Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua Chiếc thuyền ngoài xa
+ Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống và phục vụ cuộc sống (bức tranh có con thuyền, có con người, có nhiều yếu tố thiên nhiên đẹp đẽ khác như sương mù, ánh bình minh…nhưng thiếu hơi thở cuộc sống, nó chỉ là bức ảnh thể hiện vẻ đẹp bên ngoài của cuộc sống). Nghệ thuật đích thực phải thể hiện được bản chất sâu xa, sự thật ẩn sâu của cuộc sống. Ông đã từng khẳng định “Nhà văn không có quyền nhìn sự thật một cách đơn giản, nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”. Đó là một cái nhìn đa diện, nhiều chiều, đi sâu khám phá sự thật của đời sống ở bình diện đạo đức, thế sự để hiểu đúng bản chất bên trong của hiện thực.
Bài mẫu
Bài tham khảo số 1:
“ Chiếc thuyền ngoài xa ” sinh ra ba năm trước thời gian 1986 – mốc mà bất kỳ một nhà văn Nước Ta xã hội chủ nghĩa nào cũng phải nhớ, như là năm khai sinh và tái sinh con đường nghệ thuật của mình, tối thiểu là về tư thế cầm bút, họ được tự do. Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ nhu yếu của mình và nhu yếu của văn học. Ông từ giã chính ông, truy đuổi những cách khám nghiệm đời sống dưới góc nhìn và phương tiện đi lại mới. Trong Bức tranh và Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, tối thiểu, sự truy đuổi ấy đã đặt Nguyễn Minh Châu trước một thử thách triết học : sự tự nhận thức. Nhận thức không riêng gì diễn ra dưới công suất của tư duy lí trí, mà có vẻ như còn phải diễn ra bằng nhưng luồng xung của tiềm thức, của vùng sâu vùng sáng và vùng tối trong tâm hồn. Cơ mà, cũng phải thấy, nhiều lúc ông bất lực để lí giải, lí giải cho nhân vật và lí giải cho hiện thực. Nhân vật của ông vượt qua những giăng bẫy hiện thực mà ông chân thực dựng nên, rơi vào trạng thái “ bất khả tri ”. Sự tự nhận thức trở nên đau đớn, trở thành một vết thương chuẩn bị sẵn sàng thức tỉnh. Ai nào biết được khuôn mặt trong bức tranh kia là khuôn mặt gì của thời đại, của thế hệ, của từng cá thể ; ai biết được người đàn bà tên Quì ấy mắc một chứng bệnh cá thể hay của thế hệ, của thời đại … ?. Không thuận tiện đưa ra Kết luận, cũng như những nhân vật kia, không thuận tiện dập tắt ngọn lửa tự nhận thức trong mình, dập tắt đồng nghĩa tương quan với thiêu rụi sự sống .
“ Chiếc thuyền ngoài xa ” nằm trong mạch sáng tác yên cầu cả fan hâm mộ và nhà văn phải nhận thức lại hiện thực. Hiện thực giờ đây không đơn thuần là một vết xước rớm máu trên cánh tay trắng đẹp của cô gái người trẻ tuổi xung phong kia mà có lẽ rằng, phải là vết xước trong tâm hồn. Ở đó, mỗi cá thể là một chỉnh thể, một chiếm hữu của vết xước, bảo toàn và chưng cất nó khiến sự nhận thức mãi mãi không đưa ra một thông số bằng lòng .
Câu chuyện khởi đầu từ việc Phùng, phóng viên báo chí ảnh, đi “ săn ” một tấm hình chụp cảnh bình minh trên biển. Tấm hình kia phải là một tác phẩm nghệ thuật, đương nhiên, như anh nhận thức, cần tránh tái diễn, nhàm chán và quen thuộc. Phùng rời Thành Phố Hà Nội gần sáu trăm cây số, “ phục ” ở một bờ biển, nơi vẫn còn lưu dấu cuộc cuộc chiến tranh : đó là bãi chiến trường. Tâm thế Phùng là sẵn sàng chuẩn bị chờ đón, anh quen được Phác, một cậu bé mưu trí ở vùng biển đó. Sau gần tuần lễ, anh chụp được khá nhiều tấm hình cảnh ngư dân đánh mẻ lưới ở đầu cuối lúc bình minh lên. Nhưng tấm hình để đời, siêu phẩm mà anh hằng mong ước thì chưa có. Nghệ thuật nhiếp ảnh, qua cách hành xử của Phùng, không ít là thứ quà Tặng Ngay của vạn vật thiên nhiên .
