Mộ Trạch – Wikipedia tiếng Việt
Làng Mộ Trạch là một ngôi làng cổ, nay thuộc xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Làng Mộ Trạch nổi danh trong lịch sử Việt Nam là ngôi làng khoa bảng “độc nhất vô nhị” ở Việt Nam, với số lượng Tiến sĩ Nho học nhiều nhất cả nước, ghi nhận được 36 người đỗ Tiến sĩ Nho học, trong đó có 1 Trạng nguyên (Lê Nại) và 11 Hoàng giáp. Trong danh sách đại khoa, họ Vũ chiếm đa số tuyệt đối với 29 vị. Trong khi đó những vị đại khoa không phải họ Vũ còn lại đều có mẹ là họ Vũ.
Làng Mộ Trạch là một trong bốn làng của xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Thành Phố Hải Dương. Làng nằm cách TP.HN khoảng chừng 50 km trên quốc lộ 5 đường Thành Phố Hà Nội – TP. Hải Phòng, cách thành phố Thành Phố Hải Dương về phía Tây Nam khoảng chừng 30 km. Làng có nhiều dòng họ khác nhau : họ Vũ, họ Lê, họ Nhữ, họ Nguyễn, họ Tạ, họ Cao, họ Đương, họ Trương … Trong đó, họ Vũ chiếm tỷ suất cao nhất 87,3 % .
Theo truyền thuyết, làng được Vũ Hồn lập ra với tên ban đầu do ông đặt là Khả Mộ trang (nghĩa là ấp đáng mến) thuộc huyện Đường An (ông đặt tên huyện như vậy với mong muốn sự bình yên mãi mãi của nhà Đường). Vào khoảng thế kỷ thứ IX, cả khu vực quanh thôn đều gọi là làng Chằm (nghĩa là một vùng đất trũng). Làng này vốn có tên là làng Chằm Thượng, hai làng bên là Chằm Hạ và Chằm Trung (sau gọi là Nhuận Đông, Nhuận Tây, hay còn gọi là Hạ Trong, Hạ Ngoài).
Bạn đang đọc: Mộ Trạch – Wikipedia tiếng Việt
Truyền thuyết kể lại rằng Vũ Hồn theo ý niệm của tử vi & phong thủy Trung Quốc cho nơi này là vùng có tử vi & phong thủy tốt, giữ làng này làm nguyên quán thì đời đời sẽ tiến phát về đường khoa bảng. Dưới mắt tử vi & phong thủy, Vũ Hồn cho rằng cả vùng Thành Phố Hải Dương là một đại cuộc, huyện Đường An là huyệt trường và làng Chằm Thượng là huyệt kết. Vì vậy ông quyết định hành động cắm đất lập trại và đặt tên làng là Khả Mộ. Nghĩa là vùng đất khi đó còn cằn cỗi nghèo nàn nhưng hoàn toàn có thể sau này sẽ trở nên phong phú hơn và sẽ được ngưỡng mộ. Mãi đến sau này, vào khoảng chừng triều nhà Trần ( 1226 – 1400 ) mới đổi tên là Mộ Trạch, nghĩa là vùng đất được ngưỡng mộ .
Truyền thống khoa bảng[sửa|sửa mã nguồn]
Tương truyền, sau khi lập làng, Vũ Hồn mở lớp dạy học, kiến thiết xây dựng đức tính hiếu học cho những thế hệ con cháu, từ đó mở ra truyền thống lịch sử hiếu học cho làng .
Truyền thống khoa bảng của làng Mộ Trạch
Truyền thống khoa bảng của làng Mộ Trạch được cho là khởi đầu bởi 2 anh em Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi (còn được chép là Nông hoặc Minh Nông). Cả hai đều là con của Vũ Nạp, theo cổ phả “Mộ Trạch Vũ tộc Thế hệ sự tích” do các Nho gia Vũ Phương Lan, Vũ Tông Hải và Vũ Thế Nho viết năm 1677-1679, thì: “Ông (Nạp) từ lúc nhỏ theo học nhà Nho, hiểu biết rộng cả các kinh điển đạo Thiền [tức Phật học]. Ông (Nạp) lấy đạo đức dạy con theo đường nghĩa lý. Hai con ông nối tiếp nhau thi đậu.”[1] Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “”Nghiêu Tá (người Hồng Châu) với em là Nông đỗ cùng một khoa hồi Thượng hoàng còn ở ngôi vua (chỉ Trần Anh Tông)”.[2] Theo sách “Vũ tộc khoa hoạn phả ký” do Vũ Bật Hài thì Vũ Nghiêu Tá “là anh của Vũ Minh Nông. Ông là tổ khai khoa của họ Vũ làng Mộ Trạch” và về Vũ Minh Nông “Ông là em Vũ Nghiêu Tá, Hai anh em cùng thi đỗ thời Trần Minh Tông”.[3] Theo bia văn chỉ “Lịch đại tiên hiền bi” dựng năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) của xã Hoạch Trạch, huyện Đường An (nay là xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương thì cả Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi đều là “người làng Mộ Trạch. Đỗ Thái học sĩ khoa Giáp Thìn”. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu hiện đại thì vẫn chưa thể xác định chính xác được Vũ Nghiêu Tá và Vũ Hán Bi đỗ khoa thi nào.[4] Vũ Nghiêu Tá về sau làm đến chức quan Nhập nội hành khiển môn hạ hữu ti lang trung thời Trần Minh Tông.[5]
Một trường hợp khác là Lê Cảnh Tuân cũng đỗ Thái học sinh. Sách Đại Nam nhất thống chí chép về Lê Cảnh Tuân “người huyện Đường An… Lúc trẻ có chí khí, đỗ Thái học sinh triều Trần”.[6] Theo Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và sách Từ điển bách khoa Việt Nam, Lê Cảnh Tuân đỗ Thái học sinh năm 1381.[7] Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Nguyễn Đăng Na thì cho rằng ông thi đỗ Thái học sinh vào đời nhà Hồ.[8]
Truyền thống khoa bảng của làng liên tục với Vũ Đức Lâm, đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân vào năm 1448 .
Vào thời điểm sau đó, làng Mộ Trạch đã trở nên đông đúc và đã phát tích khoa bảng rực rỡ, trong khoảng thời gian của triều Lê (1428-1789) thì làng Mộ Trạch đã có đến 36 vị đỗ tiến sĩ[9], mấy chục vị khác đỗ hương cống, sinh đồ, tú tài; nhiều vị đảm đương các chức vị cao trong triều đình đương thời. Có gia đình mấy anh em cùng đỗ đại khoa; có chi họ, như chi họ Vũ Khắc đã đời nối đời đỗ đạt[cần dẫn nguồn]. Từ đó, tên làng Mộ Trạch đã tồn tại suốt gần tám trăm năm, cho đến ngày nay. Làng được vua Tự Đức ban tặng lời vàng: “Mộ Trạch nhất gia bán thiên hạ” (Mộ Trạch tài năng bằng nửa thiên hạ).
Một số nhánh họ Vũ ở Mộ Trạch di cư về nơi khác đều có danh tiếng về sự đậu đạt mang lại sự vẻ vang cho vùng quê đó.
Dưới đây là danh sách 36 vị đỗ đại khoa của làng Mộ Trạch, được xác định bởi nhiều tài liệu và bia văn lịch sử. Trong danh sách này, họ Vũ chiếm đa số tuyệt đối với 9 hoàng giáp và 20 tiến sĩ. Trong khi đó họ Lê có 1 trạng nguyên, 2 hoàng giáp và 1 tiến sĩ.[10] Những vị đại khoa không thuộc họ Vũ đều có mẹ là họ Vũ. Làng Mộ Trạch được người xưa gọi là “Tiến sĩ sào” (進士巢) (sào có nghĩa là tổ chim, ý nói: làng Mộ Trạch như một tổ chim ủ trứng ấp, nở ra nhiều người học giỏi, đạt được học vị cao quý)
Làng Mộ Trạch còn là quê hương của các danh sĩ nổi tiếng như:
- Lê Thiếu Dĩnh, con Thái học sinh Lê Cảnh Tuân, tác giả Tiết Trai thi tập
- Vũ Huy Tấn, con Tiến sĩ Vũ Huy Đỉnh, đỗ Hương cống (Cử nhân) năm Mậu Tý 1768.
Mộ Trạch là nơi xuất thuân của 5 trạng gồm : Trạng chữ Lê Nại, Trạng toán Vũ Hữu, Trạng cờ Vũ Huyến, Trạng vật Vũ Phong và Trạng chạy Vũ Cương Trực .
Làng Xuân Lan
Thủy tổ Vũ Hồn ( 武浑 )
Source: https://evbn.org
Category: Lễ Hội