Văn hóa Hòa Bình – Wikipedia tiếng Việt

Mô hình minh họa dân cư Văn hóa Hòa Bình .

Văn hóa Hòa Bình được giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30 tháng 1 năm 1932, do đề xuất của Madeleine Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua. Khởi thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội được ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội[1] để tạo ra những dụng cụ từ thời kỳ đá cũ đến thời kỳ đá mới. Qua thời gian, tất nhiên cụm từ này đã được đề nghị mang những tên khác nhau và có những ý nghĩa cũng khác nhau. Nhưng thời gian gần đây, hoạt động của các nhà khảo cổ học trong suốt từ năm 1975 lại đây đã cho thấy một hướng mới về quan niệm khác về thời đại cũng như không gian của Văn hóa Hòa Bình.Đây là 1 nền văn hoá đã khởi nguồn cho văn minh người Việt mà lan truyền và ảnh hưởng lên xứ phía Bắc.

Cơ sở tổng quát[sửa|sửa mã nguồn]

Văn hóa Hòa Bình [ 2 ] thuộc thời đại đồ đá cũ sang thời đại đồ đá mới ( cách ngày này 15.000 năm, lê dài đến 2000 năm trước Công Nguyên ), trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn thuộc Bắc Bộ Nước Ta, và với khoảng trống to lớn, tiêu biểu vượt trội cho cả phía xứ vùng Khu vực Đông Nam Á và Nam Trung Quốc .

Dựa vào các di chỉ tìm thấy và niên đại của chúng, các nhà khảo cổ chia Văn hóa Hòa Bình thành ba thời kỳ nối tiếp nhau:[3]

  • Hòa Bình sớm, hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là Di chỉ Thẩm Khương (32.100 ± 150 trước Công Nguyên), Mái Đá Điều, Mái Đá Ngườm (23.100 ± 300 TCN).
  • Hòa Bình giữa, hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi Di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 TCN), Làng Vành (16.470 ± 80 TCN).
  • Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn – 1541/I).

Vùng phân bổ của Văn hóa Hòa Bình .

Lịch sử tò mò[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1923, bà Madeleine Colani cùng những người hướng dẫn địa phương mày mò ra một số lượng rất lớn di cốt người và dụng cụ bằng đá, trong một hang đá vôi thuộc tỉnh Hòa Bình. Trong mấy năm liền sau đó, bà liên tục tò mò thêm mười hai hang động trong vùng Hòa Bình, khai thác được một số lượng di vật hiếm thấy. Sau khi nghiên cứu và phân tích chúng và so sánh liên hệ với đồ đá tìm thấy trong vùng núi Bắc Sơn, bà đề xuất xem toàn thể những di vật đặc biệt quan trọng bằng đá cuội, với đặc thù là chỉ được đẽo ở lưỡi hay rìa, là của cùng một nền văn hóa, Văn hóa Hòa Bình hay Hoabinhien. [ 4 ]

Thời gian kể từ khi phát hiện các dụng cụ bằng đá và bằng xương tại di chỉ thuộc tỉnh Hòa Bình, các nhà khảo cổ còn phát hiện ở rất nhiều địa điểm khắp các quốc gia trong vùng như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia, Malaysia, Sumatra… cũng có những di tích có các công cụ cùng một ký thuật chế tác. Người ta còn tìm thấy các dụng cụ bằng đá cùng một văn hóa sinh sống ở những nơi xa hơn như Nhật Bản, Đài Loan, Australia… Tại hội nghị “60 năm sau Hoabinhian” tổ chức tại Hà Nội, các nhà khảo cổ học thống nhất quan điểm về thuật ngữ Văn hóa Hòa Bình được xem như một khái niệm để chỉ một nền văn hóa có cùng một kỹ thuật chế tác mà không xem như là nguồn gốc.

Các di vật Văn hóa Hòa Bình[sửa|sửa mã nguồn]

Tại Việt Nam, hiện có trên 130 địa điểm thuộc nền Văn hóa Hòa Bình, trong đó trên một nửa do các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện trong khoảng thời gian từ 1966-1980. Riêng tỉnh Hòa Bình có 72 di chỉ đã được phát hiện và nghiên cứu.[5]

Vào thời kỳ đầu thế kỷ 20, những nhà khảo cổ học thực sự chưa mày mò đủ số lượng thiết yếu và nhiều khu vực chưa được tò mò, dựa trên những dụng cụ thô sơ chỉ đẽo một mặt nên việc nhìn nhận những di vật này chưa được đúng chuẩn với tầm quan trọng của Văn hóa Hòa Bình. Nhưng đến thập niên 1960 những mày mò khảo cổ gây sự chú ý quan tâm những nhà khảo cổ học quốc tế tại Vương Quốc của nụ cười, Malaysia, Indonesia, Philippines, những hòn đảo nam Thái Bình Dương khiến những nhà tiền sử học đặt lại yếu tố người tiền sử tại Khu vực Đông Nam Á. Trước hết, nhà khảo cổ người Úc Gorman tìm thấy tại hang Ma ( Spirit Cave ) ở Đất nước xinh đẹp Thái Lan những tín hiệu cho thấy người thuộc văn hóa Hòa Bình đã khởi đầu trồng trọt bầu bí sớm hơn bất kỳ nơi nào khác trên quốc tế, từ cỡ hơn 11 ngàn năm trước .Những năm gần đây, những nhà khảo cổ học đã có những tò mò mang tính cải tiến vượt bậc khi ý niệm mới về sự tiện lợi trong vùng Đông Nam Á nhiệt đới cổ xưa không cần trọn vẹn dựa vào những công cụ hoạt động và sinh hoạt và kiếm ăn bằng đá cuội, khi quan sát những bộ lạc còn sót lại và bị khác biệt tại những hòn đảo trong quần đảo Indonesia và tập quán dùng đồ tre, nứa, và những loại mũi tên tẩm độc để săn bắn những con thú lớn, cũng như tập tục ăn sò, ốc biển, ốc nước ngọt, những loại cá sẵn có trong những làn nước ấm [ 6 ]. Luận điểm so sánh với những dụng cụ khác ở phương Tây đang được nhiều nhà khoa học xem xét lại .Các di vật chính của thời kỳ Văn hóa Hòa Bình chính ( niên đại sớm 12.000 năm cách thời nay ) tại tỉnh Hòa Bình và những tỉnh từ Quảng Bình đến Thái Nguyên là những dụng cụ bằng đá cuội ghè đẽo một mặt, hoặc chỉ phần lưỡi ; những mảnh gốm không có hình thù do kỹ thuật nung chưa đạt nhiệt độ cao, đây là di tích đồ gốm xưa nhất của dân cư Văn hóa Hòa Bình [ 7 ] cho đến nay đã tìm thấy ; những dụng cụ hướng đến có cán tra, những vòng trang sức đẹp bằng vỏ ốc. Thời kỳ này những nhà khảo cổ học cũng đã tìm thấy di cốt người ở vài khu vực .

Di chỉ muộn của Văn hóa Hòa Bình được tìm thấy ở Bắc Sơn (niên đại sớm 5.000 TCN, thuộc Lạng Sơn). Các dụng cụ bằng đá ở đây đã có một trình độ chế tác cao hơn nhiều, lưỡi đá đã được mài sắc, khảo cổ học gọi là “rìu Bắc Sơn”. Đồ gốm đã có tiến bộ, kỹ thuật được làm thủ công, cư dân ở đây nặn các dải đất dài, rồi cuộn tròn từ đáy lên miệng và miết kín khe hở, nung gốm bằng chất củi đốt xung quanh. Đồ trang sức bằng đất nung có dùi lỗ và xâu thành chuỗi.

Các vật chứng ngày càng nhiều về một nền văn minh Khu vực Đông Nam Á đã làm lung lay nhiều thuyết tiền cổ đứng vững nhiều thập kỷ của thế kỷ 20. Người tiên phong trong việc đề xuất kiến nghị hướng mới cho nguồn gốc loài người là Wilhelm G. Solheim II, giáo sư Đại học Hawaii. Năm 1967, Solheim II cho công bố trên nhiều tài liệu nói về sự sinh ra sớm của việc trồng trọt, làm gốm, đóng thuyền, đúc đồ đồng thau …Sau Solheim II, 1 số ít nhà khảo cổ học khác như Meacham ở Hồng Kông, Higham ở New Zealand, Pookajorn ở Thailand đều thống nhất quan điểm, vùng Khu vực Đông Nam Á, từ Xứ sở nụ cười Thái Lan xuống Indonesia qua bán đảo Đông Dương, là cái nôi của văn minh Nam Á – Nam Đảo. Và mới gần đây, Stephen Oppenheimer [ 8 ] còn đi xa hơn nữa, khi đưa ra thuyết rằng văn minh Khu vực Đông Nam Á là cội nguồn của văn minh phương Tây, rằng khi dân cư thềm Sunda sơ tán tránh biển dâng, họ đã đến vùng Lưỡng Hà – Trung Đông, mang theo kinh nghiệm tay nghề trồng trọt, làm đồ gồm và sự tích Đại hồng thủy. [ 9 ]Chú ý rằng những nhìn nhận này chưa có update những thành tựu mới từ cuối thế kỷ 20 đến nay, trong đó có nghiên cứu và điều tra sinh học phân tử, cho ra dẫn chứng mới xác lập loài người hình thành từ Châu Phi và phát tán ra khắp quốc tế ( Out-of-Africa ). Nghiên cứu về gen gần đây cho thấy người Việt hoàn toàn có thể có nguồn gốc từ Châu Phi. Kết quả nghiên cứu và điều tra ủng hộ giả thuyết tổ tiên người Việt đã di cư từ châu Phi từ 200.000 năm trước, khoảng chừng 40.000 – 60.000 năm trước đã đến cư trú tại Nước Ta, sau đó liên tục di cư lên những nước Đông Á. [ 10 ]

  • Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng, Sơ yếu khảo cổ học nguyên thủy Việt Nam. 1961
  • Tạp chí khảo cổ học Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. (1974-2006)
  • Hà Văn Tấn, Nguyễn Khắc Sử, Trình Năng Chung, Văn hóa Sơn Vi, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999
  • Hà văn Tấn, Theo dấu các nền văn hóa cổ, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998
  • Oppenheimer S., Eden in the East The Drowned Continent of Southeast Asia, Phoenix, 1999

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://evbn.org
Category: Địa Danh