Và rồi thì anh cũng có một cảnh trời cho : “ trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào khung trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào … Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên hoảng sợ, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào ”. Những xúc cảm nghệ thuật mà Phùng đảm nhiệm trước vẻ đẹp vạn vật thiên nhiên quả làm cho ta cảm động. Nó là niềm niềm hạnh phúc, nỗi sung sướng của kẻ luôn sẵn ý thức và nghĩa vụ và trách nhiệm với con đẻ niềm tin mà mình hằng tâm nuôi dưỡng. Phùng rơi vào trạng thái “ lên đồng ”, một trạng thái cần có trước lúc sinh thành những xúc cảm phát minh sáng tạo : “ trong khoảng thời gian ngắn hoảng sợ ấy, tôi tưởng chính mình vừa tò mò thấy cái chân lí của sự toàn thiện, tò mò cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn ”. Vào khoảnh khắc đó, Phùng trọn vẹn thành tâm với nghệ thuật, nó vừa là cái toàn thiện, cái đạo đức, cái trong ngần, vừa là niềm hạnh phúc … Anh được nó nâng đỡ, ban tặng đồng thời phát minh sáng tạo nó, cảm nhận nó. Và trong chốc lát anh “ bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim ”. “ Cái đẹp tuyệt đỉnh công phu của ngoại cảnh vừa mang lại ” trong ống kính có lẽ rằng là cái đẹp đạo đức của vạn vật thiên nhiên. Thiên nhiên, ngay cả khi kinh hoàng nhất, tàn khốc nhất, người ta vẫn thu được khoảnh khắc rất đẹp : núi lửa, tia chớp, sóng thần, bão cát … Thiên nhiên là bản thể tự nó. Cái gọi là “ vẻ đẹp ” kia chẳng qua là một chuỗi những thỏa thuận hợp tác nằm ngoài nó, do con người tạo nên .
Nhưng câu truyện đùng một cái chuyển sang một hướng khác, sau khoảnh khắc trời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một trường hợp “ hiện thực đời sống ” ban cho. Chính từ lúc này, Phùng vấp phải một thách đố khác, có lẽ rằng còn nghiệt ngã hơn cả sự phát minh sáng tạo nghệ thuật – thách đố lí giải, nhận thức hiện thực .
Trước cảnh tượng liền kề với khoảnh khắc nghệ thuật, Phùng kinh ngạc đến mức “ trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ khi nào, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới ”. Phùng lao tới nơi người đàn ông “ tấm sống lưng rộng và cong như sống lưng một chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ ” đang dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào sống lưng người đàn bà “ to lớn với những đường nét thô kệch ”, “ lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két ” … Nhưng Phùng đã bị cản lại bởi “ bóng một đứa con nít ”, đó là Phác, con trai của cặp vợ chồng kia. Phác giật chiếc thắt lưng từ tay người đàn ông, lão “ dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát ”. Rồi lão lẳng bặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Kết thúc cái cảnh tượng ấy, “ bãi cát lại trở lại với vẻ bát ngát và hoang sơ ”, chỉ còn Phùng, cậu bé Phác và tiếng sóng ngoài khơi, tổng thể chìm vào cõi lạng lẽ …
Có lẽ, đó là một hiện thực “quái đản”. Một hiện thực hiển nhiên mà không thể lí giải. Người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng. Người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn như một thói quen, vô cảm và bản năng. Những đứa con bất lực nhìn cảnh bạo lực diễn ra ở chính cha mẹ chúng. Tất cả đều im lặng, triền miên ở ngay nơi chiến tranh vừa đi qua. Tất cả đều diễn ra đằng sau cái vẻ đẹp đơn giản và toàn bích của thiên nhiên. Một hiện thực quái đản xâm lấn ngay sau phút giây hạnh phúc của người nghệ sĩ. Một nỗi đau và dìm nén nỗi đau, một bình yên và phá hoại bình yên, một dư chấn và một khoảng lặng cứ đan cài nhau giữa muôn trùng tiếng sóng biển. Và rồi, cũng như trong câu chuyện cổ quái đản, tất cả đều biến mất, tất cả cứ lặp lại…
Xem thêm: Thiết lập góc nhìn đa chiều – Duy Tân
Lần thứ hai tận mắt chứng kiến, Phùng trở thành người hùng, anh đánh quật gã đàn ông vũ phu bằng cú đánh của người “ không được cho phép hắn đánh một người đàn bà, mặc dầu đó là vợ và tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kín kẽ cho hắn đánh … ”. Phùng nhân danh một người lính – những người đã ngã xuống để giành lại bình yên cho đồng bào mình, chăng ? Hay ở anh còn có một động cơ “ đạo đức ” của người nghệ sĩ – người biết chiêm ngưỡng và thưởng thức và giữ gìn vẻ đẹp toàn thiện chứ không phải là toàn ác, tha hóa ?
Phùng đã nhờ Đẩu, người bạn đồng ngũ nay là chánh án huyện đảm nhiệm địa phận, can thiệp vào trường hợp mái ấm gia đình vợ chồng thuyền chài này. Những cú đánh của Phùng chỉ là phản ứng nhất thời, anh cần đến lời nói của một quan tòa. Nhưng rút cuộc, cả Đẩu và Phùng chỉ như những đứa trẻ, đi hết giật mình rồi phẫn nộ rồi lạng lẽ trước lời thú tội, kể lể của người đàn bà : “ Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn những chú. Lòng những chú tốt, nhưng những chú đâu có phải là người làm ăn … vì vậy những chú đâu có hiểu được cái việc của những người làm ăn lam lũ, khó nhọc ”. Hóa ra, ở người đàn bà xấu xí và tội nghiệp này là cả một hiện thực “ bất khả tri ”. Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng như chức phận mà mình có được, thỏa nguyện vì chức phận đó. Trong thâm tâm bà, những nỗi đau đớn mà mình gánh chịu xứng danh như vậy vì bởi bà … đẻ nhiều con quá. Điều đó đồng nghĩa tương quan với cái đói, cái nghèo nàn còn bám riết lấy mái ấm gia đình này. Nhưng trong thực tiễn, cái đói, cái nghèo nàn đâu chỉ bởi bà đẻ nhiều, mà nó cũng là một thiên chức rất đàn bà thôi. Trong lời thú tội ngậm ngùi, chân thực và tê tái của bà, có những câu hỏi không dễ vấn đáp, những xích míc khó lý giải : để yêu thương và sống qua muôn nỗi khó khăn vất vả, cơ cực, đôi lúc người ta phải đồng ý sự tàn tệ, tha hóa, phi đạo đức .
Người chồng vốn dĩ hiền lành, nghĩa hiệp. Sự khốn cùng, mong manh của đời sống chài lưới đã biến ông ta thành vũ phu. Có phải là một Chí Phèo, một quĩ dữ bước ra từ cái làng chài hẻo lánh kia không ? Tại sao, dưới xã hội mới này, nơi mà “ giấc mơ đại tự sự ” đã lan tỏa trong mọi khoảng trống nhỏ hẹp của đời sống, vẫn có những mảnh đời đau đớn, tha hóa kia ?
Hành động vũ phu hay là sự bế tắc, hay là sự giải thoát của những con người tội nghiệp ?. “ Bất kể khi nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu … Sau này con cháu lớn lên, tôi mới xin được với lão … đưa tôi lên bờ mà đánh … ”. Rõ ràng, đây là một giải thoát trong bế tắc, một giải thoát đẫm nước mất và đau đớn .
Cả Đẩu và Phùng đều thốt lên : “ Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được ”. Họ không hề hiểu tại sao hai con người nhỏ bé kia lại gật đầu sống và yêu thương bằng kiểu lạ lùng như vậy. Dù lời kể của người đàn bà phần nào giúp họ nhận ra những ẩn ức thẳm sâu nhưng họ vẫn dừng lại trên bờ vực của sự nhận thức hiện thực. Họ chưa thể nào dò thấu đáy sâu của nỗi ẩn ức kia cũng như hiện thực đang diễn ra trước mặt họ .
Tình huống mà Phùng không lường trước trong chuyến đi này có phải là trường hợp dựng của nhà văn ? Nhà văn đặt nhân vật và fan hâm mộ vào một trường hợp phải nhận thức. Nhưng nhân vật đã không lí giải được hiện thực, lời nói của quan tòa cũng trở nên lạc lõng. Họ đồng ý nó bằng những thỏa thuận hợp tác bên ngoài. Cơn bão biển khơi lại nổi lên, biển động, mái ấm gia đình thuyền chài này rất hoàn toàn có thể lại phải nhịn ăn, đói rách. Cái cảnh tượng thường tình kia, sẽ lại xẩy ra. “ Con sói con ” – cậu bé Phác, lại phải thủ một con dao trong mình để trấn áp người cha, trấn áp người đàn ông lầm lũi kia … Những dự cảm buồn như vết xước trở đi trở lại trong tâm hồn. Những tâm hồn đầy vùng tối .
Phùng đã có một tấm hình để đời, được treo ở nhiều nơi, nhất là trong những mái ấm gia đình sành nghệ thuật. Nhưng ám ảnh về cảnh tượng đằng sau bức ảnh thì không hề xóa mờ. Đằng sau vẻ đẹp vĩnh hằng kia cũng là nỗi đau vĩnh viễn. Nghệ thuật đã che giấu, khỏa lấp cái tha hóa, phi đạo đức ? Hay nghệ thuật “ bất khả tri ” trước hiện thực ?. Cũng như chiếc thuyền ngoài xa, nghệ thuật chỉ hoàn toàn có thể chớp lấy được cái bóng của nó, cái bóng của hiện thực. Vẻ ngoài của nghệ thuật, nhiều lúc như màn sương làm “ mờ hóa ” năng lực tri nhận ở tất cả chúng ta. Bất khả tri trở thành niềm day dứt của người nghệ sĩ. Với người nghệ sĩ, thiên chức là ngưỡng vọng và phát minh sáng tạo một vẻ đẹp toàn thiện nhưng sẽ là kẻ tội đồ nếu vẻ đẹp ấy làm che khuất và quên đi những xấu số trong đời. Cái đẹp không chỉ là đạo đức, nó là sự phản tỉnh .
Cá nhân Phùng, Đẩu sẽ không đủ sức lí giải, chấm hết thảm kịch của mái ấm gia đình thuyền chài kia. Họ chưa đủ làm ánh sáng để xua đi vùng tối trong tâm hồn những con người nhỏ bé, khổ đau. Trước vẻ đẹp của vạn vật thiên nhiên, Phùng trọn vẹn thấu nhận. Trước số phận của người đàn bà, Phùng là người ngoài cuộc. Mâu thuẫn đó có vẻ như đeo đẳng suốt hành trình dài phát minh sáng tạo của nghệ thuật .
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn giàu chất điện ảnh do có sự gia tăng của kiểu chi tiết – hình ảnh. Trường đoạn Phùng chứng kiến người chồng hành hung vợ là trường đoạn được kể bằng hình ảnh. Nó diễn ra dưới một cú quay toàn cảnh kéo dài. Kịch tính đến nghẹt thở, bất ngờ đến choáng váng. Yếu tố “động” của chi tiết được bao bọc trong sự yên tĩnh của cảnh, cảm giác máy quay không di chuyển. Lời thoại rút giảm tối đa, những hình ảnh khô khốc và bạo liệt. Tiếng nghiến răng ken két của gã đàn ông vũ phu, tiếng thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà ngưng đọng giữa tiếng sóng biển. Thứ âm thanh dẫn dắt cảm xúc người đọc – người xem vào những mao mạch trí nhớ khác nhau, hoặc rát buốt hoặc tê cóng hoặc câm nín. Kết thúc trường đoạn, cảnh vật trở nên bình lặng, yên ả như chưa hề nhuốm sắc thái bạo lực khốc liệt. Một sự trả về hờ hững của thiên nhiên. Ống kính dừng lại ở một khoảnh khắc bình yên mà nhức buốt tâm can…Sử dụng yếu tố điện ảnh, Nguyễn Minh Châu tạo nên hiện thực gần như một cuốn phim tư liệu, chân thực và xúc động.
Là kiểu truyện ngắn mở ra trường hợp nhận thức, Nguyễn Minh Châu còn sử dụng tính hình tượng. Biểu tượng từ việc đặt tên nhân vật đến hình tượng TT : chiếc thuyền ngoài xa. Chiếc thuyền ngoài xa hay là sự bất khả tri, là một hiện thực khác chìm khuất sau những điều tất cả chúng ta hoàn toàn có thể trấn áp và tận mắt chứng kiến được ? Chiếc thuyền ngoài xa mãi mãi là một khát vọng tìm kiếm, với tới để níu giữ, để nhìn lại. Khi chiếc thuyền vẫn còn ở ngoài xa, những định giá và huyễn tưởng về nó vẫn chỉ nằm trong một lớp sương mờ ảo mà thôi .
Năm 1983, khi Chiếc thuyền ngoài xa sinh ra, quốc gia vẫn chưa thoát khỏi dư chấn của cuộc chiến tranh, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn vất vả. Số phận cá thể nằm im dưới lớp băng hà của “ giấc mơ đại tự sự ”. Với những dự cảm thời cuộc sắc bén và năng lực nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã giúp lớp băng hà kia có những vết nứt thiết yếu. Vết nứt để nhìn ra vùng tối, và hoàn toàn có thể, tiếp đón vùng sáng .
Loigiaihay.com
Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn