Lễ Phật thành đạo

GNO – Hôm nay nhân ngày Phật thành đạo, tổng thể Tăng Ni tụ hội về chánh điện lễ kỷ niệm Phật thành đạo .Chúng tôi nhận thấy người sau đặt nặng ngày Phật đản sanh hơn ngày Phật thành đạo. Ngày Phật đản sanh tổng thể chùa chiền đều tổ chức triển khai huy hoàng, còn ngày Phật thành đạo thì tĩnh mịch đơn sơ .
Lý đáng người tu tất cả chúng ta phải thấy ngày Phật thành đạo là ngày tối quan trọng. Vì nếu không thành đạo, Đức Phật không hề giảng giải Phật pháp, giáo hóa chúng sanh. Như vậy ngày thành đạo là một bước ngoặc lớn trong cuộc sống tu tập của Ngài, mà cũng là ngày có ý nghĩa so với muôn loài. Đó là ngày Đức Phật từ một con người trần gian trở thành xuất thế gian, từ con người mê thành con người giác. Vì vậy, chúng tôi cho rằng ngày này rất là trọng đại .

Hôm nay, tôi lược kể một vài nét đặc biệt trong đời tu của đức Phật, để tất cả chúng ta nhớ và ý thức rõ đường tu của mình. Vấn đề quan trọng chúng ta cần phải nắm vững, Phật thành đạo là thành cái gì? Chúng ta cứ lạy Phật thành đạo mà không biết thành cái gì, như thế là không hiểu gì về ý nghĩa thành đạo cả.

Bạn đang đọc: Lễ Phật thành đạo

Phật thành đạo là tác dụng bắt nguồn từ nguyên do bắt đầu là Ngài đi xuất gia. Chúng ta thử tìm hiểu và khám phá nguyên do gì Đức Phật đi xuất gia, tu hành như thế nào được thành đạo, khi thành đạo là thành cái gì ? Đó là ba chặng đường quan trọng mà toàn bộ Tăng Ni, Phật tử cần phải nắm thật vững, rồi tự xét lại mình có những điều kiện kèm theo đó không. Nếu thiếu điều nào tất cả chúng ta ráng bổ túc cho rất đầy đủ như Đức Phật, để cũng có ngày mình thành đạo .
Trước tiên nói về nguyên do hay động cơ thôi thúc thái tử đi tu. Như tất cả chúng ta đã biết, khi dạo bốn cửa thành, thấy cảnh sanh già bệnh chết của chúng sanh, Ngài giác ngộ và quyết tâm đi xuất gia. Gần đây nhiều người cho rằng già bệnh chết là tướng khổ dễ thấy, còn sanh khổ thì khó hiểu quá. Nếu bảo sanh khổ vì ra khỏi lòng mẹ khóc oa oa, thì lúc đó biết gì mà nói khổ ? Thật ra cái khổ ở đây không phải chỉ có thế .
Chúng ta nhớ lại có lần Đức Phật theo vua cha đi xem lễ hạ điền. Nhìn thấy những luống cày của người nông phu, trùng dế văng lên chim đáp xuống ăn. Nỗi khổ của chúng sanh là sự sống của loài này là sự chết của loài khác. Sự sống của loài này một ngày là sự chết của bao nhiêu loài khác. Như vậy có phải chúng sanh sống trong đau khổ không ?
Nhìn lại con người, quý vị thấy lúc chưa đi tu, mỗi ngày có chừng bao nhiêu con vật quyết tử để cho mình được no khỏe. Như đêm hôm ngồi thiền, tôi nghe tiếng lợn la khi bị đâm họng, thời nay người ta có được những miếng ăn ngon thì đêm hôm có bao nhiêu con lợn phải hi sinh ! Rõ ràng sự sống của con này phải thay bằng mạng sống của loài khác. Bởi vậy nên nói sanh khổ là chuyện không chối cãi được .
Sau khi thái tử nhìn thấy cảnh sanh già bệnh chết rồi, Ngài cảm nhận mạng sống của con người quá tạm bợ quá mỏng mảnh, lại đầy đau khổ nên Ngài quyết chí đi tu, tìm giải pháp xử lý nỗi khổ của kiếp người. Như vậy Đức Phật đi tu không phải là một sự ngẫu nhiên, mà có động cơ có sức mạnh thôi thúc Ngài. Động cơ đó chính là nỗi khổ của con người. Chúng ta sống chìm đắm trong nỗi khổ đó mà ít ai ý thức được, cứ loanh quanh lẩn quẩn chờ sanh già bệnh chết để kết thúc một cuộc sống, không có cách nào thoát được .
Đức Phật đi tu, mục tiêu là tìm ra con đường để giải thoát sự sanh già bệnh chết, khổ đau triền miên của kiếp người. Không phải Ngài đi tu như một sự ngẫu nhiên hay do sự ép ngặt của thực trạng. Bởi mang tâm trạng và ý chí cương quyết tìm cho ra con đường thoát khổ, nên khi nào Ngài cũng liều chết, cũng chuẩn bị sẵn sàng quyết tử, miễn tìm được con đường đó .
Khi ra khỏi thành, Ngài tìm những vị tiên nổi tiếng nhờ chỉ dạy đường hướng cứu vớt chúng sanh ra khỏi sanh tử. Nhưng những vị tiên mỗi người dạy mỗi cách, tuy nhiên những cách ấy chưa giải thoát được kiếp sanh tử của con người, nên Ngài không đồng ý. Ngài từ bỏ họ và sau cuối tự tìm kiếm con đường xử lý sanh tử đang ôm ấp trong lòng .
Chúng ta học được nơi Đức Phật một điều, đó là tiềm năng của mình nhắm tới chỗ nào mà người dạy không tới chỗ ấy, mình phải từ giã ra đi. Không phải nói đi tu cứ vô chùa, ai dạy gì nghe nấy, rốt cuộc một đời không đi tới đâu. Phật chỉ cho tất cả chúng ta thấy con đường quyết tu là con đường cứu khổ chúng sanh ra khỏi kiếp luân hồi. Phương pháp nào dù hay mấy mà không đạt được tiềm năng, Ngài cũng từ giã, điều này rất là rõ ràng .
Rốt cùng không còn ai chỉ được chỗ cứu kính, nên Ngài tự tu khổ hạnh. Ngài nghĩ trên trần gian những gì những đạo sĩ khác thực hành thực tế được, chịu khổ hạnh nổi Ngài đều hoàn toàn có thể thực hành thực tế, thử coi hoàn toàn có thể đưa tới chỗ cứu kính không ? Qua mấy năm trời tu khổ hạnh ở đầu cuối Ngài không đạt được mục tiêu. Thế là Ngài từ bỏ khổ hạnh, sống một cuộc sống bình dị hơn, vừa tu vừa lấy lại sức khỏe thể chất để tìm ra con đường Ngài đã mong mỏi .
Cuối cùng Ngài tới cội bồ-đề tọa thiền, Ngài thấy rõ khi người ta khổ đến cùng cực, thân thể kiệt quệ thì trí tuệ mờ ám, không hề tìm ra lối giải thoát được. Ngài mở màn đổi khác, sống đời sống vừa phải, không khổ hạnh cũng không buông lung, sống rất điều hòa. Quả nhiên đêm thứ bốn mươi chín ngồi dưới cội bồ-đề, Ngài giác ngộ .
Trình tự giác ngộ trong kinh kể là Tam minh. Trong Tam minh, có chỗ kể Thiên nhãn minh trước, có chỗ kể Túc mạng minh trước. Chúng ta nói Thiên nhãn minh trước tức là tiên phong Ngài chứng Thiên nhãn minh, kế tới Túc mạng minh, sau cuối là Lậu tận minh. Ba minh này đã cung ứng được nguyện vọng của Ngài khi quyết tâm tu .
Chứng được Thiên nhãn minh, Ngài thấy chúng sanh từ đời này sang đời kia do nghiệp dẫn. Nếu làm lành thì nghiệp lành dẫn đi đường lành, làm ác thì nghiệp ác dẫn đi đường ác, liên tục sanh tử. Kinh A-hàm Phật kể, Ngài thấy chúng sanh theo nghiệp luân hồi trong lục đạo giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy người qua kẻ lại một cách rõ ràng, không hoài nghi. Chứng Thiên nhãn minh, Ngài đã xử lý được nghi vấn con người sau khi chết không phải hết, mà theo nghiệp dẫn sanh nơi này, nơi nọ. Nghiệp có thiện ác nên chúng sanh có sanh cõi lành, cõi dữ, thấy một cách rõ ràng .
Kế đó Ngài chứng Túc mạng minh, tức là nhớ vô số kiếp về trước. Kinh A-hàm kể, khi tâm yên tịnh trong sáng, Ngài hướng về quá khứ liền nhớ vô số kiếp về trước, từng sanh ở đâu, làm nghề gì, cha mẹ tên gì … nhớ rõ ràng như nhớ việc ngày hôm qua. Hai minh này đã giải đáp được mong mỏi của Ngài, muốn tìm ra nguyên do nào khiến con người xuất hiện ở đây. Sau khi chết còn hay hết, nếu còn thì đi đâu ? Tìm ra nguyên do rồi mới hoàn toàn có thể hủy hoại nó để đạt tác dụng thoát khổ sanh tử .
Những quyển kinh nói về đời trước của Phật gọi là Bản Sanh, nói về đời trước của những đệ tử Ngài gọi là Bản Sự. Phật thấy chúng sanh luân hồi trong lục đạo, thiện thì đi đường lành, ác thì đi đường dữ. Ngài biết rõ sau khi chết con người không mất mà theo nghiệp sanh nơi này nơi kia. Đức Phật lý giải rõ trong lục đạo luân hồi, tùy nghiệp của chúng sanh mà đến những nơi. Để thấy trong vòng sanh tử tất cả chúng ta không phải chỉ có một đời này mà có từ vô số đời trước. Khi tất cả chúng ta mất thân này không phải hết mà còn tiếp nối vô số kiếp về sau không cùng không tận, nên nhà Phật dùng từ vô thủy vô chung .

Cuối cùng Đức Phật chứng được Lậu tận minh. Chữ lậu là rơi rớt, tận là hết, lậu tận là hết sạch những mầm rơi rớt trong Tam giới, tức Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới. Ngài thấy rõ nếu ta nuôi nhân nào sẽ đi tới chỗ đó, nếu diệt hết các nguyên nhân luân hồi sẽ giải thoát, không còn bị sanh trong Tam giới nữa. Phật chứng Lậu tận minh cũng như hai minh kia là do Ngài ngồi thiền tâm thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt mà được.

Khi chứng Tam minh rồi Ngài công bố thành Phật, tức là giác ngộ trọn vẹn, không còn kẹt trong sanh tử nữa. Sự giác ngộ này không do ai dạy cả mà nhờ công phu thiền định, tâm yên tịnh trong sáng mà ra. Bởi vậy sau khi thành Phật, Ngài công bố ta học đạo không có thầy. Bởi chứng Lậu tận minh, thấy tường tận nguyên do dẫn đi trong sanh tử và biết rõ giải pháp dứt trừ nguyên do ấy nên Ngài không còn mầm lôi kéo trong sanh tử nữa. Đức Phật đã đạt được sở nguyện viên mãn .
Khi Ngài giác ngộ biết rõ con người từ đâu đến, chết rồi đi đâu và muốn hết sanh tử luân hồi phải tu như thế nào, nên bài thuyết pháp tiên phong của Phật ở vườn Lộc Uyển với năm bạn bè Kiều Trần Như là bài Tứ đế. Chữ đế là thực sự. Trong Tứ đế, hai đế đầu là Khổ đế là quả và Tập đế là nhân. Chữ khổ này không phải khổ theo nghĩa thường thì, mà là khổ luân hồi sanh tử. Sở dĩ chúng sanh bị quả luân hồi sanh tử không phải ngẫu nhiên, mà có nguyên do. Nguyên nhân là Tập đế ; tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến v.v… là tập nhân để đưa tới quả khổ trong luân hồi sanh tử .
Đức Phật biết rõ nhân và quả của sanh tử rồi, Ngài tiến lên một bước nữa là nói nhân và quả thoát ly sanh tử, tức Đạo đế và Diệt đế. Diệt đế là quả, Đạo đế là nhân. Không ai bắt tất cả chúng ta sanh tử mà chính tham, sân, si, mạn, nghi … lôi mình tạo nghiệp đi trong sanh tử. Vì vậy muốn hết sanh tử phải hủy hoại nguyên do Tập đế. Muốn hủy hoại nó phải có giải pháp, có phương pháp nên Đạo đế là chiêu thức đối trị những nguyên do sanh tử. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là ba mươi bảy giải pháp dứt trừ nhân sanh tử. Một khi dứt sạch nhân sanh tử gọi là quả Diệt đế. Diệt đế tức tên khác của Niết-bàn an nhàn .
Đêm mùng 8 tháng 12 Ngài thành đạo là thành cái gì ? Thành tựu được Tam minh Lục thông, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng pháp … Ở đây tôi chỉ nói đơn thuần Tam minh thôi. Sở nguyện của Đức Phật là làm thế nào tìm ra manh mối khiến con người lăn lộn trong luân hồi sanh tử, rồi dứt trừ mầm sanh tử đó. Ngài đã đạt được tiềm năng của mình nên gọi là thành đạo. Thành đạt được những gì Ngài đã ôm ấp, trông đợi, quyết tử cả cuộc sống để tìm kiếm, nên ngày này Đức Phật bừng vui, không gì vui bằng .
Ai cũng vậy, cả cuộc sống hi sinh để mong đạt được một điều gì, bỗng dưng điều ấy đến với mình thật tuyệt vời, tự nhiên phải vui mừng. Chẳng những Đức Phật vui mừng mà tất cả chúng ta cũng thế, chính do Ngài thành đạo nên sau này mới chỉ cho tất cả chúng ta con đường, giải pháp tàn phá mầm sanh tử, giúp tất cả chúng ta giải thoát giác ngộ như Ngài. Đó là niềm vui chung, nên ngày hôm nay nhân kỷ niệm ngày Đức Phật thành đạo, tất cả chúng ta vui mừng và cố gắng nỗ lực thực thi theo những gì Đức Phật đã triển khai .
Hiện tại tất cả chúng ta kiểm lại xem mình có giống Đức Phật không ? Nếu nói xuất gia thì ai cũng thấy Đức Phật cạo bỏ râu tóc, vô rừng tu và thành đạo. Chúng ta thời nay cũng cạo bỏ râu tóc vô chùa tu, ngoại hình hơi giống nhưng bản nguyện của quý vị trong khi đi xuất gia có giống bản nguyện của Phật không ? Chắc có người giống, có người không giống. Mỗi vị mỗi nguyên do khác nhau khi đi tu, không phải quyết vì tìm cho ra con đường giải thoát sanh tử cho mình, cho người. Hoặc vì nguyên do ở đời khổ quá, chán quá vô chùa cho yên. Hoặc giả bao nhiêu người xung quanh xử sự tệ bạc với mình quá, chán vô chùa cho rồi … Tóm lại, tất cả chúng ta đi tu không phải đều giống mục tiêu như Đức Phật .
Quý vị vào chùa rồi, nếu chưa có bản nguyện cao siêu thì giờ đây phải lập bản nguyện. Chúng ta đã đi tu thì phải giống Đức Phật chứ ! Không thể tu ra sao mặc. Muốn giống Đức Phật, trước phải có bản nguyện siêu thoát, tu là vì giải thoát đau khổ luân hồi của thân phận mình và chúng sanh, không phải tu để qua ngày qua tháng chờ già chết, được cái tháp tốt hơn người trần gian. Phải luôn luôn nuôi dưỡng bản nguyện trong tâm, không hề lơ là được .
Chính bản nguyện cao siêu đó giúp tất cả chúng ta giữ vững lập trường và chí nguyện tu hành. Giả sử có ngoại đạo nào muốn dạy pháp tu hay, hiệu quả mau chóng trong năm ba tháng, quí vị hoàn toàn có thể xuất hồn ngao du trong cõi này cõi kia chơi, nghe vậy mình vẫn không ham. Xuất hồn đi chơi chỗ này chỗ kia, không phải là sở nguyện của người xuất gia cầu thoát ly sanh tử. Chúng ta tu hành phải tìm ra chiêu thức nào dứt mầm sanh tử cho mình và dạy cho chúng sanh cùng được thoát ly sanh tử. Đi chơi đây đó, ngoài trần gian làm có tiền mua vé máy bay đi chơi cũng được vậy. Tội gì phải tu cả đời mới đi chơi được. Chẳng lẽ tất cả chúng ta vì sự du lịch mà đi tu !
Như vậy những gì không đúng sở nguyện tu hành, tất cả chúng ta không màng tới, dù nó hay nó lạ mấy, mình cũng không chú ý. Đức Phật có sở nguyện chánh đáng nên gặp những vị tiên dạy tu, Ngài chứng được những tầng thiền cao nhất của họ, tuy nhiên vẫn thấy không hài lòng vì chưa xử lý được yếu tố sanh tử. Ngài từ giã những thầy ngoại đạo, những vị ấy năn nỉ Ngài ở lại sẽ nhường ngôi vị giáo chủ và đệ tử cho, Phật nhất định không ở, vì nó chưa đúng bản nguyện của Ngài .
Sang chặng thứ hai, muốn thành tựu sở nguyện, phải nỗ lực tinh ròng, siêng năng tinh tấn lắm mới được. Trong kinh thường nói Đức Phật đã là một vị Bồ-tát, mà trên đường tu Ngài rất là cần khổ, năm năm long dong tầm đạo trong rừng già biết bao cực khổ, sáu năm khổ hạnh cho tới chỉ còn da bọc xương và ngất xỉu v.v… Sau đó, Ngài thiền định dưới cội bồ-đề mới được giác ngộ. Đức Phật thành đạo phải trải qua bao nhiêu khó khăn vất vả, không phải rời khỏi hoàng cung đến cội bồ-đề thành đạo liền .
Chúng ta thấy không có hiệu quả tốt đẹp nào đến ngẫu nhiên cả, tổng thể đều nhờ công phu cực khổ mới được. Bây giờ tất cả chúng ta kính phục lễ lạy Phật, đó là tác dụng Ngài đã từng trả giá rất đắt trên bước đường tầm tu, không phải chuyện thuận tiện. Ngày nay tất cả chúng ta tu, ai cũng mơ ước đến ngày thành đạo, mà không muốn cực, sợ cực, làm thế nào cho sướng mới chịu tu, cực khổ quá thì tu chi. Thử hỏi như vậy đến khi nào mới thành đạo ? Muốn tác dụng tốt, tác dụng cao siêu mà không chịu cực thì làm thế nào có !
Ở trần gian một người học trò từ khi cắp sách đến trường cho tới đậu cử nhân hay tiến sỹ, có chịu cực không ? Họ ăn no, nằm dài ngủ mà được cử nhân tiến sỹ hay phải quên ăn bỏ ngủ, cắm đầu học mới đạt được hiệu quả đó ? Người đời muốn được hiệu quả tốt đẹp còn phải trả giá rất đắt, vừa tốn sức khỏe thể chất nỗ lực học, vừa tốn tài lộc của cha mẹ, huống nữa là vào đạo, muốn có tác dụng cao siêu trần gian ít người làm được, và lại trả giá quá rẻ, làm thế nào được ? Ở đây tôi cho sống trong thiền viện là trả giá rẻ, chính do Tăng Ni có khổ hạnh khi nào đâu ? Ngày nào cũng ăn hai ba bữa, tối ngủ ít ra năm tiếng đồng hồ đeo tay, tổng số ngày đêm sáu tiếng, thì đâu có đắt. Như vậy mà có người chịu không nổi muốn chạy, phải không ?

Từ gương Đức Phật, chúng ta nhìn lại đời mình thấy những thiếu sót, những tâm yếu đuối của mình, từ đó bồi bổ nung nấu lại ý chí, dẹp bỏ tật yếu đuối để trở thành một con người quyết chí chết sống tìm đạo, chớ không phải chuyện đơn sơ. Nếu quyết tâm như vậy tôi tin rằng ai tu cũng có kết quả tốt. Nếu không có bản nguyện, không chịu cực khổ, không quyết tâm thì dù ở chùa mười năm, hai chục năm cho tới năm sáu chục năm, cũng chỉ mang hình thức ông thầy tu, chớ không đi tới đâu hết.

Nhân ngày Phật thành đạo tôi nhắc tổng thể Tăng Ni, Phật tử biết con đường của Đức Phật đã đi, tất cả chúng ta cũng phải đi như vậy. Thông thường người đời nay hay nói mình phước mỏng mảnh nghiệp dày rồi tu lơ mơ, thế cho nên không khi nào đạt được hiệu quả tốt đẹp. Ngày xưa, Đức Phật là Bồ-tát tái thế mà còn cần khổ tu hành mới thành tựu sở nguyện. Nếu Phật khổ chừng năm chục Phần Trăm mới đạt hiệu quả, thì tất cả chúng ta giờ đây phước mỏng dính nghiệp dày phải khổ trăm Phần Trăm mới có tác dụng chứ. Bây giờ khổ bằng Phật mình còn không làm nổi huống nữa là hơn, do đó quả Bồ-đề thật khó với tới .
Nếu tất cả chúng ta quyết chí nhất định một đời tìm ra cái cao siêu quý báu, thì phải gật đầu con đường tu cay đắng, khó khăn vất vả, cương quyết vượt qua hết mọi thử thách để đạt được mục tiêu của mình. Một đời xuất hiện ở đây là rất quý, tất cả chúng ta đừng bỏ mất thời cơ này. Nếu đời này mất đời sau cũng sẽ mất, mất hoài không khi nào tất cả chúng ta tiến được. Đời này nếu tất cả chúng ta chưa tìm ra toàn vẹn thì ít ra một phần, hai phần cái cao siêu ấy. Có thế sau này mới kỳ vọng liên tục con đường tu hành như nguyện, còn thả trôi đời này thì đời sau cũng sẽ mất. Mất mãi mãi như vậy làm thế nào tránh khỏi muôn kiếp luân hồi trong lục đạo .
Mong toàn bộ Tăng Ni nhớ và gắng thực hành thực tế những gì tôi nhắc nhở nhân ngày kỷ niệm Đức Phật thành đạo .

Source: https://evbn.org
Category : Lễ Hội