Tính chất của các lễ hội dân gian ở Việt nam. Đặc điểm của lễ hội dân gian ở – Tài liệu text
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.24 KB, 25 trang )
Cũng có những lễ hội mà ở đó hai phần lễ và hội hoà quyện với nhau, trong đó trọng tâm là phần hội, nhng bản thân phần hội đã mang trong mình ý
nghĩa tâm linh của phần lễ. Hội trọi trâu đồ sơn là một điển hình. Nh vậy, để tìm hiểu văn hoá Việt nam, văn hoá làng xã cũng nh văn hoá
lúa nớc, ngời ta có thể tìm hiểu qua lễ hội, hoặc trực tiếp tham gia vào lễ hội. Từ đó có thể thấy lễ hội là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn rất quan trọng.
Mục Lục
II. Tính chất và đặc điểm của lƠ héi d©n gian ë ViƯt nam.
1. TÝnh chÊt cđa các lễ hội dân gian ở Việt nam.
Xét về tính chất của các lễ hội dân gian ở Việt nam chóng ta thêng thÊy cã ba lo¹i lƠ héi :
– Các lễ hội mang tính lịch sử nh hội Đền Hùng, Hoa l, Vạn Kiếp các lễ
hội này thờng đợc tổ chức gắn liền với các sự kiện có ý nghĩa lớn trong lịch sử hay để tởng nhớ những ngời anh hùng, ngời có công lớn trong việc đánh đuổi
giặc ngoại xâm đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân.
– Các lễ hội mang tính giải trí nh hội Lim, hội chọi trâu Đồ Sơn trong các
lễ hội thờng có những trò chơi giải trí mà nội dung và hình thức của các trò chơi này gắn liền với các hoạt động lao động sản xuất của ngời dân.
– Các lễ hội mang tính tôn giáo nh hội chùa Hơng, hội chùa Keo, hội Phđ Giµy mµ phỉ biÕn nhÊt ë ViƯt nam có lẽ là lễ hội Phật giáo.
Tuy nhiên việc phân loại trên chỉ mang tính tơng đối bởi trên thực tế các
tính chất của lễ hội đan xen hoà trộn vào nhau. Mỗi một lễ hội đợc tổ chức đều mang những nét của truyền thống lịch sử, tôn giáo và trong các lễ hội càng
không thể thiếu đợc các trò chơi.
2. Đặc điểm của lễ hội dân gian ở Việt nam.
Lễ hội dân gian ở Việt nam đợc hình thành từ nền nông nghiệp lúa nớc để phục vụ chính cuộc sống sản xuất, sinh hoạt của những ngời nông dân trồng lúa
nớc. Rõ ràng là sẽ khó mà có các lễ hội cầu ma, cầu nắng, nếu kh«ng cã viƯc trång lóa níc. Do vËy, khi nãi đến những lễ hội dân gian của vùng, thực chất là
nói đến các lễ hội nông nghiệp lễ hội của ngời nông dân. Và đã là lễ hội nông nghiệp thì trớc hết, chúng phải chịu sự chi phối mạnh của nhịp điệu các mùa
sản xuất. Lịch sinh hoạt của các lễ hội dân gian đợc xác định bởi nông lịch của mỗi tiểu vùng. Các nông lịch lại đợc hình thành trên cơ sở những đặc điểm của
điều kiện khí hậu địa lý tự nhiên, nên các lễ hội dân gian dân gian ở Việt nam đợc diễn ra theo thời tiết. Thờng chúng đợc mở tập trung vào hai mùa quan
trọng nhất của một năm sản xuất nông nghiệp là đầu mùa sản xuất gieo, cấy và cuối mùa sản xuất mùa thu hoạch, gặt hái.
– 4 –
Cũng vì thực chất là các lễ hội nông nghiệp mà các lễ hội dân gian ở Việt nam không tái hiện cuộc sống nào khác sống nông nghiệp của chính họ. Chúng
các lễ hội dân gian đã phản ánh những tâm t, tình cảm và nguyện vọng của những ngời nông dân trồng lúa nớc Việt nam. Có thể nói, hầu nh mọi mong ớc
tình cảm đợc phản ánh ở các lễ hội dân gian đều xoay quanh hai chủ đề chính là cầu ma, cầu nắng để cây lúa có đủ điều kiện phát triển, nảy hạt, đâm bông. Các
lễ hội cầu nớc thờng đợc tổ chức vào đầu mùa sản xuất cũng đồng thời là đầu năm mới; bởi phải có nớc thì mới làm đợc ruộng nớc cày cấy và hạt lúa mới có
thể nảy mầm đợc. Các lễ hội cầu nắng thờng đợc tổ chức vào giữa và cuối mùa sản xuất: bởi, khi đã đủ nớc, cây lúa cần có nắng, có ánh sáng để phát triển, có
sức nóng để làm chín những hạt lúa vàng. Và khi lúa đã chín, sau khi vui mừng thu hoạch lúa, ngời nông dân Việt nam thờng tổ chức các lễ hội để gửi gắm vào
trong đó lòng biết ơn, sự vui mừng trớc những kết quả đã đạt đợc. Thực chất của việc cầu ma nắng thuận hòa ở mỗi lễ hội dân gian đều xuất phát từ mong ớc đạt
đợc một kết quả sản xuất tốt đẹp một vụ lúa bội thu. Mỗi lễ hội là mỗi nguyện vọng, mỗi khắc khoải của ngời nông dân trồng lúa đối với từng giai đoạn phát
triển của cây lúa. Cho nên mới nói, các lễ hội dân gian ở Việt nam đợc hình thành từ nền nông nghiệp lúa nớc để phục vụ chính cuộc sống sản xuất, sinh
hoạt của những ngời nông dân trồng lúa nớc.
Cuộc sống nông nghiệp đợc phản ánh rất đậm nét trong các lễ hội dân gian ở Việt nam. Tuy nhiên, đây không phải là sự sao chép lại hiện thực, mà đó là sự
phản ánh hiện thực Việt nam qua cách nhìn của những ngời nông dân trồng lúa. Nó không phải là tất cả những gì có sẵn trong tự nhiên, trong nó chứa đựng
những suy nghĩ và mong ớc ấy lại xuất phát từ hoàn cảnh tự nhiên, điều kiện địa lý, môi trờng, xã hội của họ. Vì cây lúa là đối tợng chính của sự sản xuất nông
nghiệp Việt nam, nên nó cây lúa trở thành trung tâm của sự phản ánh trong các lễ hội dân gian của vùng cũng nh trong mọi hình thái văn hóa dân gian
khác của vùng. Cây lúa đợc coi là biểu trng cho sự no đủ, hạnh phúc, biểu trng cho tất cả những đức tÝnh tèt ®Đp cđa con ngêi. Mäi sù vËt, hiƯn tợng đều đợc
nhận thức trên cơ sở của quy luật phát triển của cây lúa. Trong suy nghĩ của những ngời dân Việt nam, ngời mẹ, ngời phụ nữ chính là những ngời đã tạo ra
những giống lúa, sáng tạo ra nghề trồng lúa vì nghề trồng lúa đợc ra đời từ hái lợm, mà hái lợm lại là công việc của ngời phụ nữ; Cho nên, ở các lễ hội dân
gian của vùng, các tín ngỡng về cây lúa nh là tín ngỡng bản địa của các dân tộc trên đất nớc Việt nam, và sự phản ánh tín ngỡng ấy qua biểu tợng ngời phụ nữ
là một đặc thù của các lễ hội dân gian ở Việt nam.
Các lễ hội dân gian ở Việt nam đều đợc tạo thành bởi một chuỗi các cảnh diễn liên tiếp, theo một kịch bản quy định. Những cảnh diễn, cũng nh những
quy định của kịch bản, lại xuất phát từ chính cuộc sống sinh hoạt và lao động của những ngời nông dân trồng lúa, nên chúng có nhiều điểm chung. Mỗi cảnh
– 5 –
diễn đợc tạo thành bởi sự tập trung và tập hợp của nhiều loại hình, loại chủng văn hóa, để diễn tả một hoạt động, một sinh hoạt vật chất nào đó của ngời nông
dân. Đơng nhiên, sự diễn tả ấy là nhằm vào một mục đích nhất định: nói lên một nguyện vọng, một mong ớc của cộng đồng; nên sự tập hợp lộn xộn, mà
chúng có những quy tắc, quy định nhất định nếu không, cảnh diễn sẽ không có ý nghĩa, không biểu phát đợc nguyện vọng mà những ngời nông dân muốn gửi
gắm. Mặt khác, mỗi cảnh diễn lại nhằm phục vụ cho việc làm rõ mục đích chung của lễ hội, nên chúng cũng phải tuân thủ theo những quy tắc và quy định
của lễ hội để đạt đợc mục đích của lễ hội. Chính những quy tắc và quy định này đã làm cho các hoạt động lễ hội đợc cấu tạo theo cơ chế mô hình nghĩa
là chúng bao gồm những yếu tố có tính chất bộ xơng, còn phần thịt, tức các chi tiết thì dành cho các cá nhân, các cộng đồng sáng tạo bồi đắp khi thực hiện
hoạt động. Điều đáng chú ý ở đây là những quy tắc, quy định tức những yếu tố chung đợc phát sinh từ những ngời nông dân bởi trong cộng đồng các dân tộc
Việt nam, ngời nông dân bao giờ cũng chiếm đa số; do đó, mô hình của các lễ hội dân gian ở Việt nam thờng là giống nhau. Với cơ chế mô hình, lễ hội dân
gian vừa đảm bảo tính thống nhất và truyền thống của cộng đồng, vừa có chỗ để các cá nhân sáng tạo. Điều này khiến các lễ hội trong vùng không cái nào giống
cái nào nhng vẫn có nét chung.
Cũng phải nói thêm rằng, chính vì đợc sản sinh và quy tụ để làm rõ mục đích chung của lễ hội, mà các loại hình văn hóa tập trung và tập hợp trong cảnh
diễn, cũng nh chuỗi cảnh diễn trong lễ hội luôn luôn đợc đặt vào một hệ thống, trong đó, các loại hình văn hóa gắn bố hữu cơ với nhau cũng nh cảnh diễn này
gắn bó với cảnh diễn kia đến mức: nếu tách một loại hình văn hóa nào đó ra khỏi cảnh diễn, hoặc một cảnh diễn ra khỏi lễ hội thì chúng không còn ý nghĩa
nh nó vốn có trong cảnh diễn và trong lễ hội nữa. Đơng nhiên, mục đích của lễ hội cũng không đạt đợc một cách trọn vẹn nếu thiếu đi một hay vài loại hình
văn hóa hoặc một vài cảnh diễn.
ở
đây, lễ hội đã bộc lộ rõ nét một đặc điểm đặc thù trong phơng thức nhận thức và phản ánh của văn hóa dân gian, đó là:
phơng thức tổng thể nguyên hợp tức nhận thức sự vật với t cách đó là một tổng thể. Vậy mới nói, lễ hội là một loại hình văn hóa dân gian tiêu biểu.
Khi nói lễ hội dân gian trong vùng thực chất là các lễ hội nông nghiệp cũng là muốn nói chúng – các lễ hội dân gian – là sản phẩm văn hóa của những
ngời nông dân ngời nông dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là ngời tiêu dùng. Các hoạt động lễ hội nhằm đáp ứng nhu cầu không phải cho một cá nhân ngời
nông dân, mà cho cả cộng đồng ngời nông dân. Nó là sáng tạo của cả cộng đồng ngời nông dân. Vì thế mọi tri thức, t tởng, tình cảm… cũng nh những hành
vi, quy ớc, ớc lệ… trong lễ hội đều đợc biểu tợng hóa bằng những hình ảnh, những dấu hiệu quen thuộc của cộng đồng. Mọi thành viên trong cộng đồng
đều có thể cảm nhận đợc chúng. Không chỉ có thế, chúng còn đợc mọi ngêi
– 6 –
tiÕp nhËn mét c¸ch tù ngun bëi chóng mang vác và diễn đạt những mong ớc của chính họ.
ở
thời kỳ tiền nông nghiệp, khi cuộc sống còn phụ thuộc nhiều vào môi trờng tự nhiên thì các biểu tợng của các lễ hội trong vùng có nhiều nét
giống nhau cả về vật dùng làm biểu tợng lẫn giá trị mà biểu tợng ấy mang vác, bởi chúng đều đợc ra đời trên cơ sở một hay nhiều đặc điểm về những điều kiện
tự nhiên độc đáo của môi trêng sinh tån ViƯt nam nãng, Èm, ma nhiỊu, địa hình nhỏ hẹp…; và đợc ra đời từ nhu cầu sở thuộc xã hội và tính cố kết cộng
đồng.
Cũng vì nhằm đáp ứng nhu cầu cho cả cộng đồng ngời nông dân mà lễ hội đợc lu truyền chủ yếu qua trí nhớ chứ không phải qua chữ viết đa số ngời nông
dân xa không biết chữ, nên quá trình sản xuất sáng tạo ra lễ hội cũng đồng thời là quá trình nó đợc phân phối đến từng ngời và tiếp nhận tiêu thụ nó. Lễ
hội đợc ra đời chính lúc kết thúc các hoạt động lễ hội.
Tóm lại, do đợc cấu thành bởi sự tham gia của nhiều chủng loại văn hóa dân gian khác nhau mà lễ hội mang trong nó mọi đặc điểm đặc thù của văn hóa
dân gian. Vì thế, muốn tìm hiểu đợc văn hóa dân gian Việt nam, chúng ta không thể không tìm hiểu các lễ hội dân gian của Việt nam, và để phát triển loại
hình du lịch văn hoá ở Việt nam không thể bỏ qua đợc một nguồn tài nguyên hết sức quan trọng đó là các lễ hội dân gian.
– 7 –
Phần II
Lễ hội dân gian với phát triển du lịch văn hoá ở Việt nam
I. những nét khái quát về du lịch văn hoá.
Xét về tính chất của các lễ hội dân gian ở Việt nam chóng ta thêng thÊy cã ba lo¹i lƠ héi :- Các lễ hội mang tính lịch sử nh hội Đền Hùng, Hoa l, Vạn Kiếp các lễhội này thờng đợc tổ chức gắn liền với các sự kiện có ý nghĩa lớn trong lịch sử hay để tởng nhớ những ngời anh hùng, ngời có công lớn trong việc đánh đuổigiặc ngoại xâm đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân.- Các lễ hội mang tính giải trí nh hội Lim, hội chọi trâu Đồ Sơn trong cáclễ hội thờng có những trò chơi giải trí mà nội dung và hình thức của các trò chơi này gắn liền với các hoạt động lao động sản xuất của ngời dân.- Các lễ hội mang tính tôn giáo nh hội chùa Hơng, hội chùa Keo, hội Phđ Giµy mµ phỉ biÕn nhÊt ë ViƯt nam có lẽ là lễ hội Phật giáo.Tuy nhiên việc phân loại trên chỉ mang tính tơng đối bởi trên thực tế cáctính chất của lễ hội đan xen hoà trộn vào nhau. Mỗi một lễ hội đợc tổ chức đều mang những nét của truyền thống lịch sử, tôn giáo và trong các lễ hội càngkhông thể thiếu đợc các trò chơi.Lễ hội dân gian ở Việt nam đợc hình thành từ nền nông nghiệp lúa nớc để phục vụ chính cuộc sống sản xuất, sinh hoạt của những ngời nông dân trồng lúanớc. Rõ ràng là sẽ khó mà có các lễ hội cầu ma, cầu nắng, nếu kh«ng cã viƯc trång lóa níc. Do vËy, khi nãi đến những lễ hội dân gian của vùng, thực chất lànói đến các lễ hội nông nghiệp lễ hội của ngời nông dân. Và đã là lễ hội nông nghiệp thì trớc hết, chúng phải chịu sự chi phối mạnh của nhịp điệu các mùasản xuất. Lịch sinh hoạt của các lễ hội dân gian đợc xác định bởi nông lịch của mỗi tiểu vùng. Các nông lịch lại đợc hình thành trên cơ sở những đặc điểm củađiều kiện khí hậu địa lý tự nhiên, nên các lễ hội dân gian dân gian ở Việt nam đợc diễn ra theo thời tiết. Thờng chúng đợc mở tập trung vào hai mùa quantrọng nhất của một năm sản xuất nông nghiệp là đầu mùa sản xuất gieo, cấy và cuối mùa sản xuất mùa thu hoạch, gặt hái.- 4 -Cũng vì thực chất là các lễ hội nông nghiệp mà các lễ hội dân gian ở Việt nam không tái hiện cuộc sống nào khác sống nông nghiệp của chính họ. Chúngcác lễ hội dân gian đã phản ánh những tâm t, tình cảm và nguyện vọng của những ngời nông dân trồng lúa nớc Việt nam. Có thể nói, hầu nh mọi mong ớctình cảm đợc phản ánh ở các lễ hội dân gian đều xoay quanh hai chủ đề chính là cầu ma, cầu nắng để cây lúa có đủ điều kiện phát triển, nảy hạt, đâm bông. Cáclễ hội cầu nớc thờng đợc tổ chức vào đầu mùa sản xuất cũng đồng thời là đầu năm mới; bởi phải có nớc thì mới làm đợc ruộng nớc cày cấy và hạt lúa mới cóthể nảy mầm đợc. Các lễ hội cầu nắng thờng đợc tổ chức vào giữa và cuối mùa sản xuất: bởi, khi đã đủ nớc, cây lúa cần có nắng, có ánh sáng để phát triển, cósức nóng để làm chín những hạt lúa vàng. Và khi lúa đã chín, sau khi vui mừng thu hoạch lúa, ngời nông dân Việt nam thờng tổ chức các lễ hội để gửi gắm vàotrong đó lòng biết ơn, sự vui mừng trớc những kết quả đã đạt đợc. Thực chất của việc cầu ma nắng thuận hòa ở mỗi lễ hội dân gian đều xuất phát từ mong ớc đạtđợc một kết quả sản xuất tốt đẹp một vụ lúa bội thu. Mỗi lễ hội là mỗi nguyện vọng, mỗi khắc khoải của ngời nông dân trồng lúa đối với từng giai đoạn pháttriển của cây lúa. Cho nên mới nói, các lễ hội dân gian ở Việt nam đợc hình thành từ nền nông nghiệp lúa nớc để phục vụ chính cuộc sống sản xuất, sinhhoạt của những ngời nông dân trồng lúa nớc.Cuộc sống nông nghiệp đợc phản ánh rất đậm nét trong các lễ hội dân gian ở Việt nam. Tuy nhiên, đây không phải là sự sao chép lại hiện thực, mà đó là sựphản ánh hiện thực Việt nam qua cách nhìn của những ngời nông dân trồng lúa. Nó không phải là tất cả những gì có sẵn trong tự nhiên, trong nó chứa đựngnhững suy nghĩ và mong ớc ấy lại xuất phát từ hoàn cảnh tự nhiên, điều kiện địa lý, môi trờng, xã hội của họ. Vì cây lúa là đối tợng chính của sự sản xuất nôngnghiệp Việt nam, nên nó cây lúa trở thành trung tâm của sự phản ánh trong các lễ hội dân gian của vùng cũng nh trong mọi hình thái văn hóa dân giankhác của vùng. Cây lúa đợc coi là biểu trng cho sự no đủ, hạnh phúc, biểu trng cho tất cả những đức tÝnh tèt ®Đp cđa con ngêi. Mäi sù vËt, hiƯn tợng đều đợcnhận thức trên cơ sở của quy luật phát triển của cây lúa. Trong suy nghĩ của những ngời dân Việt nam, ngời mẹ, ngời phụ nữ chính là những ngời đã tạo ranhững giống lúa, sáng tạo ra nghề trồng lúa vì nghề trồng lúa đợc ra đời từ hái lợm, mà hái lợm lại là công việc của ngời phụ nữ; Cho nên, ở các lễ hội dângian của vùng, các tín ngỡng về cây lúa nh là tín ngỡng bản địa của các dân tộc trên đất nớc Việt nam, và sự phản ánh tín ngỡng ấy qua biểu tợng ngời phụ nữlà một đặc thù của các lễ hội dân gian ở Việt nam.Các lễ hội dân gian ở Việt nam đều đợc tạo thành bởi một chuỗi các cảnh diễn liên tiếp, theo một kịch bản quy định. Những cảnh diễn, cũng nh nhữngquy định của kịch bản, lại xuất phát từ chính cuộc sống sinh hoạt và lao động của những ngời nông dân trồng lúa, nên chúng có nhiều điểm chung. Mỗi cảnh- 5 -diễn đợc tạo thành bởi sự tập trung và tập hợp của nhiều loại hình, loại chủng văn hóa, để diễn tả một hoạt động, một sinh hoạt vật chất nào đó của ngời nôngdân. Đơng nhiên, sự diễn tả ấy là nhằm vào một mục đích nhất định: nói lên một nguyện vọng, một mong ớc của cộng đồng; nên sự tập hợp lộn xộn, màchúng có những quy tắc, quy định nhất định nếu không, cảnh diễn sẽ không có ý nghĩa, không biểu phát đợc nguyện vọng mà những ngời nông dân muốn gửigắm. Mặt khác, mỗi cảnh diễn lại nhằm phục vụ cho việc làm rõ mục đích chung của lễ hội, nên chúng cũng phải tuân thủ theo những quy tắc và quy địnhcủa lễ hội để đạt đợc mục đích của lễ hội. Chính những quy tắc và quy định này đã làm cho các hoạt động lễ hội đợc cấu tạo theo cơ chế mô hình nghĩalà chúng bao gồm những yếu tố có tính chất bộ xơng, còn phần thịt, tức các chi tiết thì dành cho các cá nhân, các cộng đồng sáng tạo bồi đắp khi thực hiệnhoạt động. Điều đáng chú ý ở đây là những quy tắc, quy định tức những yếu tố chung đợc phát sinh từ những ngời nông dân bởi trong cộng đồng các dân tộcViệt nam, ngời nông dân bao giờ cũng chiếm đa số; do đó, mô hình của các lễ hội dân gian ở Việt nam thờng là giống nhau. Với cơ chế mô hình, lễ hội dângian vừa đảm bảo tính thống nhất và truyền thống của cộng đồng, vừa có chỗ để các cá nhân sáng tạo. Điều này khiến các lễ hội trong vùng không cái nào giốngcái nào nhng vẫn có nét chung.Cũng phải nói thêm rằng, chính vì đợc sản sinh và quy tụ để làm rõ mục đích chung của lễ hội, mà các loại hình văn hóa tập trung và tập hợp trong cảnhdiễn, cũng nh chuỗi cảnh diễn trong lễ hội luôn luôn đợc đặt vào một hệ thống, trong đó, các loại hình văn hóa gắn bố hữu cơ với nhau cũng nh cảnh diễn nàygắn bó với cảnh diễn kia đến mức: nếu tách một loại hình văn hóa nào đó ra khỏi cảnh diễn, hoặc một cảnh diễn ra khỏi lễ hội thì chúng không còn ý nghĩanh nó vốn có trong cảnh diễn và trong lễ hội nữa. Đơng nhiên, mục đích của lễ hội cũng không đạt đợc một cách trọn vẹn nếu thiếu đi một hay vài loại hìnhvăn hóa hoặc một vài cảnh diễn.đây, lễ hội đã bộc lộ rõ nét một đặc điểm đặc thù trong phơng thức nhận thức và phản ánh của văn hóa dân gian, đó là:phơng thức tổng thể nguyên hợp tức nhận thức sự vật với t cách đó là một tổng thể. Vậy mới nói, lễ hội là một loại hình văn hóa dân gian tiêu biểu.Khi nói lễ hội dân gian trong vùng thực chất là các lễ hội nông nghiệp cũng là muốn nói chúng – các lễ hội dân gian – là sản phẩm văn hóa của nhữngngời nông dân ngời nông dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là ngời tiêu dùng. Các hoạt động lễ hội nhằm đáp ứng nhu cầu không phải cho một cá nhân ngờinông dân, mà cho cả cộng đồng ngời nông dân. Nó là sáng tạo của cả cộng đồng ngời nông dân. Vì thế mọi tri thức, t tởng, tình cảm… cũng nh những hànhvi, quy ớc, ớc lệ… trong lễ hội đều đợc biểu tợng hóa bằng những hình ảnh, những dấu hiệu quen thuộc của cộng đồng. Mọi thành viên trong cộng đồngđều có thể cảm nhận đợc chúng. Không chỉ có thế, chúng còn đợc mọi ngêi- 6 -tiÕp nhËn mét c¸ch tù ngun bëi chóng mang vác và diễn đạt những mong ớc của chính họ.thời kỳ tiền nông nghiệp, khi cuộc sống còn phụ thuộc nhiều vào môi trờng tự nhiên thì các biểu tợng của các lễ hội trong vùng có nhiều nétgiống nhau cả về vật dùng làm biểu tợng lẫn giá trị mà biểu tợng ấy mang vác, bởi chúng đều đợc ra đời trên cơ sở một hay nhiều đặc điểm về những điều kiệntự nhiên độc đáo của môi trêng sinh tån ViƯt nam nãng, Èm, ma nhiỊu, địa hình nhỏ hẹp…; và đợc ra đời từ nhu cầu sở thuộc xã hội và tính cố kết cộngđồng.Cũng vì nhằm đáp ứng nhu cầu cho cả cộng đồng ngời nông dân mà lễ hội đợc lu truyền chủ yếu qua trí nhớ chứ không phải qua chữ viết đa số ngời nôngdân xa không biết chữ, nên quá trình sản xuất sáng tạo ra lễ hội cũng đồng thời là quá trình nó đợc phân phối đến từng ngời và tiếp nhận tiêu thụ nó. Lễhội đợc ra đời chính lúc kết thúc các hoạt động lễ hội.Tóm lại, do đợc cấu thành bởi sự tham gia của nhiều chủng loại văn hóa dân gian khác nhau mà lễ hội mang trong nó mọi đặc điểm đặc thù của văn hóadân gian. Vì thế, muốn tìm hiểu đợc văn hóa dân gian Việt nam, chúng ta không thể không tìm hiểu các lễ hội dân gian của Việt nam, và để phát triển loạihình du lịch văn hoá ở Việt nam không thể bỏ qua đợc một nguồn tài nguyên hết sức quan trọng đó là các lễ hội dân gian.- 7 -Phần IILễ hội dân gian với phát triển du lịch văn hoá ở Việt nam
Source: https://evbn.org
Category: Lễ Hội