CHƯƠNG 1. SƠ LƯỢC VỀ TRƯỜNG PHÁI TÂN CỔ ĐIỂN – Tài liệu text

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản khá đầy đủ của tài liệu tại đây ( 340.39 KB, 21 trang )

– Thứ ba, phân tích kinh tế ở lĩnh vực trao đổi, lưu thông, cung cầu; tiêu

dùng quyết định sản xuất; đối tượng nghiên cứu là các đơn vị kinh tế độc lập.

Từ đó rút ra kết luận chung cho toàn xã hội (Phương pháp VI MÔ).

– Thứ tư, nguyên tắc khan hiếm: nguồn tài nguyên có giới hạn và sự

đánh giá chủ quan đối với giá trị của cải. Một vật càng khan hiếm thì giá trị

càng cao. Với quan điểm “ích lợi giới hạn, năng suất giới hạn, sản phẩm giới

hạn…” vì vậy trường phái tân cổ điển còn gọi là trường phái giới hạn.

– Thứ năm, cho rằng phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa là hoàn

thiện nhất và tồn tại vĩnh viễn. Muốn tách kinh tế khỏi chính trị xã hội, chủ

trương chia kinh tế chính trị thành: kinh tế thuần túy, kinh tế xã hội và kinh tế

ứng dụng, đưa ra khái niệm kinh tế thay cho kinh tế chính trị.

– Thứ sáu, Tích cực áp dụng toán học vào phân tích kinh tế, sử dụng

các công cụ toán học: công thức, đồ thị, hàm số, mô hình,… phối hợp phạm

trù kinh tế với phạm trù toán học để đưa ra những khái niệm mới như: ích lợi

giới hạn, năng suất giới hạn, sản phẩm giới hạn,… (Vì vậy còn gọi là trường

phái giới hạn).

1.2. Các học thuyết kinh tế chủ yếu của trường phái Tân cổ điển

1.2.1. Thuyết “Ích lợi giới hạn” của trường phái thành Viên (Áo)

Được phát triển từ tư tưởng của nhà kinh tế học người Đức Herman

Gossen(1810-1858) ông đã đưa ra định luật nhu cầu và tư tưởng về ích lợi

giới hạn. Từ đó các nhà kinh tế của trường phái thành Viên (Áo) đã phát triển

thành lí thuyết kinh tế “ích lợi giới hạn”.

Trường phái giới hạn ÁO được đại biểu bởi ba nhà kinh tế:

– Karl Menger ( 1840 -1921),

– Bohm Bawerk (1851 -1914),

– Won Wieser (1851 –1926).

1.2.1.1. Lí thuyết sản phẩm kinh tế

Nội dung cơ bản của lý thuyết này là: Đưa ra khái niệm “sản phẩm kinh

tế” thay cho phạm trù “hàng hóa”. Để được coi là sản phẩm kinh tế sản phẩm

phải có đủ 4 tính chất, đó là:

4

– Có khả năng thỏa mãn nhu cầu hiện tại của con người.(Nhu cầu

không còn thì sản phẩm mất đặc tính kinh tế, hoặc sản phẩm hỏng không thỏa

mãn nhu cầu thì cũng không là sản phẩm kinh tế).

– Công dụng của nó con người phải biết rõ (vì sản phẩm trong tự nhiên

rất nhiều).

– Phải ở trong tình trạng có khả năng sử dụng được (không ở dạng tiềm

năng).

– Số lượng của nó có giới hạn (ở tình trạng khan hiếm, nếu vật phẩm

quá dư thừa sẽ không phải là sản phẩm kinh tế ).

Sản phẩm kinh tế có hai đặc tính “Ích lợi giới hạn” và “Giá trị giới

hạn”, đây chính là cơ sở xây dựng lí thuyết “ích lợi giới hạn và giá trị”.

1.2.1.1. Lí thuyết ích lợi giới hạn và giá trị

* Về “Ích lợi giới hạn”:

– Ích lợi là đặc tính cụ thể của vật, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của

con người, ích lợi có nhiều loại, như sau:

+ Ích lợi khách quan: là ích lợi vốn có của vật chất (ví dụ: củi đốt thì

nóng lên).

+ Ích lợi chủ quan: là ích lợi được sử dụng theo yêu cầu con người (ví

dụ: con người dùng sức nóng của củi đốt để sưởi ấm, nấu ăn, …).

+ Ích lợi cụ thể: là ích lợi của số lượng vật phẩm mà người ta có thể đo

lường được (ví dụ: uần áo để mặc, gạo để ăn, …).

– Theo đà thỏa mãn nhu cầu, ích lợi có xu hướng giảm dần. Cùng với

đà tăng lên của vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu thì “mức bão hòa” về vật phẩm

tăng lên còn “mức độ cấp thiết” của nhu cầu giảm xuống. Do đó theo đà thỏa

mãn nhu cầu tăng thì ích lợi của vật có xu hướng giảm (vật phẩm sau đưa ra

thỏa mãn nhu cầu có ích lợi ít hơn vật phẩm trước) .

– Với số lượng vật phẩm nhất định, vật phẩm cuối cùng để thỏa mãn

nhu cầu sẽ là “vật phẩm giới hạn”, ích lợi của nó là “ích lợi giới hạn”, nó

quyết định ích lợi chung của tất cả các vật phẩm khác.

Vậy: : ích lợi giới hạn là ích lợi của vật phẩm cuối cùng đưa ra thỏa

mãn nhu cầu, ích lợi đó là nhỏ nhất, nó quyết định ích lợi của tất cả các vật

phẩm khác.

5

Quy luật “ích lợi giới hạn” ngày càng giảm: Số lượng sản phẩm kinh tế

càng ít thì “ích lợi giới hạn” càng lớn. Sản phẩm kinh tế tăng thì tổng ích lợi

tăng còn “ích lợi giới hạn” giảm, có thể dẫn tới 0.

Ví dụ: nước quá nhiều, không còn khan hiếm thì chỉ còn ích lợi trừu

tượng.

Nhận xét: Có sự tách rời giá trị và ích lợi.

* Về Lý thuyết giá trị (Giá trị giới hạn):

Từ quan niệm về lợi ích cận biên, đi đến khái niệm giá trị cận biên. lợi

ích cận biên của sản phẩm cận biên (sản phẩm sau cùng) sẽ quyết định giá trị

cận biên của sản phẩm đó. Và giá trị cận biên sẽ quyết định giá trị của tất cả

sản phẩm khác. Nội dung chủ yếu của lý thuyết này như sau:

– Đưa ra lý thuyết giá trị – ích lợi (giá trị – chủ quan): (phủ nhận lý

thuyết giá trị – lao động của kinh tế tư sản cổ điển và lý luận giá trị của Mác)

Theo đó “ích lợi giới hạn” quyết định giá trị của sản phẩm kinh tế, đó là “giá

trị giới hạn”, nó quyết định giá trị của tất cả các sản phẩm khác (ích lợi của

vật quyết định giá trị – ở đây là: “ích lợi giới hạn”).

– Về Giá trị trao đổi: Giá trị trao đổi dựa trên yếu tố tâm lý chủ quan:

người ta tiến hành trao đổi vật phẩm cho nhau chỉ khi thấy mình có lợi (dựa

trên đánh giá chủ quan). Theo K. Menger: “trao đổi kinh tế sẽ dẫn đến thoả

mãn đầy đủ nhu cầu của con người.”.

Ví dụ: Một sản phẩm dư thừa của người này là khan hiếm của người kia

và ngược lại. Nông dân A và nông dân B đều có bò và ngựa. Nông dân A

nhiều bò, ít ngựa, còn nông dân B ngược lại nhiều ngựa, ít bò. Bò và ngựa

được sắp xếp như sau (theo thứ tự giá trị giảm dần):

6

– Về các hình thức của giá trị: Giá trị khách quan và giá trị chủ quan.

+ Giá trị khách quan xuất phát từ tác dụng của một vật mang lại cho ta

kết quả cụ thể (than đốt cho nhiệt lượng), đây là mối quan hệ người với vật và

kết quả xuất phát từ việc sử dụng vật, không bao hàm những phán đoán chủ

quan của con người.

+ Giá trị chủ quan: xuất phát từ sự tiêu dùng những kết quả mà sản

phẩm mang lại cho con người quy định sử dụng nó như thế nào (nhiệt lượng

đốt than sử dụng vào việc gì). Từ đó phân chia giá trị sử dụng và giá trị trao

đổi thành: giá trị sử dụng chủ quan, giá trị trao đổi chủ quan, giá trị sử dụng

khách quan, giá trị trao đổi khách quan.

Ví dụ: Căn cứ phân chia là nơi nhận sản phẩm, của cải tới tay ai?

7

1.2.2. Các lý thuyết giới hạn của Mỹ

Cha là John Bates Clark: đưa ra lý thuyết năng suất giới hạn, lý thuyết

phân phối.

Con là John Maurice Clark: đưa ra lý thuyết về chi phí bất biến và chi

phí khả biến đồng thời đã chia kinh tế chính trị thành kinh tế tổng hợp, kinh tế

tĩnh và kinh tế động .

1.2.2.1. Lý thuyết “Năng suất giới hạn”

Nội dung chủ yếu của lý thuyết này như sau:

– Căn cứ vào lý thuyết của D.Ricarrdo về “Năng suất bất tương xứng”,

theo đó khi tăng thêm một nhân tố sản xuất nào đó (trong ba nhân tố là lao

động, đất đai, tư bản) mà các nhân tố khác không đổi thì sẽ giảm năng suất

của nhân tố tăng thêm .

– Phối hợp với lý thuyết “ích lợi giới hạn”, Clark đã nghiên cứu về quy

luật năng suất lao động.

Theo ông ích lợi của lao động thể hiện ở năng suất lao động (ích lợi các

yếu tố sản xuất thể hiện ở năng suất của nó). Song năng suất lao động của các

yếu tố là giảm sút (bất tương xứng), do vậy đơn vị yếu tố sản xuất được sử

dụng sau cùng là đơn vị yếu tố sản xuất giới hạn – sản phẩm của nó là sản

phẩm giới hạn, năng suất của nó là năng suất giới hạn, nó quyết định năng

suất của tất cả các đơn vị yếu tố sản xuất khác (Người công nhân cuối cùng là

“người công nhân giới hạn”, sản phẩm của họ là “sản phẩm giới hạn” và năng

suất lao động của họ là “năng suất lao động giới hạn”, quyết định năng suất

lao động của những người lao động khác).

1.2.2.2. Lý thuyết phân phối của J.B. Clark

Dựa vào lý thuyết năng suất giới hạn, sử dụng lý thuyết năng lực chịu

trách nhiệm của các yếu tố sản xuất, theo đó thì thu nhập là năng lực chịu

8

trách nhiệm của các yếu tố sản xuất Clark đã đưa ra lý thuyết về tiền lương,

lợi nhuận, lợi tức, địa tô. Theo ông:

– Người lao động nhận Tiền lương = Sản phẩm giới hạn của lao động

– Nhà tư bản nhận Lợi tức = Sản phẩm giới hạn của tư bản

– Chủ đất nhận Địa tô = Sản phẩm giới hạn của đất đai

– Nhà kinh doanh nhận Lợi nhuận = Thặng dư của người sử dụng các

yếu tố sản xuất. Từ đó: Phân phối là bình đẳng, không còn bóc lột nữa .

1.2.2.3. Lí thuyết về chi phí bất biến và chi phí khả biến của T.M.Clark

Là sự tiếp tục nghiên cứu của J.B. Clark – Phân tích kinh tế trong trạng

thái động. Nội dung chủ yếu là:

– Để sản xuất hàng hóa phải sử dụng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,

lao động, … Được gọi là chi phí sản xuất (chi phí toàn bộ).

– Có 2 loại (2 bộ phận) hợp thành chi phí toàn bộ là:

+ Chi phí bất biến: Những chi phí không biến đổi so với quy mô sản

xuất sản phẩm (dù quy mô sản xuất có thay đổi nó cũng không thay đổi): thuế

đất, thuế nhà, trả lương ban giám đốc, thậm chí không sản xuất cũng phải chi

phí.

+ Chi phí khả biến: là chi phí thay đổi theo quy mô sản xuất sản phẩm:

nguyên vật liệu, lao động trực tiếp sản xuất, …

Chi phí giới hạn: là chi phí tăng thêm để sản xuất một đơn vị sản phẩm

cuối cùng.

Chi phí giới hạn = Chi phí đứng sau – Chi phí đứng trước

Xu hướng chung là: lúc đầu chi phí giới hạn giảm dần đến một quy mô

nhất định của sản lượng thì tăng cùng với sự phát triển của quy mô sản xuất,

do đó chi phí bình quân cho mỗi sản phẩm cũng biến động tương tự.

Nhận xét:

– Lý thuyết này dược sử dụng để xác định giới hạn của việc tăng quy

mô sản phẩm .

– Được vận dụng để xây dựng lý thuyết gia tốc phân tích nguyên nhân

khủng hoảng kinh tế và giải quyết điều chỉnh chu trình kinh doanh.

9

1.2.3. Lý thuyết kinh tế của trường phái thành Lausene (Thụy Sĩ)

Phản ánh sự phát triển tư tưởng “bàn tay vô hình” – tư tưởng tự do kinh

tế của A.Smith. Đại biểu cho trường phái này là:

– Leon Walras và W. F. Damaso Pareto.

– Leon Walras (1834 -1910 ) sinh ra và lớn lên ở Pháp. giảng

dạy tại ĐH Lausanne Thuỵ Sĩ. Những tư tưởng được Pareto

(1848 -1923) tiếp tục phát triển.

– Ở Leon Walras có hai lý thuyết quan trọng là : Giá cả và

thuyết cân bằng tổng quát.

Nội dung chủ yếu là:

– Cơ cấu nền kinh tế thị trường có 3 loại thị trường:

+ Thị trường sản phẩm: Nơi mua bán hàng hóa, tương quan trao đổi

giữa các loại hàng hóa là giá cả của chúng .

+ Thị trường tư bản: Nơi hỏi và vay tư bản, lãi suất tư bản cho vay là

giá cả của tư bản.

+ Thị trường lao động: Nơi thuê mướn công nhân, tiền lương (tiền

công) là giá cả của lao động .

Ba thị trường độc lập với nhau, nhưng nhờ hoạt động của doanh nhân

nên có quan hệ với nhau, cụ thể:

– Doanh nhân: là người sản xuất hàng hóa để bán .

– Để sản xuất họ phải vay vốn (ở thị trường tư bản), thuê công nhân (ở

thị trường lao động) vì thế họ là sức cầu trên hai thị trường này (tạo ra sức cầu

cho xã hội). Chi phí sản xuất là: Lãi suất trả tư bản và tiền lương .

– Khi sản xuất được hàng hóa: họ đem bán trên thị trường sản phẩm,

khi đó họ là sức cung trên thị trường sản phẩm.

– Mối quan hệ được hình thành như sau: Khi bán sản phẩm trên thị

trường được giá cao hơn chi phí sản xuất doanh nhân sẽ có có lãi vì thế họ mở

rộng sản xuất nên phải vay thêm tư bản, thuê thêm công nhân làm cho sức cầu

trên thị trường tư bản và thị trường lao động tăng dẫn đến giá cả của tư bản và

lao động tăng kết quả là chi phí sản xuất tăng .

Mặt khác, sản phẩm sản xuất tăng thì sản phẩm hàng hóa trên thị

trường sản phẩm tăng nên giá cả hàng hóa giảm làm cho thu nhập của doanh

10

nhân giảm. Khi giá cả của hàng hóa sản xuất tăng thêm ngang bằng chi phí

sản xuất ra chúng thì doanh nhân không có lời trong việc sản xuất thêm vì vậy

họ không mở rộng sản xuất nữa (không vay thêm tư bản và thuê thêm công

nhân nữa).

Từ đó làm cho giá cả tư bản và lao động ổn định dẫn đến giá hàng hóa

ổn định (tiền công, lãi suất, giá hàng tiêu dùng đều ổn định) Khi đó ba thị

trường đều đạt được trạng thái cân bằng, nền kinh tế ở trạng thái cân bằng

tổng quát (Sự cân bằng tổng quát giữa các thị trường) – Điều này được thực

hiện thông qua dao động tự phát của cung cầu và giá cả trên thị trường trong

điều kiện tự do cạnh tranh.

+ Điều kiện để có cân bằng tổng quát là: có sự cân bằng giữa thu nhập

bán hàng hóa sản xuất thêm và chi phí sản xuất ra chúng (Sự cân bằng giữa

giá hàng hóa và chi phí sản xuất).

Tóm lại: Những nhà kinh tế thuộc trường phái cổ điển muốn tin tưởng

vào sức mạnh của nền kinh tế thị trường và sự hoạt động của các quy luật

kinh tế. Theo họ, sự điều tiết của “bàn tay vô hình” sẽ đảm bảo cho quá trình

tái sản xuất phát triển bình thường.

1.2.4. Lý thuyết kinh tế của trường phái Cambridge (Anh)

Đứng đầu trường phái này là Alfred Marshall (1842 – 1924), là giáo sư

trường ĐH tổng hợp Cambridge. Tác phẩm nổi tiếng: “những nguyên lý của

kinh tế chính trị học” (1890). Trọng tâm nghiên cứu của Marshall là thị

trường và cơ chế hình thành giá cả thị trường. Thị trường là tổng thể những

người có quan hệ mua bán hay là nơi gặp gỡ của cung và cầu.

Marshall phê phán kinh tế học cổ điển rằng quá nhấn mạnh mặt cung

cấp và lợi nhuận, còn các thuyết thỏa dụng và giá trị cận biên lại quá nhấn

mạnh đến mặt nhu cầu và thỏa dụng. Marshall cho rằng cả hai mặt cung và

cầu đều quan trọng như nhau. Ông đã viết cuốn Principles of

Economics (1890) và tác phẩm này trở thành một trong những tác phẩm kinh

điển của kinh tế học tân cổ điển. Trong tác phẩm này, Marshall đã giải thích

cơ chế quyết định giá cả bởi sự giao nhau của hai đường cung cấp và đường

nhu cầu. Ông đã đem kỹ thuật phân tích cân bằng bộ phận vào kinh tế học tân

cổ điển.

Joan Robinson và Edward H. Chamberlin là những người đã phát triển

kinh tế học tân cổ điển bằng các lý luận về cạnh tranh không hoàn hảo. Leon

Walras và Vilfredo Pareto đã phát triển kỹ thuật phân tích cân bằng tổng

11

thể và đưa nó vào kinh tế học tân cổ điển. John Hicks phát triển kinh tế học

tân cổ điển bằng lý luận về nhu cầu của người tiêu dùng. Francis Ysidro

Edgeworth và Vilfredo Pareto phát triển kinh tế học tân cổ điện bằng lý luận

về đường bàng quan.

Càng ngày, phương pháp tiếp cận của kinh tế học tân cổ điển càng áp

dụng nhiều toán học. Paul Samuelson với tác phẩm Foundations of Economic

Analysis (1947) đã làm cho kinh tế học tân cổ điển trở nên giống như một

ngành của toán học và được giảng dạy rộng rãi tại các khoa kinh tế học bậc

đại học ở Hoa Kỳ.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một mặt kinh tế học tân cổ điển tiếp

tục phát triển ở mảng kinh tế học vi mô với một loạt lý luận mà điển hình

là mô hình Arrow-Debreu. Mặt khác, nó phát triển sang lĩnh vực kinh tế học

vĩ mô với sự đóng góp nổi bật của Robert Solow và Samuelson.

Nội dung chủ yếu của lý thuyết thị trường và cơ chế hình thành giá cả

thị trường là:

– Giá cả: là hình thức của quan hệ về lượng mà trong đó hàng hóa và

tiền tệ được trao đổi với nhau (Theo ông giá trị là phạm trù siêu hình, vô

nghĩa, chỉ có giá cả là phạm trù thiết thực và cụ thể vì thế là nhà kinh tế không

đề cập đến giá trị). Giá cả được hình thành trên thị trường do kết quả sự va

chạm giá cả người mua – người bán (Giá cả người mua: được xác định bởi ích

lợi giới hạn, giá cả người bán: được xác định bởi chi phí sản xuất). Trong điều

kiện tự do cạnh tranh, giá cả người mua (của cầu) giảm cùng với mức tăng số

lượng hàng hóa cung ứng trên thị trường .

– Giá cả người mua và giá cả người bán là mối quan hệ cung cầu.

– Thị trường là tổng thể những người có quan hệ kinh doanh hay nơi

gặp gỡ cung cầu. Kết quả sự va chạm cung – cầu hình thành nên giá cả cân

bằng (hay giá cả thị trường).

– Đưa ra khái niệm “Độ co giãn của cầu” để chỉ sự phụ thuộc của cầu

vào mức giá cả (Kí hiệu K – Hệ số co giãn của cầu).

+ Nếu K>1: Sự biến đổi nhỏ của giá cả làm cầu biến đổi lớn hơn được

gọi là cầu co giãn.

+ Nếu K<1: Sự biến đổi của giá cả chỉ làm cầu biến động đáng kể được gọi là cầu không co giãn. 12 + Nếu K=1: Sự biến đổi của cầu và giá cả cùng tỷ lệ được gọi là cầu co giãn đơn vị (hay cầu co giãn bằng đơn vị). => Việc xác định K giúp các xí nghiệp độc quyền đưa ra chính sách giá

cả có lợi cho mình (giá cả độc quyền để thu lợi nhuận độc quyền cao), có thể

bán số lượng sản phẩm ít hơn mà giá cả cao hơn. Sự co giãn của cầu phụ

thuộc vào các nhân tố: mức giá cả, sức mua và nhu cầu mua sắm.

– Thời gian là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cung cầu và giá cả. Quy

tắc chung là:

+ Thời gian ngắn (thời kỳ nghiên cứu ngắn) phải chú ý tới ảnh hưởng

của cầu lên giá trị .

+ Thời gian dài (thời kỳ nghiên cứu càng dài) thì ảnh hưởng tác động

của chi phí tới giá trị rất quan trọng.

CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM

VÀ THẤT NGHIỆP CỦA TRƯỜNG PHÁI TÂN CỔ ĐIỂN

2.1. Khái quát lý thuyết về thị trường lao động, việc làm và thất nghiệp

của một số trường phái

2.1.1 Lý thuyết của trường phái cổ điển

Việc làm và thất nghiệp luôn là vấn đề nan giải của mọi nền kinh tế

trong mọi thời kỳ. A.Smith và D. Ricardo là một trong những người sáng lập

trường phái lý thuyết cổ điển. Trong học thuyết của mình họ xây dựng được

13

cơ sở lý thuyết về giá trị lao động và đưa lao động lên tầm quan trọng hàng

đầu trong nền kinh tế. Học thuyết này đề cập đến các vấn đề như sản xuất

hàng hóa, tiền lương, lợi nhuận và lợi tức, về sự điều tiết của thị trường, về sự

can thiệp tối thiểu của nhà nước trong nền kinh tế.

Tác giả Phạm Đức Chính (2005) đã tổng kết được rằng “Các nhà kinh

tế cổ điển đặt ra rằng hệ thống thị trường tạo điều kiện đảm bảo sử dụng đầy

đủ nguồn lực, trong số đó có nguồn lực sức lao động”. Trường phái cổ điển

khẳng định nền kinh tế thị trường phải đảm bảo được việc làm đầy đủ, không

được để tình trạng thất nghiệp trong xã hội và nền kinh tế thị trường sẽ tự điều

tiết nên sự can thiệp của nhà nước sẽ là dư thừa và có thể gây ra những hậu

quả không tốt.

2.1.2. Lý thuyết của Karl.Marx

K.Marx (1818-1883) là một trong những nhà bác học người Đức nổi

tiếng của thế giới và ông đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho nền tri

thức của nhân loại.

Trong lý thuyết việc làm của ông, giá trị thặng dư là một trong những

nhân tố chủ đạo. Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa xem sức lao động con người

cũng là một loại hàng hóa, khi người công nhân đi làm thuê tức là đã bán

hàng hóa sức lao động của mình cho ông chủ tư bản, trong quá trình lao động,

người công nhân sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị sức lao động của mình.

Do đó, người chủ sẽ nhận được một giá trị từ sức lao động và giá trị thặng dư

của người công nhân, nhưng chỉ phải trả cho họ số tiền bằng nhỏ hơn với giá

trị sức lao động của họ tạo ra trong quá trình sản xuất.

Một nhân tố nữa đó là tăng trưởng cấu trúc vốn hữu cơ. Theo K.Marx

cấu trúc vốn bao gồm vốn cố định và vốn lưu động, trong đó vốn cố định là

giá trị tư liệu sản xuất, còn vốn lưu động chính là giá trị sức lao động, có

nghĩa là tổng số lương. Nghĩa là việc tăng việc làm và tăng sản xuất sẽ làm

tăng tổng lương. Các nhà tư bản sẽ muốn có lợi nhuận nhiều hơn tức là họ

muốn gia tăng giá trị thặng dư nên họ quan tâm tới việc làm sao để giá thành

sản phẩm của họ thấp hơn so với giá mặt bằng chung. Đòi hỏi phải nâng cao

và đầu tư vào máy móc, kỹ thuật hiện đại, tăng chí phí cho giá trị tư liệu sản

xuất. Mà máy móc hiện đại sẽ làm giảm nhu cầu thuê công nhân của các ông

chủ tư bản, làm cho việc làm bị giảm, thất nghiệp tăng lên.

Một nhân tố đóng góp vai trò quan trọng không kém là luật dân số,

K.Marx cho rằng giai cấp công nhân là người tạo ra sự tích lũy tư bản, nhưng

14

Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn