CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ. LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY – Tài liệu text

CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ. LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.64 KB, 20 trang )

Đề tài:
TRÌNH BÀY CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH
TẾ.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
I.Đặt vấn đề:
Trong dự án phối hợp với Bộ kế hoạch và Đầu tư, “Nghiên cứu chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội cho đến năm 2010 ở Việt Nam” UNDP(1 chương trình
phát triển liên hợp quốc) đã nhận định rằng : “ Trong việc xây dựng Chiến lược
kinh tế – xã hội cho 10 năm tới, không vấn đề nào quan trọng hơn là vai trò của
Nhà nước trong nền kinh tế”. Nhận định này không chỉ đúng đối với nước ta trong
giai đoạn lúc bấy giờ, mà trong thời đại ngày nay, quản lý Nhà nước về kinh tế vẫn
đang là một nhân tố cơ bản, quyết định đến sự phát triển của đất nước.
Có thể nói rằng, quản lý nền kinh tế là một phần quan trọng trong hoạt động
của Nhà nước nói chung và Nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng. Đối với Nhà
nước xã hội chủ nghĩa, tổ chức và xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng,
lành mạnh, năng suất và hiệu quả là hoạt động chủ yếu .Vì vậy, hoạt động quản lý
Nhà nước về kinh tế có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện của
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Bất kỳ một
nền kinh tế nào đều cần có sự quản lý của Nhà nước. Càng là kinh tế thị trường
càng phải tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế. Ở đây, Nhà
nước tác động đến các chủ thể kinh tế với tính cách là chủ thể thực hiện quyền lực
công cộng.
Việt Nam cũng như các nước xã hội chủ nghĩa, trước đây trong nền kinh tế
tập trung, Nhà nước đã làm tất cả không còn chỗ cho thị trường. Nền kinh tế
không vì vậy mà tốt hơn, thậm chí còn tồi tệ hơn. Tuy nhiên không thể phủ nhận
tầm quan trọng của quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế. Muốn có được một nền

kinh tế phát huy được đầy đủ khả năng tiềm tàng của nó, Nhà nước đã đặt ra các
nguyên tắc quản lý Nhà nước. Đây cũng là chủ đề mà bài viết quan tâm và hướng
tới.

Bài viết trình bày về : “ Các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế, từ đó
liên hệ với nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay”.
II. Nội dung:
1.KHÁI NIỆM CƠ BẢN:
1.1. Khái niệm Quản lý Nhà nước về kinh tế:
1.1.1.Kinh tế,chế độ kinh tế :
“Kinh tế” là một thuật ngữ khá phức tạp và có nhiều cách hiểu khác
nhau.Theo đó:
 Xét về mặt danh từ, kinh tế: là tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất
của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Hay nói cách khác là tổng thể nói chung
những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cần vật chất.
Xét về mặt tính từ, kinh tế có liên quan đến lợi ích vật chất của con người
(như sử dụng đòn bẩy kinh tế để phát triển) hoặc kinh tế có tác dụng mang lại hiệu
quả tương đối lớn.
Như vậy, kinh tế nói chung là những hoạt động của con người nhằm biến đổi
những sản vật tự nhiên thành thức ăn, vật dụng nhằm thoả mãn nhu cầu của mình.
Từ khái niệm kinh tế, có thể hiểu chế độ kinh tế: là một hệ thống những
nguyên tắc, quy định điều chỉnh những quan hệ trong lĩnh vực kinh tế nhằm thực
hiện những mục tiêu chính trị, kinh tế-xã hội nhất định, nó thể hiện trình độ phát
triển của một xã hội, bản chất của nhà nước, của chế độ xã hội.

1.1.2. Quản lý nhà nước về kinh tế:
Quản lý nhà nước: là các hoạt động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn của nhà
nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội (lập pháp, tư pháp, hành
pháp) dựa trên những quy luật khách quan, nhằm đạt được những mục đích nhất
định.
Quản lý nhà nước về kinh tế: là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền
của Nhà nước lên nền kinh tế Quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn
lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có để đạt được mục tiêu phát

triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước về kinh tế được thực hiện thông qua cả ba
loại cơ quan lập pháp,hành pháp, tư pháp của Nhà nước.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước về kinh được hiểu như hoạt động quản lý
có tính chất nhà nước nhằm điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan
hành pháp (chính phủ).
1.2.Khái niệm nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế:
Nguyên tắc: là những phép tắc gốc,những điều cơ bản định ra, nhất thiết
phải tuân theo(vd: nguyên tắc chỉ đạo, làm việc có nguyên tắc…)Theo đó có thể
hiểu:
Nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế: là những quy tắc, chuẩn mực
được nhà nước định ra, thống nhất, xuyên suốt và bắt buộc phải tuân theo trong
những giai đoạn xã hội nhất định đối với hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế.

2.CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ:
2.1. Lịch sử những chế định về nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế
qua các bản hiến pháp:
Từ khi xuất hiện, Nhà nước đã tác động đến các quan hệ kinh tế; những quan
hệ kinh tế luôn là đối tượng điều chỉnh của pháp luật nói chung và luật hiến pháp
nói riêng. Những vấn đề cơ bản của chế định về kinh tế như vấn đề sở hữu, các
nguyên tắc quản lý nền kinh tế đều được xác định trong hiến pháp năm của các
nước.
Đối với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vấn đề sở hữu đã
được nêu ngay trong bản hiến pháp đầu tiên, Hiến pháp 1946 (tại điều 12). Tuy
nhiên, do điều kiện thời bấy giờ,nền kinh tế nước ta còn là tự nhiên, tự do với nền
kinh tế nhiều thành phần đúng với mục tiêu cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới,
nên trong Hiến pháp 1946, chưa có các quy định cơ bản như mục đích, chính sách
kinh tế, trong đó, chưa đề cập đến các nguyên tắc quản lý Nhà nước về kinh tế.
 Hiến pháp 1959, đã xác lập một chế độ kinh tế theo chủ nghĩa xã hội với

công, nông nghiệp hiện đại, khoa học-kỹ thuật tiên tiến. Lần đầu tiên Nhà nước đã
dành ra một chương riêng (chương II) quy định những vấn đề cơ bản nhất trong
lĩnh vực kinh tế,. Trong đó nguyên tắc quản lý Nhà nước về kinh tế được quy định
tại Điều 10.Hiến pháp 1959
Điều 10.Hiến pháp 1959 có quy định :
“Nhà nước lãnh đạo hoạt động kinh tế theo một kế hoạch thống nhất.
Nhà nước dựa vào các cơ quan nhà nước, tổ chức công đoàn, hợp tác xã
và các tổ chức khác của nhân dân lao động để xây dựng và thực hiện kế hoạch
kinh tế .”
 Đến Hiến pháp 1980, đã quy định một chế độ kinh tế thuần tuý xã hội chủ
nghĩa. Những vấn đề cơ bản về kinh tế một lần nữa được quy định trong Chương II

(điều 15 đến 36).Thời kỳ này, Nhà nước thực hiện một chế độ quản lý kinh tế theo
kế hoạch tập trung thống nhất kết hợp quản lý theo ngành, theo địa phương và
vùng lãnh thổ. Theo đó nguyên tắc quản lý của Nhà nước về kinh tế được quy định
tại Điều 33 trong bản Hiến pháp này.
Điều 33.Hiến pháp 1980 có quy định:
“Nhà nước lãnh đạo nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất; đề cao
tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động và sáng tạo của các cấp các ngành,
các đơn vị cơ sở và cá nhân, để xây dựng và thực hiện kế hoạch Nhà nước, huy
động mọi lực lượng lao động, tài nguyên thiên nhiên và cơ sở vật chất-kỹ thuật của
đất nước, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân phát triển toàn diện, cân đối, vững
chắc, với nhịp độ nhanh và hiệu quả cao.”
 Hiến pháp 1992, chế độ kinh tế cũng được quy định tại chương II những đã
được sửa đổi về cơ bản theo tinh thần đổi mới mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI và thứ VII đã đề ra. Thời kỳ này, chế độ kinh tế được quy định là chế độ kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp đã quy định những
nội dung mới về chế độ kinh tế, trong đó có chế độ quản lý kinh tế.
Điều 26.Hiến pháp 1992 quy định về những nguyên tắc quản lý nhà nước về

kinh tế:
“ Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách, phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các
ngành, các cấp, kết hợp lợi ích cá nhân, của tập thể với lợi ich Nhà nước.”
Trong Hiến pháp 2013,chương II “Chế độ kinh tế” và Chương III “Văn hóa,
giáo dục, khoa học, công nghệ” của Hiến pháp năm 1992 có tổng cộng 29 điều đã
được Hiến pháp năm 2013 gộp lại thành một chương là Chương III “Kinh tế, xã
hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và mội trường” và chỉ còn 14 điều
nhưng quy định cô đọng, khái quát, mang tính nguyên tắc so với Hiến pháp năm
1992.

Theo đó, các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế được thể hiện rõ tại điều
52 của bộ luật này.
Điều 52. Hiến pháp 2013:“

Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế

kinh tế, điều tiết nên kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện
phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước, thúc đẩy liên kết vùng,
bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.”
Hiến pháp 2013 đã quy định những chính sách kinh tế – xã hội mang tính
nguyên tắc, khái quát, cô đọng thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển
kinh tế với các vấn đề xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi
trường nhằm hướng đến sự phát triển có tính chất bền vững hơn.
2.2. Các nguyên tắc quản lý Nhà nước về kinh tế trong Hiến pháp 2013:
Điều 52. Hiến pháp 2013 đã chỉ rõ những nguyên tắc cơ bản mà Nhà nước ta
sử dụng để quản lý nền kinh tế. Theo đó, có ba nguyên tắc cơ bản như sau:
2.2.1. Nguyên tắc Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng pháp luật dựa trên
cơ sở tôn trọng các quy luật của nền kinh tế thị trường:

 Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật:
Trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế được đặt
dưới sự chỉ huy bởi kế hoạch hoá tập trung cao độ với những nguyên tắc kế hoạch
hoá thống nhất, tập trung dân chủ, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa
phương và vùng lãnh thổ…Về cơ bản, đây là những nguyên tắc phù hợp với cơ chế
kinh tế thời trước.
Với cơ chế mới, hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng của
các quan hệ kinh tế, các chủ thể, lợi ích,các hình thức sở hữu. Nhà nước có nhiệm
vụ bảo đảm cho nền kinh tế ổn định, phát triển, có tính tổ chức cao và theo định
hướng đã chọn. Không thể quản lý theo lối cũ bằng các biện pháp hành chính ,
mệnh lệnh mà phải đổi mới quản lý. Theo đó, pháp luật là công cụ chủ yếu và có

hiệu quả nhất để Nhà nước quản lý xã hội nói chung và quản lý nền kinh tế nói
riêng.Nhà nước phải xây dựng, hoàn thiện một hệ thống pháp luật trong đó có hệ
thống pháp luật về kinh tế sao cho phù hợp với nền kinh tế quốc dân.
Có thể nói, quản lý kinh tế bằng pháp luật là nguyên tắc cơ bản trong bối cảnh
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
-Pháp luật là sự thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong
lĩnh vực kinh tế.Bằng pháp luật, Nhà nước xác định chiến lược phát triển, mục tiêu
phát triển kinh tế cũng như quy hoạch và cơ cấu nền kinh tế.
-Việc xác lập khuôn khổ pháp luật cho các hoạt động kinh tế trong nền kinh
tế thị trường được xem như là một điều kiện tiên quyết đảm bảo cho thi trường
hoạt động có hiệu quả. Vì môi trường pháp lý ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết
định kinh doanh của các chủ thể kinh tế
-Bên cạnh đó ,với những thuộc tính vốn có của nó, pháp luật bảo đảm xác lập
các mối quan hệ kinh tế phức tạp, nảy sinh trong nền kinh tế bảo đảm vận hành cơ
chế để ngăn chặn và xử lý những trường hợp vi phạm trong sản xuất kinh doanh.
Trung tâm của pháp luật kinh tế là là bảo vệ các lợi ích chính đáng của các chủ thể
trên thị trường, không cho phép xâm phạm một cách tuỳ tiện quyền sở hữu.

-Bước vào cơ chế thị trường, Nhà nước thành lập các toà kinh tế, lập ra các
toàn án kinh tế cũng như ban hành các vă bản pháp luật. Trong đó,vai trò của pháp
luật kinh tế thể hiện ở các mặt sau:
+Pháp luật kinh tế xác định địa vị pháp lý các tổ chức và đơn vị kinh tế;
+Bằng pháp luật kinh tế, nhà nước điều chỉnh các hành vi kinh doanh xác
định các hành vi kinh doanh hợp pháp, kinh doanh phi pháp;
+Tạo ra các luật chơi một cách bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh, phát
huy tính tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường.

 Như vậy, có thể nói rằng: trong nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần theo
cơ chế thị trường, sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật trở nên đặc biệt và có ý
nghĩa quan trọng.
 Thứ hai, Nhà nước quản lý nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật
của nền kinh tế thị trường:
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo những quy luật cơ bản (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy
luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ…) nhằm xác định một cách đúng đắn giá
cả và số lượng hành hoá, dịch vụ trên thị trường.
Theo đó, nền kinh tế thị trường có các quy luật cơ bản:
– Quy luật gía trị:
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. Ở đâu có sản
xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động của quy luật giá trị. Quy luật giá
trị điều tiết việc sản xuất và lưu thông hàng hóa thông qua sự biến động của cung cầu thể hiện qua giá cả trên thị trường.
-Quy luật cung cầu:
Cung – cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả. Đây là sự tác
động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau.Quy luật cung – cầu
tác động khách quan và rất quan trọng. Nếu nhận thức được chúng thì chúng ta vận
dụng để tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều hướng có lợi cho
quá trình tái sản xuất xã hội.

 Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung – cầu thông qua các chính sách, các
biện pháp kinh tế như: giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi
cơ cấu tiêu dùng.
-Quy luật canh tranh:
Cạnh tranh là sự tác động lẫn nhau giữa các nhóm người, giữa người mua và
người bán hay giữa người sản xuất và người tiêu dùng.

Cạnh tranh như một tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh có tác
dụng san bằng các giá cả mấp mô để có giá cả trung bình, giá trị thị trường và giá
cả sản xuất đều hình thành từ cạnh tranh trong nội bộ ngành và giữa các ngành.
-Quy luật lưu thông tiền tệ:
Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định lượng tiền cần cho lưu thông.
Lượng tiền cần cho lưu thông chính bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hoá với tốc
độ lưu thông tư bản .Nếu quy luật canh tranh, quy luật cung – cầu làm giá hàng hoá
vận động, san bằng thì quy luật lưu thông tiền tệ giữa mối liên hệ cân bằng giữa
hàng và tiền.
-Ngoài ra còn một số loại quy luật khác như: quy luật tỷ suất lợi nhuận có
xu hướng giảm, quy luật khủng hoảng kinh tế, quy luật tâm lý… cũng ảnh
hưởng đến cơ chế thị trường.
 Các quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường có tác dụng to lớn trong
việc quy định số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường, định giá cả hàng hoá và
tốc độ lưu thông tiền tệ, điều tiết, lưu thông hàng hoá, kích thích cải tiến kỹ thuật
hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội
phát +triển… Với việc Nhà nước tôn trọng các quy luật thị trường, mỗi cá nhân
được tạo điều kiện để phát huy cao nhất sức sáng tạo và tự do tiến hành các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, tự do cạnh tranh, tự do trao đổi trong khuôn khổ của
luật pháp và dựa trên tín hiệu của thị trường, sự điều tiết của thị trường
Tại hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 21 Trung ương 6 khóa X về
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, Thủ

tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định: “ Kinh tế thị trường là tiến bộ của xã hội
loài người, là quy luật tất yếu, khách quan, Việt Nam phải tôn trọng và thực hiện
theo các quy luật của thị trường”
.Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn nhận thức,tôn
trọng và vận dụng đầy đủ các quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường vào việc

hoạch định các chính sách giá cả, kế hoạch hoá nền Kinh tế quốc dân, thực hiện
hoạch toán kinh tế…sao cho phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế .
2.2.2.Nguyên tắc thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý
Nhà nước về kinh tế:
Có thể nói,nguyên tắc phân công, phân cấp, phân quyền là một trong những
nội dung cơ bản của tổ chức nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về kinh tế
nói riêng.Ở Việt Nam, vấn đề phân công, phân cấp, phân quyền đang được chú ý
với tính cách là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của quá trình cải cách nền hành
chính nhà nước. Để đạt được những hiệu quả như mong muốn, cần phải nắm vững
nội dung cũng như vận dụng một cách linh hoạt các nguyên tắc này trong quá
trình quản lý Nhà nước về kinh tế.
Phân công: phân công ở đây là phân công trách nhiệm .
+ Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, trên tinh thần đổi mới tư duy về
kinh tế, nhà nước giao quyền tự chủ động sản xuất kinh doanh ,tự chịu trách
nhiệm về việc bảo toàn và phát triển vốn cũng như toàn bộ hoạt động của mình,
làm tròn các nghĩa vụ đối với nhà nước. Nhà nước nói chung, các cơ quan Nhà
nước nói riêng chỉ quản lý hành chính về kinh tế bằng cách định hướng để nền
kinh tế phát triển đúng hướng, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế…
+Trong việc phân công trách nhiệm giữa các ngành, các cấp cũng như trách
nhiệm của tập thể và cá nhân cần phải xác định rõ ràng để không chồng chéo, vô
hiệu hoá lẫn nhau. Trách nhiệm của trung ương và trách nhiệm của từng địa
phương cũng như trách nhiệm của các cơ quan quản lý tổng hợp (chính phủ, uỷ

ban nhân dân các cấp…) và các cơ quan quản lý ngành (các bộ, sở, phòng…) cũng
phải được phân định một cách rõ ràng.
Phân cấp: phân cấp ở đây là phân cấp quản lý.

+Phân cấp quản lý được hiểu là chuyển giao nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan quản lý nhà nước cấp trên đối với cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện
thường xuyên, ổn định, lâu dài trên cơ sở pháp luật…Thực chất của phân cấp quản
lý về kinh tế xác định là sự phân chia thẩm quyền theo các cấp hành chính phù hợp
với yêu cầu của tình hình nền kinh tế. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng, phân cấp quản
lý được hiểu là “sự phân chia các đơn vị hành chính-lãnh thổ và phân công thẩm
quyền hợp lý giữa các cấp chính quyền tương ứng cho phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ và đặc điểm của mỗi cấp để nhằm thực hiện hiệu quả hơn hoạt động quản
lý nhà nước về kinh tế.
+ Dù được gọi tên khác nhau, song ở đâu quyền lực nhà nước cũng cần
được phân chia một cách hợp lý giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương. Từ gần ba thập kỷ qua, đặc biệt là từ hơn 05 năm trở lại đây, Việt Nam đã
thực hiện phân cấp quản lý kinh tế mạnh mẽ cho chính quyền địa phương.
+Như vậy, liên quan đến khái niệm phân cấp có hai nội dung cần lưu ý
là xác định thẩm quyền của mỗi cấp hành chính trong các văn bản quy phạm pháp
luật và chuyển giao thẩm quyền của cấp trên cho cấp dưới bằng các quyết định cụ
thể nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
 Phân cấp quản lý nhà nước là một nội dung của cải cách hành chính và rộng
hơn là đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Nó phải được tiến hành trên cơ
sở những định hướng và quan điểm chỉ đạo xuyên suốt hai quá trình nói trên, trong
đó phải kể đến các nguyên tắc: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng; tập trung dân chủ; pháp chế…
Phân quyền: phân quyền ở đây được hiểu là phân chia thẩm quyền theo
lãnh thổ. ”. Hay nói cách khác nó thể hiện việc “pháp luật quy định vị trí pháp lý
của các cấp chính quyền địa phương”

+Phân quyền theo cấp lãnh thổ là nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền
lực, theo đó, nhà nước trung ương chuyển giao(thông qua hiến pháp và luật) cho
các hội đồng dân biểu địa phương những quyền hạn độc lập và toàn vẹn ( bao gồm
cả phương tiện vật chất, tài chính, nhân sự…) trong phạm vi đó nó thực hiện một
cách chủ động, độc lập và tự chịu trách nhiệm.
+ Phân chia quyền lực trong quản lý kinh tế giữa chính quyền trung
ương và địa phương là cũng một trong số những nội dung quan trọng, tác động
đáng kể tới sự hình thành và thực thi các chính sách điều tiết kinh tế. Với cách tiếp
cận như vậy, “Phân quyền theo chiều dọc cũng thể hiện sự phân cấp giữa trung
ương và địa phương, giữa cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấp
dưới.
Mặc dù khái niệm phân quyền địa phương còn mới mẻ nhưng từ quản lý kinh
tế lan rộng ra các lĩnh vực khác, trên thực tế Việt Nam đã thực hiện phân cấp quản
lý mạnh mẽ cho chính quyền địa phương, từ quản lý đất đai, quy hoạch, cấp phép
đầu tư, quyết định các dự án đầu tư công, cho đến thẩm quyền địa phương trong
phân bổ và sử dụng ngân sách, trong lĩnh vực kinh tế. Từ những năm 2005 cho đến
nay. Chính phủ đã giao ngày càng nhiều thực quyền hơn cho các địa phương. Điều
này một mặt giúp cải cách nền hành chính quốc gia, thúc đẩy các địa phương đưa
ra những chính sách khuyến khích phát triển kinh tế mang tính cạnh tranh giữa các
khu vực trong toàn quốc, mặt khác cũng dần dần bộc lộ những nguy cơ phân tán về
thể chế, ví dụ phân tán năng lực ban hành và thực thi các chính sách mang tính
quốc gia, nguy cơ nền kinh tế quốc dân bị phân tán bởi tính cát cứ của các nền kinh
tế địa phương

 Có thể nói, việc thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền để nâng cao
hiệu lực, hiệu quả và năng lực quản lý của nhà nước trong kinh tế cũng được xem

là vấn đề hết sức cần thiết. Vì vậy, việc quản lý kinh tế của Nhà nước đang hướng
vào việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và doanh
nghiệp, nhằm tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
2.2.3.Nguyên tắc Nhà nước tiến hành thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo
đảm tính thống nhất của nền kinh tế Quốc dân:
Liên kết kinh tế vùng: là sự liên kết giữa các ngành kinh tế mang tính hợp
tác, bổ sung lẫn nhau giữa các địa phương, các vùng có nét tương đồng về vị trí
địa lý, điều kiện tự nhiên, phân bố dân cư, nhằm mục đích tăng cường sức hút thúc
đẩy phát triển của địa phương trong vùng.
Hiện nay Việt Nam có bảy vùng kinh tế quan trọng,đó là: trung du và miền núi
Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ, Tây
Nguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh những sự tương đồng nhất định, sự khác biệt giữa các vùng tự nó
cũng hàm nghĩa là mỗi vùng đều có những thế mạnh và thế yếu đặc thù, tạo ra
những lợi thế tuyệt đối và tương đối nhất định trong sự phân công lao động xã hội.
Liên kết vùng không chỉ là bù đắp những khoảng trống, thiếu hụt nguồn lực giữa
các vùng mà còn gia tăng tính lợi ích nhờ hiệu quả kinh tế theo quy mô. Vì thế,
một cách tự nhiên, để phát triển sản xuất, đặc biệt là trong kinh tế thị trường, các
vùng tất yếu có nhu cầu liên kết (cả nội vùng lẫn liên vùng).
Các nghiên cứu của các nhà học giả vùng về liên kết vùng đã nêu lên các
nguyên tắc liên kết vùng cơ bản là:
– Nguyên tắc thứ nhất: Phân bố lãnh thổ các ngành và phân bố vùng phải dựa
trên các lợi thế so sánh mà có thể làm cho tổng chi phí sản xuất và phân phối sản
phẩm đến thị trường thấp nhất.
– Nguyên tắc thứ hai là sự song hành sử dụng nguyên liệu cho nhiều nơi sẽ
làmgiảm hiệu suất sử dụng nguồn lợi và làm mất đi các lực liên kết vùng. Do vậy,

nguyên tắc tối ưu hóa sử dụng nguồn lợi được nêu lên như là chỉ tiêu quan trọng
cần được lưu ý khi phân bố lãnh thổ phát triển.

– Nguyên tắc thứ ba là hiệu quả quy mô. Các chi phí trên một đơn vị sản
phẩm sẽ giảm khi sản lượng gia tăng. Việc lựa chọn quy mô hợp lý phải dựa trên
sự phân tích chi tiết cầu thị trường trong và ngoài nước, phân tích các mối liên kết
giữa các nhà máy cùng loại sản phẩm.
 Có thể nói, đây được xem là phương pháp tiếp cận hiệu quả và là chìa
khoá nhằm đảm bảo sự phân bổ không gian tối ưu cho các hoạt động kinh tế – xã
hội trong vùng, huy động nguồn lực với sự phối hợp chặt chẽ của các bên liên quan
và đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các vùng lãnh thổ.
Bên cạnh đó, liên kết vùng sẽ giúp giảm áp lực về cơ sở hạ tầng, nâng cao
chất lượng dịch vụ đô thị và năng lực cạnh tranh của toàn vùng. Cơ chế điều phối
liên ngành vùng góp phần giải quyết các thách thức về biến đổi khí hậu và thúc đẩy
phát triển kinh tế bền vững.Quá trình liên kết (thông qua thương mại quốc tế) sẽ
chuyển các hoạt động kém tranh cạnh sang các vùng có cạnh tranh hơn là hoàn
toàn phù hợp đối với sự thịnh vượng của các vùng.Tạo được sự liên kết vùng vững
chắc sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư, tránh tình trạng đầu tư dàn trãi, lãng phí và sự
cạnh tranh không lành mạnh giữa các vùng kinh tế.
Thời gian qua, Nhà nước ta đã tích cực thực hiện nhiều hoạt động theo chức
năng, nhiệm vụ được giao nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế vùng; làm đầu mối và
điều phối nhiều hoạt động để các địa phương, các cấp, các ngành tăng cường liên
kết trong phát triển các sản phẩm chủ lực, từ đó nhằm đảm bảo tính thống nhất của
nền kinh tế quốc dân.

3.Liên hệ thực tiễn ở nước ta hiện nay:
Sáng 14/7, tại trụ sở Chính phủ, Ban Chỉ đạo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị
quyết 21 Trung ương 6 khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường,
định hướng xã hội chủ nghĩa do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì hội nghị, các
thành viên Ban chỉ đạo đã đánh giá cao nhiều điểm tích cực trong quá trình đổi
mới kinh tế của nước ta. Theo đó:
-Sau hơn 5 năm thực hiện, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa đã được nâng lên; hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách liên quan
cũng đã được ban hành khá đầy đủ. Đặc biệt là việc thông qua Hiến pháp 2013,
Luật Đất đai (Sửa đổi), ban hành và sửa đổi 44 Luật và Pháp lệnh liên quan, cũng
như hơn 147 Nghị định, 16 Nghị quyết, 81 Quyết định và một số lượng lớn các
Thông tư, văn bản hướng dẫn. Góp phần từng bước điều chỉnh vai trò của Nhà
nước trong nền kinh tế, phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế.
– Cùng với đó, nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng
và đa dạng hơn theo nguyên tắc thương mại thị trường hiện đại. Thị trường xuất
khẩu được mở rộng đến 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu giai
đoạn 2011-2013 tăng bình quân 22,58%. Chỉ số cạnh tranh toàn cầu của nền kinh
tế cũng được cải thiện. Các yếu tố nền tảng cơ bản của kinh tế thị trường dần được
hình thành và được nhiều quốc gia công nhận.
-Về cơ bản, qua hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã thiết lập được cơ chế,
chính sách hỗ trợ thị trường, giải quyết những tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường và đảm bảo tăng trưởng bền vững, như bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ, thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội, phân phối thu
nhập, xóa đói giảm nghèo, bình đẳng giới, công bằng xã hội, phát triển con
người…

-Với tư cách cơ quan hành chính cao nhất, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện
ngày càng rõ tính chủ động, độc lập tương đối trong việc thực thi quyền hành pháp.
Chính phủ, các Bộ và cơ quan hành chính địa phương đã có sự đổi mới quan trọng
về chức năng, trách nhiệm cho phù hợp với xu hướng cải cách thị trường và hội
nhập quốc tế. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:
+Một là, vai trò, chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ và các cơ quan
thuộc Chính phủ ngày càng được phân định rõ, phù hợp với tiến trình cải cách kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế.
+Hai là, tách bạch quản lý hành chính, quản lý nhà nước với hoạt động
quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp.

+Ba là, Chính phủ và các cơ quan hành chính tập trung thực hiện chức năng
quản lý nhà nước, chuyển từ việc quản lý trực tiếp các hoạt động sản xuất, kinh
doanh sang quản lý gián tiếp bằng pháp luật và các công cụ điều tiết vĩ mô.
+Bốn là, cơ cấu bộ máy Chính phủ được sắp xếp lại gọn hơn.
+Năm là, cải cách hệ thống cơ quan tư pháp cho phù hợp hơn với tình hình
đổi mới của đất nước
Tuy nhiên, thời gian qua, Hoạt động quản lý kinh tế cũng đã bộc lộ một số hạn chế
nhất định:
-Nhận thức về phạm trù, nội hàm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhất là thành tố định hướng xã hội chủ nghĩa còn chưa đủ rõ, còn nhiều
ý kiến khác nhau về vai trò chủ dạo của nền kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà
nước và của kinh tế tập thể.
-Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách vẫn chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất
lượng chưa cao.
– Kết quả triển khai thực thi thể chế kinh tế thị trường còn nhiều tồn tại, quyền tự
do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ, môi trường kinh doanh vẫn chưa đảm

bảo cạnh tranh công bằng, lành mạnh, giá cả chưa thực sự tuân thủ và vận hành
theo nguyên tắc và quy luật kinh tế thị trường.
-Bên cạnh đó, ở Việt Nam thực tế đang thực hiện phân cấp quản lý, phân
quyền và tự quản địa phương ở các mức độ khác nhau, mặc dù khái niệm phân cấp
quản lý được dùng khá phổ biến, còn khái niệm “phân quyền” rất ít được sử dụng.
-Chưa phân định được vai trò của các thành phần kinh tế nhất là vai trò của
doanh nghiệp nhà nước và giải pháp huy động nguồn lực từ kinh tế tư nhân, tăng
cường mối liên kết, quan hệ sản xuất giữa các thành phần kinh tế. Thực tiễn liên
kết vùng thời gian qua còn cho thấy nhiều mặt hạn chế, cụ thể là chưa đi vào chiều
sâu. Sự phối hợp giữa các vùng chưa chặt chẽ; thiếu cơ chế, nhiều vừng chưa xác
định được ngành kinh tế mũi nhọn, dẫn đến đầu tư đôi khi chưa thật sự hiệu quả,
không gian kinh tế vùng bị chia cắt

Nhận thức được những điểm tiến bộ và hạn chế đó, Đảng chủ trương bên cạnh
đổi mới về tổ chức, củng cố và kiện toàn các cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước
, khẩn trương củng cố các toà kinh tế, toà lao động, toà dân sự đồng thời thành lập
thêm các toàn án khác, còn cần phải tiếp tục đổi mới tư duy theo hướng xây dựng
chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước và xu thế phát triển chung của thế giới; chú trọng phát triển nông
nghiệp, nông dân, nông thôn; phát triển mạnh khoa học, công nghệ, áp dụng kịp
thời các tiến bộ khoa học – kỹ thuật cao vào sản xuất, kinh doanh., Tăng cường sự
phân công, hợp tác giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế và những cơ
hội từ hội nhập để đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo
nên sự thống nhất, chặt chẽ cho nền kinh tế quốc dân.
Từ những nội dung trình bày trên, có thể nói, thực tiễn và sáng tạo đổi mới thể
chế kinh tế Việt Nam là thành quả của cả quá trình tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình lịch sử – cụ thể của đất
nước trên cơ sở học tập kinh nghiệm đổi mới, cải cách của các nước một cách có

chọn lọc. Đây cũng là một trong những thành tựu nổi bật nhất của sự nghiệp đổi
mới của Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam vẫn đang tiếp tục đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa để nhanh chóng xây dựng và phát triển có hiệu
quả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa ra những nguyên tắc
hợp lý để quản lý nền kinh tế một cách phù hợp hơn,

Danh mục tài liệu tham khảo:
1.

Hiến pháp Việt Nam 2013.

2.

GS.TS.Thái Vĩnh Thắng, TS.Vũ Hồng Anh (chủ biên). Giáo

trình Luật Hiến pháp Việt Nam.Trường đại học Luật Hà Nội.Nhà xuất
bản công an nhân dân.Hà Nội-2013.
3.

GS.Nguyễn Đăng Dung,TS. Đặng Minh Tuấn. Giáo trình

luật Hiến pháp Việt Nam-Trường đại học quốc gia.Nhà xuất bản Đại
học quốc gia.Hà Nội-2013
4.

Bộ giáo dục và đào tạo. Giáo trình những nguyên lý cơ bản

của chủ nghĩa Mác-lennin.Nhà xuất bản chính trị quốc gia-sự thật.Hà
Nội-2013.
5.

PGS. TS. Nguyễn Minh Phương.THỰC TRẠNG PHÂN

CẤP, PHÂN QUYỀN VÀ VẤN ĐỀ TỰ QUẢN ĐỊA PHƯƠNG TẠI
VIỆT NAM.Viện Khoa học tổ chức nhà nước – Bộ Nội vụ.
6.

PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa.PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ

NƯỚC TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.ĐHKT TP HCM.

7.

http://luanvan.co/luan-van/quan-ly-nha-nuoc-ve-kinh-te-la-

gi-vi-sao-noi-quan-ly-nha-nuoc-vua-la-mot-khoa-hoc-vua-la-nghe-thuatnghe-nghiep-de-quan-7827/
8. http://www.baodaknong.org.vn/hien-phap-nuoc-chxhcn-viet-nam-

nam-2013/hoan-thien-the-che-kinh-te-de-xay-dung-nen-kinh-te-thitruong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-33062.html
9. http://vov.vn/kinh-te/thu-tuong-yeu-cau-lam-ro-vai-tro-cua-nha-

nuoc-trong-kinh-te-thi-truong-338925.vov
10.

http://luatminhkhue.vn/chinh-sach/thuc-tien-va-sang-tao-

trong-doi-moi-the-che-kinh-te-o-viet-nam.aspx

Mục lục
I.Đặt vấn đề:………………………………………………………………………………………….1
II. Nội dung:………………………………………………………………………………………….2
1.KHÁI NIỆM CƠ BẢN:…………………………………………………………………….2
1.1. Khái niệm Quản lý Nhà nước về kinh tế:………………………………………2
1.2.Khái niệm nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế:………………………..3
2.CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ:……………..3

2.1. Lịch sử những chế định về nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế
qua các bản hiến pháp:…………………………………………………………………………….3
2.2. Các nguyên tắc quản lý Nhà nước về kinh tế trong Hiến pháp 2013:. .6

3.Liên hệ thực tiễn ở nước ta hiện nay:………………………………………………..15
III. Kết luận: giáo trình…………………………………………………………………………18
Danh mục tài liệu tham khảo:………………………………………………………………..18

Bài viết trình diễn về : “ Các nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế, từ đóliên hệ với nền kinh tế ở Nước Ta lúc bấy giờ ”. II. Nội dung : 1. KHÁI NIỆM CƠ BẢN : 1.1. Khái niệm Quản lý Nhà nước về kinh tế : 1.1.1. Kinh tế, chế độ kinh tế : “ Kinh tế ” là một thuật ngữ khá phức tạp và có nhiều cách hiểu khácnhau. Theo đó :  Xét về mặt danh từ, kinh tế : là toàn diện và tổng thể nói chung những quan hệ sản xuấtcủa một hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Hay nói cách khác là toàn diện và tổng thể nói chungnhững hoạt động giải trí của con người nhằm mục đích thoả mãn nhu cần vật chất.  Xét về mặt tính từ, kinh tế có tương quan đến quyền lợi vật chất của con người ( như sử dụng đòn kích bẩy kinh tế để tăng trưởng ) hoặc kinh tế có tính năng mang lại hiệuquả tương đối lớn.  Như vậy, kinh tế nói chung là những hoạt động giải trí của con người nhằm mục đích biến đổinhững sản vật tự nhiên thành thức ăn, đồ vật nhằm mục đích thoả mãn nhu yếu của mình. Từ khái niệm kinh tế, hoàn toàn có thể hiểu chế độ kinh tế : là một mạng lưới hệ thống nhữngnguyên tắc, lao lý kiểm soát và điều chỉnh những quan hệ trong nghành nghề dịch vụ kinh tế nhằm mục đích thựchiện những tiềm năng chính trị, kinh tế-xã hội nhất định, nó bộc lộ trình độ pháttriển của một xã hội, thực chất của nhà nước, của chính sách xã hội. 1.1.2. Quản lý nhà nước về kinh tế :  Quản lý nhà nước : là những hoạt động giải trí chỉ huy, tinh chỉnh và điều khiển, hướng dẫn của nhànước trên những nghành nghề dịch vụ khác nhau của đời sống xã hội ( lập pháp, tư pháp, hànhpháp ) dựa trên những quy luật khách quan, nhằm mục đích đạt được những mục tiêu nhấtđịnh.  Quản lý nhà nước về kinh tế : là sự ảnh hưởng tác động có tổ chức triển khai và bằng pháp quyềncủa Nhà nước lên nền kinh tế Quốc dân nhằm mục đích sử dụng có hiệu suất cao nhất những nguồnlực kinh tế trong và ngoài nước, những thời cơ hoàn toàn có thể có để đạt được tiềm năng pháttriển kinh tế quốc gia đặt ra trong điều kiện kèm theo hội nhập và lan rộng ra giao lưu quốc tế. Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước về kinh tế được thực thi trải qua cả baloại cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp của Nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước về kinh được hiểu như hoạt động giải trí quản lýcó đặc thù nhà nước nhằm mục đích điều hành quản lý nền kinh tế, được thực thi bởi cơ quanhành pháp ( cơ quan chính phủ ). 1.2. Khái niệm nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế : Nguyên tắc : là những phép tắc gốc, những điều cơ bản định ra, nhất thiếtphải tuân theo ( vd : nguyên tắc chỉ huy, thao tác có nguyên tắc … ) Theo đó có thểhiểu : Nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế : là những quy tắc, chuẩn mựcđược nhà nước định ra, thống nhất, xuyên suốt và bắt buộc phải tuân theo trongnhững quá trình xã hội nhất định so với hoạt động giải trí quản lý nhà nước về kinh tế. 2. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ : 2.1. Lịch sử những chế định về nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tếqua những bản hiến pháp : Từ khi Open, Nhà nước đã tác động ảnh hưởng đến những quan hệ kinh tế ; những quanhệ kinh tế luôn là đối tượng người tiêu dùng kiểm soát và điều chỉnh của pháp lý nói chung và luật hiến phápnói riêng. Những yếu tố cơ bản của chế định về kinh tế như yếu tố chiếm hữu, cácnguyên tắc quản lý nền kinh tế đều được xác lập trong hiến pháp năm của cácnước.  Đối với Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, yếu tố sở hữu đãđược nêu ngay trong bản hiến pháp tiên phong, Hiến pháp 1946 ( tại điều 12 ). Tuynhiên, do điều kiện kèm theo thời bấy giờ, nền kinh tế nước ta còn là tự nhiên, tự do với nềnkinh tế nhiều thành phần đúng với tiềm năng cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, nên trong Hiến pháp 1946, chưa có những lao lý cơ bản như mục tiêu, chính sáchkinh tế, trong đó, chưa đề cập đến những nguyên tắc quản lý Nhà nước về kinh tế.  Hiến pháp 1959, đã xác lập một chế độ kinh tế theo chủ nghĩa xã hội vớicông, nông nghiệp văn minh, khoa học-kỹ thuật tiên tiến và phát triển. Lần tiên phong Nhà nước đãdành ra một chương riêng ( chương II ) pháp luật những yếu tố cơ bản nhất tronglĩnh vực kinh tế ,. Trong đó nguyên tắc quản lý Nhà nước về kinh tế được quy địnhtại Điều 10. Hiến pháp 1959 Điều 10. Hiến pháp 1959 có lao lý : “ Nhà nước chỉ huy hoạt động giải trí kinh tế theo một kế hoạch thống nhất. Nhà nước dựa vào những cơ quan nhà nước, tổ chức triển khai công đoàn, hợp tác xãvà những tổ chức triển khai khác của nhân dân lao động để kiến thiết xây dựng và triển khai kế hoạchkinh tế. ”  Đến Hiến pháp 1980, đã pháp luật một chế độ kinh tế thuần tuý xã hội chủnghĩa. Những yếu tố cơ bản về kinh tế một lần nữa được lao lý trong Chương II ( điều 15 đến 36 ). Thời kỳ này, Nhà nước triển khai một chính sách quản lý kinh tế theokế hoạch tập trung chuyên sâu thống nhất phối hợp quản lý theo ngành, theo địa phương vàvùng chủ quyền lãnh thổ. Theo đó nguyên tắc quản lý của Nhà nước về kinh tế được quy địnhtại Điều 33 trong bản Hiến pháp này. Điều 33. Hiến pháp 1980 có lao lý : “ Nhà nước chỉ huy nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất ; đề caotinh thần nghĩa vụ và trách nhiệm, phát huy tính dữ thế chủ động và phát minh sáng tạo của những cấp những ngành, những đơn vị chức năng cơ sở và cá thể, để thiết kế xây dựng và thực thi kế hoạch Nhà nước, huyđộng mọi lực lượng lao động, tài nguyên vạn vật thiên nhiên và cơ sở vật chất-kỹ thuật củađất nước, bảo vệ cho nền kinh tế quốc dân tăng trưởng tổng lực, cân đối, vữngchắc, với nhịp độ nhanh và hiệu suất cao cao. ”  Hiến pháp 1992, chế độ kinh tế cũng được pháp luật tại chương II những đãđược sửa đổi về cơ bản theo ý thức thay đổi mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứVI và thứ VII đã đề ra. Thời kỳ này, chế độ kinh tế được pháp luật là chế độ kinh tếnhiều thành phần theo xu thế xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp đã pháp luật nhữngnội dung mới về chế độ kinh tế, trong đó có chính sách quản lý kinh tế. Điều 26. Hiến pháp 1992 pháp luật về những nguyên tắc quản lý nhà nước vềkinh tế : “ Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp lý, kếhoạch, chủ trương, phân công nghĩa vụ và trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa cácngành, những cấp, phối hợp quyền lợi cá thể, của tập thể với lợi ich Nhà nước. ”  Trong Hiến pháp 2013, chương II ” Chế độ kinh tế ” và Chương III ” Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ tiên tiến ” của Hiến pháp năm 1992 có tổng số 29 điều đãđược Hiến pháp năm 2013 gộp lại thành một chương là Chương III ” Kinh tế, xãhội, văn hóa truyền thống, giáo dục, khoa học, công nghệ tiên tiến và mội trường ” và chỉ còn 14 điềunhưng lao lý cô đọng, khái quát, mang tính nguyên tắc so với Hiến pháp năm1992. Theo đó, những nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế được biểu lộ rõ tại điều52 của bộ luật này. Điều 52. Hiến pháp 2013 : “ Nhà nước thiết kế xây dựng và hoàn thành xong thể chếkinh tế, điều tiết nên kinh tế trên cơ sở tôn trọng những quy luật thị trường ; thực hiệnphân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước, thôi thúc link vùng, bảo vệ tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân. ” Hiến pháp 2013 đã lao lý những chủ trương kinh tế – xã hội mang tínhnguyên tắc, khái quát, cô đọng bộc lộ sự kết nối ngặt nghèo, hòa giải giữa phát triểnkinh tế với những yếu tố xã hội, văn hóa truyền thống, giáo dục, khoa học, công nghệ tiên tiến và môitrường nhằm mục đích hướng đến sự tăng trưởng có đặc thù vững chắc hơn. 2.2. Các nguyên tắc quản lý Nhà nước về kinh tế trong Hiến pháp 2013 : Điều 52. Hiến pháp 2013 đã chỉ rõ những nguyên tắc cơ bản mà Nhà nước tasử dụng để quản lý nền kinh tế. Theo đó, có ba nguyên tắc cơ bản như sau : 2.2.1. Nguyên tắc Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng pháp lý dựa trêncơ sở tôn trọng những quy luật của nền kinh tế thị trường :  Thứ nhất, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp lý : Trước đây, trong chính sách tập trung chuyên sâu quan liêu bao cấp, nền kinh tế được đặtdưới sự chỉ huy bởi kế hoạch hoá tập trung chuyên sâu cao độ với những nguyên tắc kế hoạchhoá thống nhất, tập trung chuyên sâu dân chủ, tích hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địaphương và vùng chủ quyền lãnh thổ … Về cơ bản, đây là những nguyên tắc tương thích với cơ chếkinh tế thời trước. Với chính sách mới, hoạt động giải trí kinh tế diễn ra rất là phức tạp với sự phong phú củacác quan hệ kinh tế, những chủ thể, quyền lợi, những hình thức chiếm hữu. Nhà nước có nhiệmvụ bảo vệ cho nền kinh tế không thay đổi, tăng trưởng, có tính tổ chức triển khai cao và theo địnhhướng đã chọn. Không thể quản lý theo lối cũ bằng những giải pháp hành chính, mệnh lệnh mà phải thay đổi quản lý. Theo đó, pháp lý là công cụ đa phần và cóhiệu quả nhất để Nhà nước quản lý xã hội nói chung và quản lý nền kinh tế nóiriêng. Nhà nước phải kiến thiết xây dựng, hoàn thành xong một mạng lưới hệ thống pháp lý trong đó có hệthống pháp lý về kinh tế sao cho tương thích với nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, quản lý kinh tế bằng pháp lý là nguyên tắc cơ bản trong bối cảnhnền kinh tế thị trường xu thế xã hội chủ nghĩa. – Pháp luật là sự thể chế hoá đường lối, chủ trương, chủ trương của Đảng tronglĩnh vực kinh tế. Bằng pháp lý, Nhà nước xác lập kế hoạch tăng trưởng, mục tiêuphát triển kinh tế cũng như quy hoạch và cơ cấu tổ chức nền kinh tế. – Việc xác lập khuôn khổ pháp lý cho những hoạt động giải trí kinh tế trong nền kinhtế thị trường được xem như thể một điều kiện kèm theo tiên quyết bảo vệ cho thi trườnghoạt động có hiệu suất cao. Vì thiên nhiên và môi trường pháp lý tác động ảnh hưởng trực tiếp đến những quyếtđịnh kinh doanh thương mại của những chủ thể kinh tế-Bên cạnh đó, với những thuộc tính vốn có của nó, pháp lý bảo vệ xác lậpcác mối quan hệ kinh tế phức tạp, phát sinh trong nền kinh tế bảo vệ quản lý và vận hành cơchế để ngăn ngừa và giải quyết và xử lý những trường hợp vi phạm trong sản xuất kinh doanh thương mại. Trung tâm của pháp lý kinh tế là là bảo vệ những quyền lợi chính đáng của những chủ thểtrên thị trường, không được cho phép xâm phạm một cách tuỳ tiện quyền chiếm hữu. – Bước vào cơ chế thị trường, Nhà nước xây dựng những toà kinh tế, lập ra cáctoàn án kinh tế cũng như phát hành những vă bản pháp lý. Trong đó, vai trò của phápluật kinh tế biểu lộ ở những mặt sau : + Pháp luật kinh tế xác lập vị thế pháp lý những tổ chức triển khai và đơn vị chức năng kinh tế ; + Bằng pháp lý kinh tế, nhà nước kiểm soát và điều chỉnh những hành vi kinh doanh thương mại xácđịnh những hành vi kinh doanh thương mại hợp pháp, kinh doanh thương mại phạm pháp ; + Tạo ra những luật chơi một cách bình đẳng cho những chủ thể kinh doanh thương mại, pháthuy tính tích cực và hạn chế những mặt xấu đi của thị trường.  Như vậy, hoàn toàn có thể nói rằng : trong nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần theocơ chế thị trường, sự quản lý của Nhà nước bằng pháp lý trở nên đặc biệt quan trọng và có ýnghĩa quan trọng.  Thứ hai, Nhà nước quản lý nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng những quy luậtcủa nền kinh tế thị trường : Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tácđộng với nhau theo những quy luật cơ bản ( quy luật giá trị, quy luật cung và cầu, quyluật cạnh tranh đối đầu, quy luật lưu thông tiền tệ … ) nhằm mục đích xác lập một cách đúng đắn giácả và số lượng hành hoá, dịch vụ trên thị trường. Theo đó, nền kinh tế thị trường có những quy luật cơ bản : – Quy luật gía trị : Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. Ở đâu có sảnxuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự hoạt động giải trí của quy luật giá trị. Quy luật giátrị điều tiết việc sản xuất và lưu thông sản phẩm & hàng hóa trải qua sự dịch chuyển của cung và cầu bộc lộ qua Ngân sách chi tiêu trên thị trường. – Quy luật cung và cầu : Cung – cầu ảnh hưởng tác động lẫn nhau và ảnh hưởng tác động trực tiếp đến Ngân sách chi tiêu. Đây là sự tácđộng phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau. Quy luật cung – cầutác động khách quan và rất quan trọng. Nếu nhận thức được chúng thì tất cả chúng ta vậndụng để ảnh hưởng tác động đến hoạt động giải trí sản xuất kinh doanh thương mại theo khunh hướng có lợi choquá trình tái sản xuất xã hội.  Nhà nước hoàn toàn có thể vận dụng quy luật cung – cầu trải qua những chủ trương, cácbiện pháp kinh tế như : Ngân sách chi tiêu, doanh thu, tín dụng thanh toán, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổicơ cấu tiêu dùng. – Quy luật canh tranh : Cạnh tranh là sự ảnh hưởng tác động lẫn nhau giữa những nhóm người, giữa người mua vàngười bán hay giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Cạnh tranh như một tất yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Cạnh tranh có tácdụng san bằng những Chi tiêu lồi lõm để có Chi tiêu trung bình, giá trị thị trường và giácả sản xuất đều hình thành từ cạnh tranh đối đầu trong nội bộ ngành và giữa những ngành. – Quy luật lưu thông tiền tệ : Quy luật lưu thông tiền tệ là quy luật xác định lượng tiền cần cho lưu thông. Lượng tiền cần cho lưu thông chính bằng tỷ số giữa tổng giá cả hàng hoá với tốcđộ lưu thông tư bản. Nếu quy luật canh tranh, quy luật cung – cầu làm giá hàng hoávận động, san bằng thì quy luật lưu thông tiền tệ giữa mối liên hệ cân đối giữahàng và tiền. – Ngoài ra còn 1 số ít loại quy luật khác như : quy luật tỷ suất lợi nhuận cóxu hướng giảm, quy luật khủng hoảng kinh tế, quy luật tâm ý … cũng ảnhhưởng đến cơ chế thị trường.  Các quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường có công dụng to lớn trongviệc pháp luật số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường, định giá cả hàng hoá vàtốc độ lưu thông tiền tệ, điều tiết, lưu thông hàng hoá, kích thích nâng cấp cải tiến kỹ thuậthợp lý hoá sản xuất, tăng hiệu suất lao động, thôi thúc lực lượng sản xuất xã hộiphát + triển … Với việc Nhà nước tôn trọng những quy luật thị trường, mỗi cá nhânđược tạo điều kiện kèm theo để phát huy cao nhất sức phát minh sáng tạo và tự do triển khai những hoạtđộng sản xuất, kinh doanh thương mại, tự do cạnh tranh đối đầu, tự do trao đổi trong khuôn khổ củaluật pháp và dựa trên tín hiệu của thị trường, sự điều tiết của thị trườngTại hội nghị sơ kết 5 năm triển khai Nghị quyết 21 Trung ương 6 khóa X vềtiếp tục hoàn thành xong thể chế kinh tế thị trường, xu thế xã hội chủ nghĩa, Thủtướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chắc chắn : “ Kinh tế thị trường là tân tiến của xã hộiloài người, là quy luật tất yếu, khách quan, Nước Ta phải tôn trọng và thực hiệntheo những quy luật của thị trường ”. Đảng cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn nhận thức, tôntrọng và vận dụng rất đầy đủ những quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường vào việchoạch định những chủ trương giá thành, kế hoạch hoá nền Kinh tế quốc dân, thực hiệnhoạch toán kinh tế … sao cho tương thích với điều kiện kèm theo tăng trưởng của Nước Ta, bảođảm xu thế xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. 2.2.2. Nguyên tắc thực thi phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lýNhà nước về kinh tế : Có thể nói, nguyên tắc phân công, phân cấp, phân quyền là một trong nhữngnội dung cơ bản của tổ chức triển khai nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về kinh tếnói riêng. Ở Nước Ta, yếu tố phân công, phân cấp, phân quyền đang được chú ývới tính cách là một trách nhiệm chính trị quan trọng của quy trình cải cách nền hànhchính nhà nước. Để đạt được những hiệu suất cao như mong ước, cần phải nắm vữngnội dung cũng như vận dụng một cách linh động những nguyên tắc này trong quátrình quản lý Nhà nước về kinh tế.  Phân công : phân công ở đây là phân công nghĩa vụ và trách nhiệm. + Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, trên ý thức thay đổi tư duy vềkinh tế, nhà nước giao quyền tự chủ động sản xuất kinh doanh thương mại, tự chịu tráchnhiệm về việc bảo toàn và tăng trưởng vốn cũng như hàng loạt hoạt động giải trí của mình, làm tròn những nghĩa vụ và trách nhiệm so với nhà nước. Nhà nước nói chung, những cơ quan Nhànước nói riêng chỉ quản lý hành chính về kinh tế bằng cách xu thế để nềnkinh tế tăng trưởng đúng hướng, tạo môi trường tự nhiên thuận tiện cho sự tăng trưởng kinh tế … + Trong việc phân công nghĩa vụ và trách nhiệm giữa những ngành, những cấp cũng như tráchnhiệm của tập thể và cá thể cần phải xác lập rõ ràng để không chồng chéo, vôhiệu hoá lẫn nhau. Trách nhiệm của TW và nghĩa vụ và trách nhiệm của từng địaphương cũng như nghĩa vụ và trách nhiệm của những cơ quan quản lý tổng hợp ( cơ quan chính phủ, uỷban nhân dân những cấp … ) và những cơ quan quản lý ngành ( những bộ, sở, phòng … ) cũngphải được phân định một cách rõ ràng.  Phân cấp : phân cấp ở đây là phân cấp quản lý. + Phân cấp quản lý được hiểu là chuyển giao trách nhiệm, quyền hạn của cơquan quản lý nhà nước cấp trên so với cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiệnthường xuyên, không thay đổi, lâu bền hơn trên cơ sở pháp lý … Thực chất của phân cấp quảnlý về kinh tế xác lập là sự phân loại thẩm quyền theo những cấp hành chính phù hợpvới nhu yếu của tình hình nền kinh tế. Tuy nhiên có quan điểm cho rằng, phân cấp quảnlý được hiểu là “ sự phân loại những đơn vị chức năng hành chính-lãnh thổ và phân công thẩmquyền hài hòa và hợp lý giữa những cấp chính quyền sở tại tương ứng cho tương thích với công dụng, trách nhiệm và đặc thù của mỗi cấp để nhằm mục đích triển khai hiệu suất cao hơn hoạt động giải trí quảnlý nhà nước về kinh tế. + Dù được gọi tên khác nhau, tuy nhiên ở đâu quyền lực tối cao nhà nước cũng cầnđược phân loại một cách hài hòa và hợp lý giữa chính quyền sở tại TW và chính quyền sở tại địaphương. Từ gần ba thập kỷ qua, đặc biệt quan trọng là từ hơn 05 năm trở lại đây, Nước Ta đãthực hiện phân cấp quản lý kinh tế can đảm và mạnh mẽ cho chính quyền sở tại địa phương. + Như vậy, tương quan đến khái niệm phân cấp có hai nội dung cần lưu ýlà xác lập thẩm quyền của mỗi cấp hành chính trong những văn bản quy phạm phápluật và chuyển giao thẩm quyền của cấp trên cho cấp dưới bằng những quyết định hành động cụthể nhằm mục đích tiềm năng nâng cao hiệu lực hiện hành, hiệu suất cao quản lý nhà nước.  Phân cấp quản lý nhà nước là một nội dung của cải cách hành chính và rộnghơn là thay đổi tổ chức triển khai và hoạt động giải trí của Nhà nước. Nó phải được triển khai trên cơsở những xu thế và quan điểm chỉ huy xuyên suốt hai quy trình nói trên, trongđó phải kể đến những nguyên tắc : toàn bộ quyền lực tối cao nhà nước thuộc về nhân dân ; bảođảm sự chỉ huy của Đảng ; tập trung chuyên sâu dân chủ ; pháp chế …  Phân quyền : phân quyền ở đây được hiểu là phân loại thẩm quyền theolãnh thổ. ”. Hay nói cách khác nó bộc lộ việc “ pháp lý lao lý vị trí pháp lýcủa những cấp chính quyền sở tại địa phương ” + Phân quyền theo cấp chủ quyền lãnh thổ là nguyên tắc tổ chức triển khai triển khai quyềnlực, theo đó, nhà nước TW chuyển giao ( trải qua hiến pháp và luật ) chocác hội đồng dân biểu địa phương những quyền hạn độc lập và toàn vẹn ( bao gồmcả phương tiện đi lại vật chất, kinh tế tài chính, nhân sự … ) trong khoanh vùng phạm vi đó nó triển khai mộtcách dữ thế chủ động, độc lập và tự chịu nghĩa vụ và trách nhiệm. + Phân chia quyền lực tối cao trong quản lý kinh tế giữa chính quyền sở tại trungương và địa phương là cũng một trong số những nội dung quan trọng, tác độngđáng kể tới sự hình thành và thực thi những chủ trương điều tiết kinh tế. Với cách tiếpcận như vậy, “ Phân quyền theo chiều dọc cũng bộc lộ sự phân cấp giữa trungương và địa phương, giữa cơ quan nhà nước cấp trên với cơ quan nhà nước cấpdưới. Mặc dù khái niệm phân quyền địa phương còn mới mẻ và lạ mắt nhưng từ quản lý kinhtế lan rộng ra những nghành khác, trên thực tế Nước Ta đã triển khai phân cấp quảnlý can đảm và mạnh mẽ cho chính quyền sở tại địa phương, từ quản lý đất đai, quy hoạch, cấp phépđầu tư, quyết định hành động những dự án Bất Động Sản góp vốn đầu tư công, cho đến thẩm quyền địa phương trongphân bổ và sử dụng ngân sách, trong nghành kinh tế. Từ những năm 2005 cho đếnnay. nhà nước đã giao ngày càng nhiều thực quyền hơn cho những địa phương. Điềunày một mặt giúp cải cách nền hành chính vương quốc, thôi thúc những địa phương đưara những chủ trương khuyến khích tăng trưởng kinh tế mang tính cạnh tranh đối đầu giữa cáckhu vực trong toàn nước, mặt khác cũng từ từ thể hiện những rủi ro tiềm ẩn phân tán vềthể chế, ví dụ phân tán năng lượng phát hành và thực thi những chủ trương mang tínhquốc gia, rủi ro tiềm ẩn nền kinh tế quốc dân bị phân tán bởi tính cát cứ của những nền kinhtế địa phương  Có thể nói, việc thực thi phân công, phân cấp, phân quyền để nâng caohiệu lực, hiệu suất cao và năng lượng quản lý của nhà nước trong kinh tế cũng được xemlà yếu tố rất là thiết yếu. Vì vậy, việc quản lý kinh tế của Nhà nước đang hướngvào việc xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và doanhnghiệp, nhằm mục đích tạo thiên nhiên và môi trường cạnh tranh đối đầu bình đẳng giữa những thành phần kinh tế. 2.2.3. Nguyên tắc Nhà nước triển khai thôi thúc link kinh tế vùng, bảođảm tính thống nhất của nền kinh tế Quốc dân :  Liên kết kinh tế vùng : là sự link giữa những ngành kinh tế mang tính hợptác, bổ trợ lẫn nhau giữa những địa phương, những vùng có nét tương đương về vị tríđịa lý, điều kiện kèm theo tự nhiên, phân bổ dân cư, nhằm mục đích mục tiêu tăng cường sức hút thúcđẩy tăng trưởng của địa phương trong vùng. Hiện nay Nước Ta có bảy vùng kinh tế quan trọng, đó là : trung du và miền núiBắc Bộ, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ, TâyNguyên, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh những sự tương đương nhất định, sự độc lạ giữa những vùng tự nócũng hàm nghĩa là mỗi vùng đều có những thế mạnh và thế yếu đặc trưng, tạo ranhững lợi thế tuyệt đối và tương đối nhất định trong sự phân công lao động xã hội. Liên kết vùng không chỉ là bù đắp những khoảng trống, thiếu vắng nguồn lực giữacác vùng mà còn ngày càng tăng tính quyền lợi nhờ hiệu suất cao kinh tế theo quy mô. Vì thế, một cách tự nhiên, để tăng trưởng sản xuất, đặc biệt quan trọng là trong kinh tế thị trường, cácvùng tất yếu có nhu yếu link ( cả nội vùng lẫn liên vùng ).  Các điều tra và nghiên cứu của những nhà học giả vùng về link vùng đã nêu lên cácnguyên tắc link vùng cơ bản là : – Nguyên tắc thứ nhất : Phân bố chủ quyền lãnh thổ những ngành và phân bổ vùng phải dựatrên những lợi thế so sánh mà hoàn toàn có thể làm cho tổng chi phí sản xuất và phân phối sảnphẩm đến thị trường thấp nhất. – Nguyên tắc thứ hai là sự song hành sử dụng nguyên vật liệu cho nhiều nơi sẽlàmgiảm hiệu suất sử dụng nguồn lợi và làm mất đi những lực link vùng. Do vậy, nguyên tắc tối ưu hóa sử dụng nguồn lợi được nêu lên như thể chỉ tiêu quan trọngcần được chú ý quan tâm khi phân bổ chủ quyền lãnh thổ tăng trưởng. – Nguyên tắc thứ ba là hiệu suất cao quy mô. Các ngân sách trên một đơn vị chức năng sảnphẩm sẽ giảm khi sản lượng ngày càng tăng. Việc lựa chọn quy mô hài hòa và hợp lý phải dựa trênsự nghiên cứu và phân tích cụ thể cầu thị trường trong và ngoài nước, nghiên cứu và phân tích những mối liên kếtgiữa những nhà máy sản xuất cùng loại mẫu sản phẩm.  Có thể nói, đây được xem là giải pháp tiếp cận hiệu suất cao và là chìakhoá nhằm mục đích bảo vệ sự phân chia khoảng trống tối ưu cho những hoạt động giải trí kinh tế – xãhội trong vùng, kêu gọi nguồn lực với sự phối hợp ngặt nghèo của những bên liên quanvà bảo vệ sự tăng trưởng đồng đều giữa những vùng chủ quyền lãnh thổ. Bên cạnh đó, link vùng sẽ giúp giảm áp lực đè nén về hạ tầng, nâng caochất lượng dịch vụ đô thị và năng lượng cạnh tranh đối đầu của toàn vùng. Cơ chế điều phốiliên ngành vùng góp thêm phần xử lý những thử thách về biến hóa khí hậu và thúc đẩyphát triển kinh tế bền vững và kiên cố. Quá trình link ( trải qua thương mại quốc tế ) sẽchuyển những hoạt động giải trí kém tranh cạnh sang những vùng có cạnh tranh đối đầu hơn là hoàntoàn tương thích so với sự thịnh vượng của những vùng. Tạo được sự link vùng vữngchắc sẽ nâng cao hiệu suất cao góp vốn đầu tư, tránh thực trạng góp vốn đầu tư dàn trãi, tiêu tốn lãng phí và sựcạnh tranh không lành mạnh giữa những vùng kinh tế. Thời gian qua, Nhà nước ta đã tích cực thực thi nhiều hoạt động giải trí theo chứcnăng, trách nhiệm được giao nhằm mục đích thôi thúc tăng trưởng kinh tế vùng ; làm đầu mối vàđiều phối nhiều hoạt động giải trí để những địa phương, những cấp, những ngành tăng cường liênkết trong tăng trưởng những mẫu sản phẩm nòng cốt, từ đó nhằm mục đích bảo vệ tính thống nhất củanền kinh tế quốc dân. 3. Liên hệ thực tiễn ở nước ta lúc bấy giờ : Sáng 14/7, tại trụ sở nhà nước, Ban Chỉ đạo sơ kết 5 năm triển khai Nghịquyết 21 Trung ương 6 khóa X về liên tục triển khai xong thể chế kinh tế thị trường, xu thế xã hội chủ nghĩa do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì hội nghị, cácthành viên Ban chỉ huy đã nhìn nhận cao nhiều điểm tích cực trong quy trình đổimới kinh tế của nước ta. Theo đó : – Sau hơn 5 năm triển khai, nhận thức về nền kinh tế thị trường xu thế xãhội chủ nghĩa đã được nâng lên ; mạng lưới hệ thống pháp lý, chính sách chủ trương liên quancũng đã được phát hành khá rất đầy đủ. Đặc biệt là việc trải qua Hiến pháp 2013, Luật Đất đai ( Sửa đổi ), phát hành và sửa đổi 44 Luật và Pháp lệnh tương quan, cũngnhư hơn 147 Nghị định, 16 Nghị quyết, 81 Quyết định và một số lượng lớn cácThông tư, văn bản hướng dẫn. Góp phần từng bước kiểm soát và điều chỉnh vai trò của Nhànước trong nền kinh tế, phát huy dân chủ trong đời sống kinh tế. – Cùng với đó, nền kinh tế Nước Ta đang hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộngvà phong phú hơn theo nguyên tắc thương mại thị trường tân tiến. Thị trường xuấtkhẩu được lan rộng ra đến 230 vương quốc và vùng chủ quyền lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu giaiđoạn 2011 – 2013 tăng trung bình 22,58 %. Chỉ số cạnh tranh đối đầu toàn thế giới của nền kinhtế cũng được cải tổ. Các yếu tố nền tảng cơ bản của kinh tế thị trường dần đượchình thành và được nhiều vương quốc công nhận. – Về cơ bản, qua hơn 20 năm thay đổi, Nước Ta đã thiết lập được chính sách, chủ trương tương hỗ thị trường, xử lý những tác động ảnh hưởng xấu đi của kinh tế thịtrường và bảo vệ tăng trưởng vững chắc, như bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệquyền sở hữu trí tuệ, triển khai những chủ trương bảo hiểm xã hội, phân phối thunhập, xóa đói giảm nghèo, bình đẳng giới, công minh xã hội, tăng trưởng conngười … – Với tư cách cơ quan hành chính cao nhất, nhà nước Nước Ta đã thể hiệnngày càng rõ tính dữ thế chủ động, độc lập tương đối trong việc thực thi quyền hành pháp. nhà nước, những Bộ và cơ quan hành chính địa phương đã có sự thay đổi quan trọngvề công dụng, nghĩa vụ và trách nhiệm cho tương thích với khuynh hướng cải cách thị trường và hộinhập quốc tế. Điều này được biểu lộ đơn cử như sau : + Một là, vai trò, tính năng quản lý vĩ mô của nhà nước và những cơ quanthuộc nhà nước ngày càng được phân định rõ, tương thích với tiến trình cải cách kinhtế thị trường và hội nhập quốc tế. + Hai là, tách bạch quản lý hành chính, quản lý nhà nước với hoạt độngquản lý kinh doanh thương mại của những doanh nghiệp. + Ba là, nhà nước và những cơ quan hành chính tập trung chuyên sâu thực thi chức năngquản lý nhà nước, chuyển từ việc quản lý trực tiếp những hoạt động giải trí sản xuất, kinhdoanh sang quản lý gián tiếp bằng pháp lý và những công cụ điều tiết vĩ mô. + Bốn là, cơ cấu tổ chức cỗ máy nhà nước được sắp xếp lại gọn hơn. + Năm là, cải cách mạng lưới hệ thống cơ quan tư pháp cho tương thích hơn với tình hìnhđổi mới của đất nướcTuy nhiên, thời hạn qua, Hoạt động quản lý kinh tế cũng đã thể hiện 1 số ít hạn chếnhất định : – Nhận thức về phạm trù, nội hàm của nền kinh tế thị trường xu thế xã hộichủ nghĩa, nhất là thành tố xu thế xã hội chủ nghĩa còn chưa đủ rõ, còn nhiềuý kiến khác nhau về vai trò chủ dạo của nền kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhànước và của kinh tế tập thể. – Hệ thống pháp lý, chính sách, chủ trương vẫn chưa hoàn hảo và đồng điệu, chấtlượng chưa cao. – Kết quả tiến hành thực thi thể chế kinh tế thị trường còn nhiều sống sót, quyền tựdo kinh doanh thương mại chưa được tôn trọng khá đầy đủ, thiên nhiên và môi trường kinh doanh thương mại vẫn chưa đảmbảo cạnh tranh đối đầu công minh, lành mạnh, Ngân sách chi tiêu chưa thực sự tuân thủ và vận hànhtheo nguyên tắc và quy luật kinh tế thị trường. – Bên cạnh đó, ở Nước Ta thực tế đang triển khai phân cấp quản lý, phânquyền và tự quản địa phương ở những mức độ khác nhau, mặc dầu khái niệm phân cấpquản lý được dùng khá phổ cập, còn khái niệm “ phân quyền ” rất ít được sử dụng. – Chưa phân định được vai trò của những thành phần kinh tế nhất là vai trò củadoanh nghiệp nhà nước và giải pháp kêu gọi nguồn lực từ kinh tế tư nhân, tăngcường mối link, quan hệ sản xuất giữa những thành phần kinh tế. Thực tiễn liênkết vùng thời hạn qua còn cho thấy nhiều mặt hạn chế, đơn cử là chưa đi vào chiềusâu. Sự phối hợp giữa những vùng chưa ngặt nghèo ; thiếu chính sách, nhiều vừng chưa xácđịnh được ngành kinh tế mũi nhọn, dẫn đến góp vốn đầu tư đôi lúc chưa thật sự hiệu suất cao, khoảng trống kinh tế vùng bị chia cắtNhận thức được những điểm tân tiến và hạn chế đó, Đảng chủ trương bên cạnhđổi mới về tổ chức triển khai, củng cố và kiện toàn những cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước, khẩn trương củng cố những toà kinh tế, toà lao động, toà dân sự đồng thời thành lậpthêm những toàn án khác, còn cần phải liên tục thay đổi tư duy theo hướng xây dựngchiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tương thích với từng tiến trình phát triểncủa quốc gia và xu thế tăng trưởng chung của quốc tế ; chú trọng tăng trưởng nôngnghiệp, nông dân, nông thôn ; tăng trưởng mạnh khoa học, công nghệ tiên tiến, vận dụng kịpthời những văn minh khoa học – kỹ thuật cao vào sản xuất, kinh doanh thương mại., Tăng cường sựphân công, hợp tác giữa những ngành, những vùng, những thành phần kinh tế và những cơhội từ hội nhập để đẩy nhanh vận tốc công nghiệp hóa, văn minh hóa quốc gia, tạonên sự thống nhất, ngặt nghèo cho nền kinh tế quốc dân. Từ những nội dung trình diễn trên, hoàn toàn có thể nói, thực tiễn và phát minh sáng tạo thay đổi thểchế kinh tế Nước Ta là thành quả của cả quy trình tiếp thu, vận dụng phát minh sáng tạo chủnghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình lịch sử dân tộc – đơn cử của đấtnước trên cơ sở học tập kinh nghiệm tay nghề thay đổi, cải cách của những nước một cách cóchọn lọc. Đây cũng là một trong những thành tựu điển hình nổi bật nhất của sự nghiệp đổimới của Nước Ta. Hiện nay, Nước Ta vẫn đang liên tục thay đổi và hoàn thành xong thể chế kinh tế thịtrường xu thế xã hội chủ nghĩa để nhanh gọn kiến thiết xây dựng và tăng trưởng có hiệuquả nền kinh tế thị trường khuynh hướng xã hội chủ nghĩa, đưa ra những nguyên tắchợp lý để quản lý nền kinh tế một cách tương thích hơn, Danh mục tài liệu tìm hiểu thêm : 1. Hiến pháp Nước Ta 2013.2. GS.TS.Thái Vĩnh Thắng, TS.Vũ Hồng Anh ( chủ biên ). Giáotrình Luật Hiến pháp Nước Ta. Trường ĐH Luật TP. Hà Nội. Nhà xuấtbản công an nhân dân. Hà Nội-2013. 3. GS.Nguyễn Đăng Dung, TS. Đặng Minh Tuấn. Giáo trìnhluật Hiến pháp Việt Nam-Trường ĐH vương quốc. Nhà xuất bản Đạihọc vương quốc. Hà Nội-20134. Bộ giáo dục và đào tạo và giảng dạy. Giáo trình những nguyên tắc cơ bảncủa chủ nghĩa Mác-lennin. Nhà xuất bản chính trị quốc gia-sự thật. HàNội-2013. 5. PGS. TS. Nguyễn Minh Phương. THỰC TRẠNG PHÂNCẤP, PHÂN QUYỀN VÀ VẤN ĐỀ TỰ QUẢN ĐỊA PHƯƠNG TẠIVIỆT NAM.Viện Khoa học tổ chức triển khai nhà nước – Bộ Nội vụ. 6. PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa. PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀNƯỚC TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰCTRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.ĐHKT TP HCM. 7.http : / / luanvan.co/luan-van/quan-ly-nha-nuoc-ve-kinh-te-la-gi-vi-sao-noi-quan-ly-nha-nuoc-vua-la-mot-khoa-hoc-vua-la-nghe-thuatnghe-nghiep-de-quan-7827/8. http://www.baodaknong.org.vn/hien-phap-nuoc-chxhcn-viet-nam-nam-2013/hoan-thien-the-che-kinh-te-de-xay-dung-nen-kinh-te-thitruong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-33062.html9. http://vov.vn/kinh-te/thu-tuong-yeu-cau-lam-ro-vai-tro-cua-nha-nuoc-trong-kinh-te-thi-truong-338925.vov10.http://luatminhkhue.vn/chinh-sach/thuc-tien-va-sang-tao-trong-doi-moi-the-che-kinh-te-o-viet-nam.aspxMục lụcI. Đặt yếu tố : …………………………………………………………………………………………. 1II. Nội dung : …………………………………………………………………………………………. 21. KHÁI NIỆM CƠ BẢN : ……………………………………………………………………. 21.1. Khái niệm Quản lý Nhà nước về kinh tế : ……………………………………… 21.2. Khái niệm nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế : ……………………….. 32. CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ : …………….. 32.1. Lịch sử những chế định về nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tếqua những bản hiến pháp : ……………………………………………………………………………. 32.2. Các nguyên tắc quản lý Nhà nước về kinh tế trong Hiến pháp 2013 :. . 63. Liên hệ thực tiễn ở nước ta lúc bấy giờ : ……………………………………………….. 15III. Kết luận : giáo trình ………………………………………………………………………… 18D anh mục tài liệu tìm hiểu thêm : ……………………………………………………………….. 18

Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn