư
tài khoản và các yếu tố kèm theo, tuy nhiên không nhất thiết giới hạn ở các khoản
mục này. Ví dụ, kiểm toán viên có thể yêu cầu xác nhận từ bên ngoài về các điều
khoản hợp đồng, hoặc các giao dịch giữa đơn vị với các bên khác. Thủ tục xác nhận
từ bên ngoài cũng có thể được thực hiện để thu thập bằng chứng kiểm toán về việc
không có các điều kiện nhất định. Ví dụ, kiểm toán viên có thể yêu cầu xác nhận
rằng không có “thoả thuận phụ” nào liên quan đến cơ sở dẫn liệu về tính đúng kỳ
của doanh thu. Thủ tục xác nhận từ bên ngoài cũng có thể cung cấp bằng chứng kiểm
toán thích hợp để xử lý rủi ro có sai sót trọng yếu đã được đánh giá trong các
trường hợp như:

(1)        
Số dư tài khoản
ngân hàng và các thông tin khác liên quan đến quan hệ với ngân hàng;

(2)        
Số dư các khoản
phải thu và các điều khoản hợp đồng;

(3)        
Hàng tồn kho do
bên thứ ba nắm giữ tại kho bảo thuế để xử lý hoặc hàng ký gửi;

(4)        
Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do luật sư hoặc người cho vay giữ để bảo quản hoặc để đảm bảo
khả năng thanh toán;

(5)        
Các khoản đầu tư do
bên thứ ba nắm giữ để bảo vệ an toàn, hoặc mua trên sàn chứng khoán nhưng chưa
được nhận vào ngày lập Bảng cân đối kế toán;

(6)        
Các khoản vay,
bao gồm các điều khoản thanh toán và các điều khoản giới hạn;

(7)        
Số dư các khoản
phải trả và các điều khoản hợp đồng.

A49.       Mặc dù các xác nhận từ bên ngoài có thể cung cấp bằng
chứng kiểm toán thích hợp đối với một số cơ sở dẫn liệu nhất định nhưng các xác
nhận này lại cung cấp bằng chứng kiểm toán không mấy thích hợp đối với một số
cơ sở dẫn liệu khác. Ví dụ, xác nhận từ bên ngoài có thể cung cấp bằng chứng kiểm
toán về sự tồn tại của các khoản phải thu nhưng không cung cấp bằng chứng về khả
năng thu hồi các khoản phải thu đó.

A50.       Kiểm toán viên có thể xác định rằng thủ tục xác nhận từ
bên ngoài được thực hiện cho một mục đích nhất định cũng có thể giúp thu thập bằng
chứng kiểm toán về các vấn đề khác. Ví dụ, yêu cầu xác nhận về các số dư tài
khoản ngân hàng thường bao gồm yêu cầu cung cấp thông tin liên quan đến các cơ
sở dẫn liệu khác của báo cáo tài chính. Việc xem xét các vấn đề này có thể ảnh
hưởng đến quyết định của kiểm toán viên về việc có thực hiện các thủ tục xác nhận
từ bên ngoài hay không.

A51.       Các yếu tố có thể giúp kiểm toán viên xác định có thực
hiện các thủ tục xác nhận từ bên ngoài như các thử nghiệm kiểm toán cơ bản hay
không, bao gồm:

(1)       
Hiểu biết của bên
xác nhận về vấn đề cần xác nhận: thông tin phản hồi có thể đáng tin cậy hơn nếu
được một người của bên xác nhận có hiểu biết cần thiết về thông tin cần xác nhận;

(2)       
Khả năng hoặc sự
sẵn sàng phản hồi của bên xác nhận, ví dụ bên xác nhận:

–       
Có thể không nhận
trách nhiệm đối với việc phản hồi một yêu cầu xác nhận;

–       
Có thể thấy việc
phản hồi tốn quá nhiều chi phí và thời gian;

–       
Có thể lo lắng về
trách nhiệm pháp lý từ việc phản hồi;

–       
Có thể hạch toán
giao dịch bằng các loại tiền tệ khác; hoặc

–       
Có thể hoạt động
trong một môi trường mà việc phản hồi các yêu cầu xác nhận không phải là vấn đề
quan trọng của các hoạt động hàng ngày.

Trong trường hợp đó, bên xác nhận có thể không phản hồi,
phản hồi một cách thiếu trách nhiệm hoặc có thể cố gắng hạn chế độ tin cậy của
phản hồi.

(3)       
Sự khách quan của
bên xác nhận: nếu bên xác nhận là bên liên quan của đơn vị thì việc phản hồi
cho các yêu cầu xác nhận có thể có độ tin cậy thấp hơn.

Thử nghiệm cơ bản liên quan đến quy trình khóa sổ kế
toán lập báo cáo tài chính (hướng dẫn đoạn 20(b) Chuẩn mực này)

A52.       Nội dung và phạm vi kiểm tra của kiểm toán viên đối với
các bút toán và điều chỉnh khác phụ thuộc vào tính chất và mức độ phức tạp của
quy trình lập báo cáo tài chính của đơn vị và các rủi ro có sai sót trọng yếu
liên quan.

Thử nghiệm cơ bản đối với các rủi ro đáng kể (hướng
dẫn đoạn 21 Chuẩn mực này)

A53.       Đoạn 21 Chuẩn mực này yêu cầu kiểm toán viên phải thực
hiện các thử nghiệm cơ bản để xử lý các rủi ro mà kiểm toán viên đã xác định là
rủi ro đáng kể. Bằng chứng kiểm toán dưới hình thức xác nhận từ bên ngoài mà kiểm
toán viên nhận trực tiếp từ các bên xác nhận phù hợp có thể giúp kiểm toán viên
thu thập bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao cần thiết để xử lý rủi ro có
sai sót trọng yếu đáng kể do gian lận hoặc nhầm lẫn. Ví dụ, nếu kiểm toán
viên nhận thấy Ban Giám đốc đang chịu áp lực phải đạt được các mức lợi nhuận kỳ
vọng thì có thể xảy ra rủi ro Ban Giám đốc thổi phồng doanh thu bằng cách ghi
nhận các khoản doanh thu không phù hợp với điều khoản của hợp đồng bán hàng, hoặc
bằng cách phát hành hoá đơn trước khi giao hàng. Trong trường hợp này, kiểm
toán viên có thể thiết kế các thủ tục xác nhận từ bên ngoài để xác nhận các số
dư chưa thanh toán, đồng thời xác nhận các chi tiết trong hợp đồng bán hàng,
bao gồm thời điểm, các điều khoản về giao hàng và quyền trả lại hàng. Ngoài ra,
để hỗ trợ cho việc thực hiện thủ tục xác nhận từ bên ngoài, kiểm toán viên có
thể phỏng vấn các nhân sự không làm công tác tài chính của đơn vị về những thay
đổi trong hợp đồng bán hàng và các điều khoản giao hàng.

Lịch
trình thực hiện thử nghiệm cơ bản (hướng dẫn đoạn 22 – 23 Chuẩn mực này)

A54.       Trong hầu hết các trường hợp, bằng chứng kiểm toán từ
các thử nghiệm cơ bản đã thu thập được từ cuộc kiểm toán trước hầu như không
cung cấp bằng chứng nào cho cuộc kiểm toán hiện tại. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp
ngoại lệ, ví dụ, một công văn của cơ quan thuế thu thập được trong cuộc kiểm
toán trước có liên quan đến xử lý vi phạm về thuế thu nhập cá nhân không bị
thay đổi có thể vẫn thích hợp cho kỳ kiểm toán hiện tại. Trong trường hợp này,
việc sử dụng bằng chứng kiểm toán từ các thử nghiệm cơ bản của cuộc kiểm toán
trước có thể vẫn thích hợp với cuộc kiểm toán hiện tại nếu bằng chứng đó và vấn
đề có liên quan về cơ bản không thay đổi, và kiểm toán viên đã thực hiện các thủ
tục kiểm toán để chứng minh các bằng chứng kiểm toán từ các cuộc kiểm toán trước
vẫn tiếp tục phù hợp cho cuộc kiểm toán hiện tại.

Sử dụng bằng chứng kiểm toán thu thập được trong giai
đoạn giữa kỳ (hướng dẫn đoạn 22 Chuẩn mực này)

A55.       Trong một số trường hợp, kiểm toán viên có thể thấy hiệu
quả khi thực hiện thử nghiệm cơ bản tại thời điểm kiểm toán giữa kỳ và so sánh,
đối chiếu các thông tin liên quan đến số dư cuối kỳ với thông tin so sánh tại
thời điểm giữa kỳ để:

(a)       
Phát hiện các số
liệu bất thường;

(b)       
Điều tra các số
liệu bất thường (nếu có);

(c)       
Thực hiện thủ tục
phân tích cơ bản hoặc kiểm tra chi tiết cho giai đoạn từ giữa kỳ đến cuối kỳ.

A56.       Việc thực hiện thử nghiệm cơ bản tại thời điểm kiểm
toán giữa kỳ mà không có thêm các thủ tục bổ sung cho giai đoạn sau sẽ làm tăng
rủi ro trong việc kiểm toán viên không phát hiện ra các sai sót có thể có tại
thời điểm cuối kỳ. Rủi ro này sẽ càng tăng khi giai đoạn còn lại càng dài. Khi
cân nhắc sự cần thiết của việc thực hiện thử nghiệm cơ bản ở giai đoạn giữa kỳ,
kiểm toán viên cần xem xét các yếu tố sau:

(1)       
Môi trường kiểm
soát và các kiểm soát liên quan khác;

(2)       
Mức độ sẵn có của
thông tin cần thiết cho các thủ tục kiểm toán của kiểm toán viên vào giai đoạn
sau ;

(3)       
Mục tiêu của thử
nghiệm cơ bản;

(4)       
Rủi ro có sai sót
trọng yếu đã được đánh giá;

(5)       
Tính chất của
nhóm giao dịch hoặc số dư tài khoản và các cơ sở dẫn liệu liên quan;

(6)       
Khả năng của kiểm
toán viên khi thực hiện các thử nghiệm cơ bản thích hợp hoặc kết hợp thử nghiệm
cơ bản với thử nghiệm kiểm soát để bao quát toàn bộ giai đoạn còn lại, nhằm làm
giảm rủi ro xảy ra sai sót vào giai đoạn cuối kỳ chưa được kiểm toán viên phát
hiện.

A57.       Những yếu tố sau đây có thể ảnh hưởng đến quyết định của
kiểm toán viên về việc liệu có thực hiện thủ tục phân tích cơ bản cho giai đoạn
từ giữa kỳ đến cuối kỳ hay không:

(1)       
Số dư cuối kỳ của
các nhóm giao dịch hoặc một tài khoản cụ thể có được dự báo một cách hợp lý về
giá trị, biến động tương đối và thành phần của số dư cuối kỳ hay không;

(2)       
Các thủ tục phân
tích và điều chỉnh các nhóm giao dịch hoặc số dư tài khoản tại thời điểm giữa kỳ
và thực hiện khóa sổ kế toán của đơn vị có phù hợp hay không;

(3)       
Hệ thống thông
tin liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính có cung cấp đầy đủ
thông tin liên quan đến các số dư cuối kỳ và các giao dịch trong giai đoạn còn
lại để cho phép kiểm toán viên điều tra về:

(a)       
Các giao dịch hoặc
bút toán bất thường phát sinh tại hoặc gần thời điểm cuối kỳ;

(b)       
Nguyên nhân khác
của các biến động đáng kể, hoặc biến động dự kiến đã không xảy ra;

(c)       
Những thay đổi về
thành phần của các nhóm giao dịch hoặc số dư tài khoản.

Các sai sót được phát hiện tại thời điểm kiểm toán giữa
kỳ (hướng dẫn đoạn 23 Chuẩn mực này)

A58.       Nếu kiểm toán viên kết luận rằng nội dung, lịch trình
hoặc phạm vi dự kiến của các thử nghiệm cơ bản cho giai đoạn còn lại cần được
điều chỉnh do phát hiện ra những sai sót ngoài dự kiến tại thời điểm giữa kỳ,
thì tại thời điểm cuối kỳ, kiểm toán viên cần mở rộng hoặc lặp lại các thủ tục
đã thực hiện tại thời điểm giữa kỳ.

Mức độ đầy đủ
của việc trình bày và thuyết minh báo cáo tài chính
(hướng dẫn đoạn 24 Chuẩn mực này)

A59.       Khi đánh giá việc trình bày tổng thể báo cáo tài
chính, kể cả các thuyết minh liên quan, kiểm toán viên cần đánh giá xem từng
báo cáo có phản ánh việc phân loại và mô tả thích hợp các thông tin tài chính
và hình thức, cách sắp xếp, nội dung báo cáo tài chính và các thuyết minh kèm
theo hay không. Những nội dung này có thể bao gồm thuật ngữ sử dụng, số lượng
các thông tin, số liệu chi tiết đưa ra, việc phân loại các khoản mục trong báo
cáo và cơ sở trình bày thông tin.

Đánh giá
tính đầy đủ và thích hợp của bằng chứng kiểm toán
(hướng dẫn đoạn 25 – 27 Chuẩn mực này)

A60.       Công việc kiểm toán báo cáo tài chính là một quá trình
mang tính tích lũy và cập nhật thường xuyên. Khi thực hiện thủ tục kiểm toán
theo kế hoạch đã lập, bằng chứng kiểm toán thu thập được có thể làm cho kiểm
toán viên phải thay đổi nội dung, lịch trình hoặc phạm vi các thủ tục kiểm toán
khác. Thông tin mà kiểm toán viên thu thập được có thể có sự khác biệt đáng kể
so với thông tin được sử dụng làm cơ sở cho việc đánh giá rủi ro. Ví dụ:

(1)       
Mức độ sai sót mà
kiểm toán viên phát hiện khi thực hiện thử nghiệm cơ bản có thể làm thay đổi
xét đoán chuyên môn của kiểm toán viên về đánh giá rủi ro và có thể cho thấy
khiếm khuyết nghiêm trọng trong kiểm soát nội bộ;

(2)       
Kiểm toán viên có
thể nhận thấy sự thiếu nhất quán trong sổ kế toán, những bằng chứng mâu thuẫn
hoặc bị bỏ sót;

(3)       
Các thủ tục phân
tích được thực hiện trong giai đoạn soát xét tổng thể của cuộc kiểm toán có thể
cho thấy rủi ro có sai sót trọng yếu chưa được phát hiện trước đó.

Trong trường hợp này, kiểm toán viên có thể cần đánh
giá lại các thủ tục kiểm toán đã lập kế hoạch dựa trên việc xem xét lại các rủi
ro đã được đánh giá đối với tất cả hoặc một số nhóm giao dịch, số dư tài khoản,
hoặc thông tin thuyết minh trên báo cáo tài chính và những cơ sở dẫn liệu có
liên quan. Đoạn 31 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 315 hướng dẫn chi tiết hơn về
việc xem xét lại đánh giá rủi ro của kiểm toán viên.

A61.       Kiểm toán viên không được cho rằng gian lận hoặc nhầm
lẫn chỉ là cá biệt. Do vậy, kiểm toán viên cần cân nhắc xem việc phát hiện ra
sai sót sẽ có ảnh hưởng như thế nào đến các rủi ro có sai sót trọng yếu đã được
đánh giá để xác định xem liệu đánh giá còn phù hợp hay không.

A62.       Xét đoán chuyên môn của kiểm toán viên về tính đầy đủ
và thích hợp của bằng chứng kiểm toán chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:

(1)       
Mức độ nghiêm trọng
của sai sót tiềm tàng trong cơ sở dẫn liệu và khả năng xảy ra ảnh hưởng trọng yếu,
riêng rẽ hoặc tổng hợp với các sai sót tiềm tàng khác đối với báo cáo tài
chính;

(2)       
Tính hữu hiệu của
các biện pháp xử lý và các kiểm soát của Ban Giám đốc đơn vị đối với các rủi ro
này;

(3)       
Kinh nghiệm tích
lũy được từ các cuộc kiểm toán trước đây liên quan đến các sai sót tiềm tàng
tương tự;

(4)       
Kết quả thực hiện
các thủ tục kiểm toán, kể cả việc liệu các thủ tục kiểm toán đó có phát hiện được
các trường hợp gian lận hoặc nhầm lẫn hay không;

(5)       
Nguồn gốc và độ
tin cậy của thông tin sẵn có;

(6)       
Tính thuyết phục
của bằng chứng kiểm toán;

(7)       
Hiểu biết của kiểm
toán viên về đơn vị và môi trường của đơn vị, trong đó có kiểm soát nội bộ.

Tài liệu, hồ sơ kiểm toán (hướng dẫn đoạn 28 Chuẩn mực này)

A63.       Hình thức và phạm vi của tài liệu, hồ sơ kiểm toán là
vấn đề thuộc về xét đoán chuyên môn của kiểm toán viên và chịu ảnh hưởng của
tính chất, quy mô và mức độ phức tạp của đơn vị được kiểm toán cũng như của kiểm
soát nội bộ của đơn vị, tính sẵn có của thông tin trong đơn vị, phương pháp và
kỹ thuật kiểm toán được sử dụng./.

*****

Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn