Chu nghia Mac-Lenin

V.I.Lenin
Báo sự thật

Bàn về nhà nước[1]

Các
đồng chí, theo chương trình học tập của
các đồng chí đã đưa cho tôi, thì đề tài
cuộc nói chuyện hôm nay là vấn đề nhà
nước. Tôi không biết các đồng chí đã
hiểu biết vấn đề này đến mức
độ nào. Nếu tôi không nhầm, thì lớp học
của các đồng chí mới bắt đầu, và
đây là lần đầu tiên mà các đồng chí
đề cập đến vấn đề này một
cách có hệ thống. Nếu như vậy thì rất có
thể là trong buổi nói chuyện thứ nhất về
vấn đề khó đó, bản trình bày của tôi sẽ
không được sáng rõ lắm mà cũng không dễ
hiểu lắm đối với nhiều thính giả
của tôi. Và nếu có như thế thì các đồng chí cũng
không nên lo ngại, vì vấn đề nhà nước là
một trong những vấn đề phức tạp
nhất, khó khăn nhất, có lẽ là vấn đề mà
các học giả, các nhà văn và các nhà triết học
tư sản đã làm cho rắc rốt nhất. Vì vậy,
chúng ta không bao giờ nên hy vọng rằng, trong một bài
nói chuyện ngắn, lại có thể làm sáng tỏ hoàn toàn
vấn đề đó ngay được. Sau bài nói
chuyện thứ nhất về vấn đề này, các
đồng chí nên đánh dấu những đoạn khó
hiểu hay tối nghĩa, để rồi nghiên cứu
lại lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ
tư; để sau này bổ sung và làm sáng tỏ những
điểm trước còn khó hiểu, bằng cách tham
khảo thêm tài liệu, cũng như bằng cách nghe các bài
giảng và dự các buổi nói chuyện. Tôi hy vọng
rằng chúng ta lại sẽ có dịp họp lại
với nhau và khi đó, chúng ta sẽ có thể trao
đổi quan điểm về tất cả các vấn
đề mới phát sinh thêm, và làm sáng tỏ điểm
nào còn tồi nhất. Tôi cũng hy vọng rằng
để bổ sung các bài nói chuyện và các bài giảng,
các đồng chí sẽ dành một số thì giờ
nhất định để đọc ít nhất là
một vài tác phẩm chủ yếu của Mác và Ăng-ghen.
Tôi tin chắc rằng trong bản kê các sách nên đọc,
và trong các sách mà thư viện của các đồng chí dành
cho các học viên ở trường của cán bộ
xô-viết và cán bộ đảng – chắc chắn là các
đồng chí sẽ tìm thấy các tác phẩm chủ
yếu đó; và tuy việc trình bày khó hiểu có thể làm
cho một số đồng chí lúc đầu đâm
hoảng, nhưng tôi xin nhắc các đồng chí một
lần nữa rằng không nên vì thế mà lo ngại,
chỗ nào đọc lần đầu còn khó hiểu thì
sẽ trở thành dễ hiểu khi đọc đến
lần thứ hai hoặc khi về sau các đồng chí
đề cập vấn đề theo một khía cạnh
khác; tôi xin nhắc lại, vấn đề ấy hết
sức phức tạp và đã bị các học giả và
tác giả tư sản làm rắc rối nhiều
đến nối người nào muốn thật sự
nghiên cứu và tự mình hiểu sâu vấn đề
ấy thì phải nghiên cứu nhiều lần, luôn luôn
trở lại vấn đề ấy và xem xét nó trên
nhiều khía cạnh, mới có thể hiểu rõ ràng và
chắc chắn được. Và các đồng chí
lại càng dễ trở lại vấn đề ấy và
xem xét nó trên nhiều khía cạnh, mới có thể hiểu
rõ ràng và chắc chắn được. Và các đồng
chí lại càng dễ trở lại vấn đề đó
vì đấy là một vấn đề rất cơ
bản, rất mấu chốt trong toàn bộ chính trị,
đến nỗi không những trong thời đại
giông tố và cách mạng như thời đại chúng ta,
mà ngay cả trong các thời đại yên tĩnh nhất
thì hàng ngày trên mọi báo chí, khi bàn đến bất cứ
vấn đề kinh tế hay chính trị nào, bao giờ
các đồng chí cũng sẽ vấp phải câu hỏi
này: nhà nước là gì, bản chất của nó là gì, vai
trò của nó là gì, và thái độ của đảng ta,
của đảng đang đấu tranh để
lật đổ chế độ tư bản, của
đảng cộng sản, đối với nhà
nước như thế nào; – hàng ngày, vì lý do này hay lý do
khác, các đồng chí sẽ gặp lại vấn
đề đó. Điều chủ yếu nhất là
việc các đồng chí đọc sách, nghe các buổi nói
chuyện và nghe giảng về nhà nước sẽ mang
lại cho các đồng chí cái kết quả là biết
tự mình đề cập đến vấn đề ấy,
vì các đồng chí sẽ gặp phải vấn
đề ấy trong rất nhiều trường hợp
khác nhau, trong từng vấn đề nhỏ một, trong
các sự kết hợp bất ngờ nhất, trong các
cuộc nói chuyện và tranh luận của các đồng
chí với đối phương của mình. Chỉ khi nào
các đồng chí biết tự mình tìm ra phương
hướng trong vấn đề đó, thì các đồng
chí mới có thể coi mình là đã đủ vững vàng
trong những niềm tin của mình và bảo vệ
những niềm tin đó một cách thắng lợi
trước bất cứ người nào và bất cứ
lúc nào.

Sau vài
nhận xét vắn tắt ấy, tôi nói sang bản thân
vấn đề: nhà nước là gì, nó đã xuất
hiện như thế nào, và thái độ của
đảng cộng sản là đảng của giai
cấp công nhân đang đấu tranh để lật
đổ hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, đối
với nhà nước, về căn bản phải như
thế nào?

Tôi đã nói
rằng chưa chắc là có một vấn đề nào
lại bị các đại biểu của khoa học,
triết học, luật học, kinh tế chính trị
học và báo chí tư sản, vô tình hay cố ý, làm cho
rắc rối như vấn đề nhà nước. Cho
đến nay, người ta vẫn hay lầm lẫn
vấn đề này với các vấn đề tôn giáo;
rất nhiều khi, không những tín đồ của các
học thuyết tôn giáo (đó là điều hoàn toàn tự
nhiên về phần họ), mà ngay cả những
người tự do là đã thoát khỏi mọi thành
kiến tôn giáo cũng vậy, họ đều lầm
lẫn vấn đề riêng biệt về nhà nước
với các vấn đề tôn giáo, họ cố sức
dựng lên một lý luận – thường thường là
phức tạp, dựa trên một quan niệm và một
lập luận về mặt tư tưởng và triết
học – cho rằng nhà nước là một cái gì thần
bí, siêu tự nhiên, là một sức mạnh nào đó đã
làm cho nhân loại sống được, một sức
mạnh đem lại hay có thể đem lại, mang
lại theo nó một cái gì không phải là của con
người, mà là cái gì từ ngoài đem vào con
người, nghĩa là một sức mạnh do trời
sinh ra. Và cần phải nhấn mạnh rằng lý luận
ấy gắn liền rất mật thiết với
lợi ích của các giai cấp bóc lột, – giai cấp
địa chủ và tư bản, – nó phục vụ
rất đắc lực cho lợi ích của bọn
họ, nó tiềm nhiễm rất sâu vào các tập quán, quan
điểm và khoa học của các ngài đại biểu
của giai cấp tư sản, đến nỗi các
đồng chí luôn luôn thấy những vết tích của
nó, thậm chí trong quan niệm của bọn men-sê-vích và
bọn xã hội chủ nghĩa – cách mạng về nhà
nước, bọn này gạt bỏ một cách căm
phẫn ngay cả ý kiến cho rằng bọn chúng bị
các thành kiến tôn giáo chi phối, và tin chắc rằng
bọn chúng có thể quan niệm vấn đề nhà
nước một cách hoàn toàn sáng suốt. Sở dĩ vấn
đề này rắc rối và phức tạp đến
như thế là vì, hơn tất cả các vấn
đề khác, nó đụng chạm đến lợi ích
của các giai cấp thống trị (về mặt này, nó
chỉ kém các nguyên lý của khoa học kinh tế thôi).
Học thuyết về nhà nước là dùng để bào
chữa cho những đặc quyền xã hội, bào
chữa cho sự bóc lột, bào chữa cho sự tồn
tại của chủ nghĩa tư bản; vì vậy,
sẽ sai lầm lớn nếu hy vọng rằng
người ta sẽ tỏ ra vô tư trong vấn
đề này, nếu cho rằng những người
tự cho mình là có tính khoa học thì có thể đem lại
cho các đồng chí một quan điểm khoa học
thuần tuý về vấn đề này. Trong vấn
đề nhà nước, trong học thuyết về nhà
nước, trong lý luận về nhà nước, khi các
đồng chí đã làm quen với vấn đề ấy
và nghiên cứu nó một cách khá sâu, thì bao giờ các
đồng chí cũng sẽ thấy cuộc đấu
tranh giữa các giai cấp, cuộc đấu tranh
được phản ánh hay thể hiện trong cuộc
đấu tranh giữa các quan niệm khác nhau về nhà
nước, trong các nhận thức khác nhau về vai trò và
ý nghĩa của nhà nước.

Muốn
đề cập vấn đề này một cách khoa
học nhất, ta cần nhìn lại, về mặt
lịch sử, nguồn gốc và sự phát triển
của nhà nước, dù chỉ là nhìn lướt qua. Trong
vấn đề thuộc về khoa học xã hội,
phương pháp chắc chắn nhất và cần thiết
nhất để thực sự có được thói quen
xem xét vấn đề đó một cách đúng đắn
và để không lạc hướng trong rất nhiều
chi tiết, hoặc trong rất nhiều ý kiến
đối lập nhau – điều kiện quan trọng
nhất của một sự nghiên cứu khoa học là
không nên quên mối liên hệ lịch sử căn bản;
là xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau
đây: một hiện tượng nhất định
đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào,
hiện tượng đó đã trải qua những giai
đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng
trên quan điểm của sự phát triển đó
để xem xét hiện nay nó đã trở thành như
thế nào.

Tôi mong
rằng, về vấn đề nhà nước, các
đồng chí sẽ đọc tác phẩm của
Ăng-ghen: “Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ tư hữu và của nhà
nước”. Đó là một trong những tác phẩm
chủ yếu của chủ nghĩa xã hội hiện
đại, trong đó ta có thể tin vào từng câu, ta có
thể chắc chắn rằng mỗi câu đó không
phải đã viết một cách thiết suy nghĩ, mà nó
căn cứ vào những tài liệu lịch sử và chính
trị hết sức dồi dào. Chắc chắn là tất
cả các phần của tác phẩm đó không phải
đều dễ đọc và dễ hiểu như nhau:
một vài phần đòi hỏi người đọc
phải có sẵn một số kiến thức về lịch
sử và kinh tế. Nhưng tôi xin nhắc lại: các
đồng chí không nên lo ngại nếu các đồng chí
không hiểu tác phẩm này khi mới đọc lần
đầu. Mới đọc lần đầu mà hiểu
được, điều đó hầu như không bao
giờ có thể có được. Nhưng về sau, khi
các đồng chí đọc lại quyền đó, khi các
đồng chí đã thấy hứng thú thì cuối cùng các
đồng chí sẽ hiểu phần lớn quyền
đó, nếu không phải là toàn bộ. Sở dĩ tôi nói
đến quyền đó là vì nó chỉ ra cách đề
cập vấn đề một cách đúng đắn trên
phương diện mà tôi đã nói. Nó bắt đầu
bằng cách phác qua lịch sử phát sinh của nhà
nước.

Muốn
đề cập vấn đề ấy một cách
đúng đắn, cũng như mọi vấn đề
khác, chẳng hạn như những vấn đề:
sự phát sinh của chủ nghĩa tư bản, tình
trạng người bóc lột người, chủ
nghĩa xã hội, tức là chủ nghĩa xã hội đã
phát sinh như thế nào, những điều kiện nào
đã đẻ ra chủ nghĩa xã hội, – muốn
đề cập mọi vấn đề thuộc
loại đó một cách nghiêm chỉnh, chắc chắn, thì
trước hết phải nhìn lại toàn bộ sự
phát triển lịch sử của nó. Về vấn
đề này thì điều cần phải chú ý
trước tiên là nhà nước không phải bao giờ
cũng có. Đã có một thời kỳ chưa có nhà
nước. Nhà nước chỉ xuất hiện ở
nơi nào và lúc nào đã xuất hiện sự phân chia xã
hội thành giai cấp, đã xuất hiện những
kẻ bóc lột và những người bị bóc lột.

Tưrớc
khi nảy ra hình thức đầu tiên của tình trạng
người bóc lột người, hình thức đầu
tiên của sự phân chia thành giai cấp – chủ nô và nô lệ
– thì có gia đình gia trưởng, hay đôi khi người
ta gọi là gia đình theo
chế độ clan
(clan nghĩa là thị tộc, gia
tộc, khi mà người ta sống thành thị tộc, gia
tộc), và những di tích khá rõ của những thời
đại cổ xưa đó vẫn còn lại trong phong
tục của nhiều dân tộc nguyên thuỷ; và nếu
các đồng chí lấy bất cứ quyển sách nào nói
về văn hoá nguyên thuỷ, thì các đồng chí sẽ
luôn luôn thấy những đoạn miêu tả, những
điều chỉ dẫn, những ký ức ít nhiều rõ
rệt, chứng tỏ rằng đã có một thời ít
nhiều tương tự như chủ nghĩa cộng
sản nguyên thuỷ, trong đó không có tình trạng xã
hội chia thành chủ nô và nô lệ. Hồi ấy không có
nhà nước, không có bộ máy đặc biệt
để dùng bạo lực một cách có hệ thống
và bắt buộc người ta phục tùng bạo
lực. Chính bộ máy dó, người ta gọi là nhà
nước.

Trong xã
hội nguyên thuỷ, khi người ta sống thành
từng thị tộc nhỏ, còn ở vào trình độ
phát triển thấp nhất, trong một tình trạng
gần như man rợ, một thời kỳ cách nhân
loại văn minh hiện nay hàng mấy nghìn năm, thì
người ta chưa thấy dấu vết sự tồn
tại của nhà nước. Trong xã hội ấy, chúng ta
thấy có ưu thế của tập quán, có uy tín, lòng tôn
trọng và quyền hành mà các bô lão trong thị tộc
được hưởng; chúng ta thấy quyền hành
ấy có khi lại ở trong tay phụ nữ, –
địa vị người phụ nữ hồi đó
không giống như địa vị phụ nữ
thời nay, thời mà họ không có quyền gì cả và
bị áp bức; nhưng bất cứ ở đâu,
người ta cũng chưa thấy có một hạng người
đặc biệt tự tách ra để thống trị
người khác và sử dụng một cách có hệ
thống, thường xuyên, nhằm mục đích
thống trị, cái bộ máy cưỡng bách, cái bộ máy
bạo lực mà hiện nay, tất cả các đồng
chí đều hiểu đó là những đội vũ
trang, những nhà tù và những phương tiện khác
để bắt buộc, bằng bạo lực,
người khác phải phục tùng, – tức là những
cái cấu thành bản chất của nhà nước.

Nếu ta
không kể tới những học thuyết mệnh danh là học
thuyết tôn giáo, những thủ đoạn xảo trá,
những hệ thống triết học, tất cả các
ý kiến mà bọ học giả tư sản nêu ra, và
nếu thực sự đi sâu vào vấn đề thì ta
sẽ thấy rằng nhà nước rút cục lại
chính là cái bộ máy cai trị đã tự tách ra từ xã
hội loài người. Khi nào mà xuất hiện một
nhóm người đặc biệt chỉ có nhiệm
vụ cai trị như thế, cái nhóm mà muốn thống
trị thì cần có một bộ máy cưỡng bức
đặc biệt (nhà tù, các đội ngũ đặc
biệt, quân đội, v.v.) để bắt buộc,
bằng bạo lực, người khác phải phục
tùng thì lúc đó nhà nước xuất hiện.

Nhưng
đã có một thời không có nhà nước, lúc đó các
quan hệ xã hội, bản thân xã hội, kỷ luật,
tổ chức lao động đều duy trì
được nhờ có sức mạnh của phong
tục và tập quán, nhờ có uy tín và lòng tôn trọng mà
những bô lão của thị tộc hoặc phụ nữ
– địa vị của phụ nữ hồi đó không
những chỉ ngang với địa vị của nam
giới mà thường khi còn cao hơn nữa – được
hưởng, và lúc không có một hạng người riêng
biệt, người chuyên môn, để cai trị.
Lịch sử chứng minh rằng nhà nước, một
bộ máy cưỡng bức đặc biệt, chỉ
xuất hiện ở nơi nào và khi nào mà xã hội đã
chia thành giai cấp, tức là chia thành các nhóm người mà
nhóm người này luôn luôn có thể chiếm đoạt
lao động của những nhóm khác, người này bóc
lột người khác.

Chúng ta luôn
luôn cần phải thấy rõ rằng sự phân chia xã
hội thành giai cấp như thế trong quá trình lịch
sử là sự kiện căn bản. Sự tiến hoá
của tất cả các xã hội loài người qua hàng nghìn
năm, ở tất cả các nước, không trừ
nước nào cả, đã chỉ cho chúng ta thấy tính
quy luật chung, tính chính xác, tính nhất quán của sự
tiến hoá đó: bắt đầu là một xã hội
không có giai cấp, một xã hội gia trưởng, nguyên
thuỷ, không có quý tộc; sau đến là một xã
hội dựa trên chế độ nô lệ, một xã
hội chiếm hữu nô lệ. Toàn bộ châu âu văn
minh hiện nay đều trải qua giai đoạn đó:
cách đây hai nghìn năm, chế độ nô lệ
thống trị hoàn toàn ở châu âu. Tuyệt đại
đa số các dân tộc trên các lục địa khác
cũng đều như vậy. Hiện nay, dấu
vết của chế độ nô lệ vẫn còn ở
các dân tộc chậm phát triển nhất; như ở châu
Phi chẳng hạn, các đồng chí sẽ thấy
hiện nay cũng vẫn còn các thiết chế thuộc
về chế độ nô lệ. Chủ nô và nô lệ, –
đó là sự phân chia lớn đầu tiên về giai
cấp. Nhóm thứ nhất chẳng những làm chủ
tất cả các tư liệu sản xuất: ruộng
đất, công cụ dù còn thô sơ và cổ lỗ, mà làm
chủ cả người nữa. Nhóm đó gọi là
chủ nô; còn những người làm lụng và lao
động khó nhọc cho kẻ khác thì gọi là nô lệ.

Tiếp sau
hình thức đó, có một hình thức khác trong lụch
sử: chế độ nông nô. Trong tuyệt đại
đa số các nước, chế độ nô lệ, khi
phát triển, đã trở thành chế độ nông nô.
Địa chủ – chủ nô và nông nô, – đó là sự phân
chia căn bản của xã hội. Hình thức của quan
hệ giữ người với người đã thay
đổi. Trước kia, chủ nô coi nô lệ như
vật sở hữu của mình; phát luật cũng công
nhận quan điểm đó và coi người nô lệ là
một vật thuộc quyền sở hữu hoàn toàn
của chủ nô. Đối với người nông nô, ách
áp bức giai cấp, sự lệ thuộc hãy còn tồn
tại, những lãnh chúa thì không được coi là có
quyền sỡ hữu nông dân như sở hữu một
đồ vật nữa; nó chỉ có quyền chiếm
đoạt kết quả lao động của nong dân và
cưỡng bức nông dân phải làm tròn một số
nghĩa vụ nào đó thôi. Các đồng chí đều
biết rằng trong thực tế, chế độ nông
nô cũng chẳng khác gì chế độ nô lệ,
nhất là ở nước Nga là nơi mà chế
độ đó đã được duy trì lâu nhất và
đã có những hình thức tàn bạo nhất.

Sau nữa,
cùng với sự phát triển của thương mại
và sự hình thành của một thị trường toàn
thế giới, cùng với sự phát triển của
lưu thông tiền tệ, thì một giai cấp mới,
giai cấp các nhà tư bản, cũng xuất hiện trong
xã hội nông nô. Từ hàng hoá, từ việc trao
đổi hàng hoá, từ thế lực của tiền
bạc đã sinh ra thế lực của tư bản.
Trong thế kỷ XVIII, hay nói cho đúng hơn, từ
cuối thế kỷ XVIII, và trong thế kỷ XIX,
nhiều cuộc cách mạng đã nổ ra trên toàn thế
giới. Chế độ nông nô bị xoá bỏ trong tất
cả các nước ở tây âu. nước Nga, chế
độ nông nô bị xoá bỏ muộn hơn cả. Nga,
năm 1861, cũng đã có một sự biến
đổi làm cho hình thức xã hội này được
thay thế bằng một sự biến đổi làm cho
hình thức xã hội này được thay thế bằng
một hình thức xã hội khác – chế độ nông nô
nhường chỗ cho chủ nghĩa tư bản, trong
đó sự phân chia giai cấp vẫn còn, cũng như
vẫn còn những dấu vết và tàn dư của
chế độ nông nô, nhưng về căn bản,
sự phân chia giai cấp đã có một hình thức khác.

Trong tất
cả các nước tư bản, những người
làm chủ tư bản, những người làm chủ
ruộng đất, những người làm chủ các công
xưởng và nhà máy thì trước kia và hiện nay
đều là một thiểu số rất nhỏ trong nhân
dân, nắm quyền sử dụng toàn bộ lao
động của nhân dân và do đó chi phối, áp bức
và bóc lột toàn bộ quần chúng lao động mà đa
số là những người vô sản, những công nhân
làm thuê, tức là những người vô sản, những
công nhân làm thuê, tức là những người, trong quá trình
sản xuất, chỉ có thể có được tư
liệu sinh hoạt bằng cách bán cánh tay lao động,
bán sức lao động của mình. Cùng với
bước chuyển sang chủ nghĩa tư bản,
những nông dân đã bị phân tán và bị áp bức trong
thời đại nông nô, thì nay một phần biến
thành vô sản (đó là đa số), một phần
biến thành những nông dân khá giả (đó là thiểu
số), tức là những người cũng lại
tự mình thuê công nhân và hợp thành giai cấp tư
sản nông thôn.

Các
đồng chí không nên bao giờ quên sự thật cơ
bản nảy: xã hội chuyển từ các hình thức
nguyên thuỷ của chế độ nô lệ sang chế
độ nông nô, và sau cùng sang chủ nghĩa tư bản;
thật vậy, chỉ khi nào các đồng chí nhớ
sự thật cơ bản đó, chỉ khi nào các
đồng chí xếp tất cả các học thuyết
chính trị vào trong cái khuôn khổ cơ bản đó thì các
đồng chí mới có thể đánh giá được
các học thuyết ấy một cách đúng đắn và
nhận rõ các học thuyết ấy có quan hệ với
cái gì, vì trong số những thời kỳ lớn ấy
của lịch sử loài người – thời kỳ
chiếm hữu nô lệ, thời kỳ nông nô và thời kỳ
tư bản – mỗi thời kỳ kéo dài hàng chục và
hàng trăm thế kỷ, và có rất nhiều hình thức
chính trị, rất nhiều học thuyết, rất nhiều
ý kiến, rất nhiều cuộc cách mạng chính trị
khác nhau đến nỗi chúng ta không thể nào lần ra
được trong tình trạng hết sức phức
tạp và cực kỳ nhiều hình nhiều vẻ ấy,
– là tình trạng có liên hệ chủ yếu với các lý
luận chính trị, triết học và các lý luận khác
của những nhà học giả và những nhà chính
trị tư sản, – nếu chúng ta không kiên quyết
lấy sự phân chia xã hội thành giai cấp như
vậy, sự thay đổi các hình thức thống
trị của giai cấp, làm sợi dây cơ bản
dẫn đường, và nếu ta không đứng trên
quan điểm đó để phân tích tất cả các
vấn đề xã hội – các vấn đề kinh
tế, chính trị, tinh thần, tôn giáo, v.v…

Nếu các
đồng chí xét vấn đề nhà nước, xuất
phát từ sự phân chia cơ bản đó, các đồng
chí sẽ thấy, như tôi đã nói, rằng trước
khi xã hội chia thành giai cấp, thì cũng chưa có nhà
nước. Nhưng cùng với sự xuất hiện và
sự xác lập của tình trạng xã hội phân chia thành
giai cấp, cùng với sự phát sinh của xã hội có
giai cấp thì nhà nước cũng xuất hiện và
được củng cố. Trong quá trình lịch sử
của loài người, hàng chục và hàng trăm
nước đã và đang còn trải qua chế độ
nô lệ, chế độ nông nô và chủ nghĩa tư
bản. Trong mỗi nước, mặc dù các cuộc biến
đổi lịch sử hết sức to lớn đã
xảy ra, mặc dầu có tất cả các biến thiên
chính trị và các cuộc cách mạng gắn liền
với sự phát triển ấy của loài người,
với bước chuyển từ chế độ nô
lệ sang chế độ nông nô, rồi sang chế
độ tư bản, và sang cuộc đấu tranh toàn
thế giới hiện nay chống chủ nghĩa tư
bản, – bao giờ các đồng chí cũng thấy nhà
nước xuất hiện. Nhà nước bao giờ cũng
là một bộ máy nhất định, nó tự tách ra
từ xã hội và gồm một nhóm người chỉ
chuyên hay chủ yếu chỉ chuyên làm công việc cai
trị. Loài người chia thành những người
bị trị và thành những kẻ chuyên môn cai trị là
những kẻ tự đặt mình lên trên xã hội,
những kẻ mà người ta gọi là những
người cai trị, những người đại
diện của nhà nước. Bộ máy đó, nhóm
người cai trị những người khác đó bao giờ
cũng nằm trong tay một bộ máy cưỡng bức
nhất định, một cơ quan thực lực, dù cho
bạo lực ấy được thi hành bằng một
cái gậy nguyên thuỷ, hoặc như trong thời
đại nô lệ, bằng những vũ khí cải
tiến hơn, hoặc bằng các súng ống xuất
hiện trong thời trung cổ, hoặc sau cùng, bằng các
vũ khí hiện đại mà trong thế kỷ XX đã
biến thành kỳ quan thực sự và dựa hoàn toàn vào
những thành tựu mới nhất của kỹ thuật
hiện đại. Các hình thức thi hành bạo lực
đã thay đổi, nhưng bao giờ cũng vậy,
trong mỗi xã hội có nhà nước đều có một
nhóm người cai trị, chỉ huy, thống trị, và
để giữ chính quyền, họ sử dụng
một bộ máy cưỡng bức, một bộ máy
bạo lực, họ sử dụng thứ vũ khí phù
hợp với trình độ kỹ thuật của
mỗi thời đại. Và chỉ khi nào chúng ta xét
những sự kiện có tính chất chung đó, chỉ khi
nào chúng ta tự hỏi tại sao lại không có nhà
nước khi không có giai cấp, không có người bóc
lột và người bị bóc lột, và tại sao nhà
nước lại xuất hiện khi các giai cấp
xuất hiện – chỉ khi đó chúng ta mới tìm thấy
một câu trả lời dứt khoát cho vấn đề
bản chất và ý nghĩa của nhà nước.

Nhà
nước là một bộ máy dùng để duy trì sự
thống trị của một giai cấp này đối
với giai cấp khác. Khi xã hội còn chưa có giai
cấp, khi con người, trước thời nô lệ,
còn lao động trong các điều kiện nguyên thuỷ
có nhiều bình đẳng hơn và năng suất lao
động còn hết sức thấp, khi con người
nguyên thuỷ đã phải rất khó nhọc mới tìm ra
được các tư liệu sinh hoạt hết sức
thô sơ và nguyên thuỷ của mình thì khi đó không có và
cũng không thể có một nhóm người đặc
biệt chuyên trách cai trị và thống trị bộ phận
còn lại trong xã hội. Chỉ khi nào xuất hiện hình
thức đầu tiên của sự phân chia xã hội thành
giai cấp, khi nào xuất hiện chế độ nô
lệ, khi nào một giai cấp nhất định gồm
những người chuyên môn làm những công việc lao
động nông nghiệp dưới những hình thức
thô lậu nhất, đã có thể sản xuất ra
được một số dư thừa nào đó, và khi
nào số dư thừa đó, không phải là tuyệt
đối cần thiết cho đời sống hết
sức khổ cực của người nô lệ, đã
bị người chủ nô chiếm đoạt, và khi do
đó, sự tồn tại của giai cấp chủ nô
được củng cố, thì lúc đó, để
sự tồn tại ấy được củng cố,
nhà nước mới phải xuất hiện.

Thế là
xuất hiện nhà nước của chế độ nô
lệ, một bộ máy đem lại cho chủ nô
quyền lực và khả năng cai trị tất cả
những người nô lệ. Cả xã hội lẫn nhà nước
hồi đó thì nhỏ bé hơn bây giờ nhiều; có
những phương tiện liên lực thô sơ hơn bây
giờ nhiều: lúc đó chưa có phương tiện
giao thông như hiện nay. Hồi đó, núi, sông, biển là
những trở ngaị lớn hơn bây giờ nhiều,
và nhà nước cũng hình thành trong những biên giới
địa lý nhỏ hẹp hơn nhiều. Bộ máy nhà
nước, rất kém về mặt kỹ thuật, lúc
đó phục vụ cho một quốc gia có biên giới
tương đối nhỏ hẹp và có phạm vi
hoạt động hạn chế. Song đó vẫn là
một bộ máy dùng để duy trì những người
nô lệ trong địa vị nô lệ, và cho phép một bộ
phận này của xã hội cưỡng bức và đàn áp
bộ phận kia. Người ta không thể bắt
buộc được đại bộ phận của xã
hội làm việc thường xuyên cho bộ phận khác
nếu không có một bộ máy cưỡng bức
thường trực. Chừng nào chưa có giai cấp thì
chưa có bộ máy đó. Khi các giai cấp đã xuất
hiện, bao giờ và bất cứ ở đâu mà sự
phân chia giai cấp ngày càng rõ rệt và cố định,
thì người ta cũng đều thấy xuất
hiện một tổ chức đặc biệt là nhà
nước. Nhà nước có hết sức nhiều hình
thức khác nhau. Trong thời đại nô lệ, ở các
nước tiên tiến nhất, khai hoá nhất và văn
minh nhất của thời đại ấy, chẳng
hạn như Hy-lạp và La-mã thời cổ, là những
nước hoàn toàn kiến lập trên chế độ nô
lệ, chúng ta đã thấy có nhiều hình thức nhà
nước khác nhau. Bấy giờ, người ta đã
phân biệt chính thể quân chủ và chính thể cộng
hoà, chính thể quý tộc và chính thể dân chủ. Chính
thể quân chủ, tức là chính quyền của một
người; trong chính thể cộng hoà, thì không một
quyền lực nào là không phải do bầu cử mà có;
chính thể quý tộc, tức là chính quyền của
một thiểu số tương đối nhỏ
hẹp; chính thể dân chủ, tức là chính quyền
của nhân dân (nền dân chủ, theo nguyên nghĩa trong
tiếng Hy-lạp là: chính quyền của nhân dân). Tất
cả các sự phân biệt ấy đã xuất hiện
trong thời đại chế độ nô lệ. Mặc
dù có khác nhau như thế, nhưng nhà nước, trong
thời đại chế độ nô lệ, dù là quân
chủ hay cộng hoà quý tộc hay cộng hoà dân chủ,
đều là nhà nước chủ nô.

Tất
cả các sách giáo khoa về lịch sử thời cổ,
tất cả các bài giảng nói về vấn đề
đó sẽ trình bày cho các đồng chí cuộc
đấu tranh giữa các nhà nước quân chủ và
cộng hoà; nhưng điều căn bản là
người nô lệ lúc ấy không được coi là
người; không những không được coi là công dân,
mà cũng không được coi là người nữa. Theo
quan điểm của luật pháp La-mã, họ là các
đồ vật. Không nói đến các luật lệ khác
về bảo vệ cá nhân, ngay các luật lệ về
tội giết người cũng không áp dụng cho
người nô lệ. Luật pháp chỉ bảo vệ
chủ nô là những người duy nhất có mọi
quyền công dân. Nhưng dù là quân chủ hay cộng hoà,
đó vẫn là chính thể quân chủ chủ nô hoặc
cộng hoà chủ nô. Tất cả các quyền đều
thuộc về chủ nô, còn nô lệ thì chỉ là
đồ vật dưới con mắt pháp luật;
tất cả mọi thứ bạo lực đều có
thể dùng đối với nô lệ, ngay cả giết
một người nô lệ cũng không coi là phạm
tội. Các cộng hoà chủ nô có khác nhau về tổ
chức nộ bộ: có những cộng hoà quý tộc và
những cộng hoà dân chủ. Trong một cộng hoà quý
tộc, chỉ một số ít người có đặc
quyền được tham gia bầu cử; trong một
cộng hoà dân chủ thì tất cả mọi người
đều được tham gia bầu cử, – nhưng
đây cũng lại là tất cả mọi người
chủ nô, tất cả mọi người, trừ
những người nô lệ. Chúng ta không nên quên
trường hợp chủ yếu đó, vì chính nó soi sáng
vấn đề nhà nước hơn cả và làm sáng rõ
bản chất của nhà nước.

Nhà
nước là một bộ máy để cho giai cấp này
áp bức giai cấp khác, một bộ máy dùng để duy
trì dưới sự thống trị của một giai
cấp tất cả các giai cấp bị lệ thuộc
khác. Bộ máy đó mang nhiều hình thức khác nhau. Trong
nhà nước chủ nô, có chính thể quân chủ, chính
thể cộng hoà qúy tộc, hoặc ngay cả chính
thể cộng hoà dân chủ nữa. Thực ra, hình
thức chính quyền có khác nhau hết sức, nhưng
nội dung vẫn không thay đổi: nô lệ không có
quyền gì cả và vấn là một giai cấp bị áp
bức, họ không được coi là người. Trong
nhà nước phong kiến cũng vậy.

Sự thay
đổi hình thức bóc lột đã biến nhà
nước chủ nô thành nhà nước nông nô. Điều
đó có một ý nghĩa to lớn. Trong xã hội chiếm
hữu nô lệ, nô lệ không có quyền gì cả, không
được coi là người, trong xã hội nông nô, nông
dân bị trói buộc vào ruộng đất. Đặc
điểm căn bản của chế độ nông nô là
ở chỗ nông dân (nông dân hồi đó chiếm đa
số, dân cư thành thị hãy còn rất ít)
được coi là bị trói buộc vào ruộng
đất; do đó mà có khái niệm chế độ nông
nô. Người nông nô có thể lao động một
số ngày nhất định cho chính mình, trên miếng
đất mà địa chủ giao cho họ; còn những ngày
khác, họ làm việc cho chủ họ. Bản chất
của xã hội có giai cấp vẫn tồn tại: xã
hội dựa trên sự bóc lột giai cấp. Chỉ riêng
các địa chủ là có đủ mọi quyền, còn
nông dân thì không có quyền gì cả. Trên thực tế,
địa vị của nông dân chỉ khác rất ít
địa vị của nô lệ trong xã hội chiếm
hữu nô lệ. Tuy nhiên, một con đường
rộng rãi hơn đã mở ra cho sự giải phóng
của họ, cho sự giải phóng của nông dân, vì nông
nô không bị coi là vật sở hữu trực tiếp
của địa chủ. Họ có thể dùng một
phần thì giờ để làm việc trên miếng
đất của họ; có thể nói rằng con
người họ đã có thể thuộc vvề họ
đến một mức độ nào đó; còn chế
độ phong kiến đã chứa sẵn những
khả năng phát triển lớn hơn cho những
sự trao đổi và những quan hệ thương
mại, nên nó ngày càng tan rã, và phạm vi của sự
giải phóng nông dân cũng ngày càng mở rộng hơn. Xã
hội phong kiến bao giờ cũng phức tạp
hơn xã hội chiếm hữu nô lệ. Nó có một yếu
tố lớn là sự phát triển thương mại và
công nghiệp; điều đó, ngay từ thời kỳ
ấy đã dẫn đến chủ nghĩa tư
bản. Trong thời trung cổ, chế độ nông nô
chiếm ưu thế. Cả trong thời ấy nữa,
các hình thức nhà nước cũng khác nhau, cả trong
thời ấy nữa, cũng có cả chính thể quân
chủ lẫn chính thể cộng hoà, tuy nhiên chính thể
cộng hoà này biểu hiện ít rõ rệt hơn nhiều;
nhưng bao giờ bọn địa chủ phong kiến
cũng vẫn được công nhân là giai cấp
thống trị duy nhất. Người nông dân nông nô thì
hoàn toàn không có quyền chính trị gì cả.

Dưới
chế độ nô lệ cũng như dưới
chế độ nông nô, việc một thiểu số
nhỏ thống trị tuyệt đại đa số thì
không thể không dùng đến cưỡng bức. Toàn
bộ lịch sử đều đầy dẫy
những mưu toan không ngừng của các giai cấp
bị áp bức nhằm lật đổ ách áp bức. Trong
lịch sử chế độ nô lệ đã có những
cuộc chiến tranh kéo dài hàng chục năm nhằm
tự giải phóng khỏi ách nô lệ. Tiện thể.
Hiện nay những người cộng sản Đức
– là đảng duy nhất của nước Đức
đang đấu tranh thực sự chống ách áp bức
của chủ nghĩa tư bản – lấy tên là
Xpác-ta-cút, vì Xpác-ta-cút, gần hai nghìn năm về
trước, là một trong những vị anh hùng lỗi
lạc nhất của một trong những cuộc
khởi nghĩa lớn nhất của nô lệ. Trong
nhiều năm ròng, đế quốc La-mã, hoàn toàn kiến
lập trên chế độ nô lệ và tưởng
chừng như hùng cường nhất, đã bị rung
động và lay chuyển bởi một cuộc khởi
nghĩa to lớn của những người nô lệ,
họ đã tự võ trang và tập hợp thành một
đạo quân rất lớn dưới sự chỉ huy
của Xpác-ta-cút. Nhưng cuối cùng, họ đã bị
bọn chủ nô tàn sát, bắt bớ và tra tấn. Các
cuộc nội chiến ấy đã liên tiếp diễn ra
trong suốt lịch sử của xã hội có giai cấp.
Tôi vừa dẫn ra ví dụ về cuộc nội
chiến quan trọng nhất trong thời chế
độ nô lệ. Toàn bộ thời đại nông nô
cũng đầy dẫy những cuộc khởi nghĩa
của nông dân. Ví dụ như ở Đức, cuộc
đấu tranh giữa giai cấp phong kiến và giai
cấp nông nô, trong thời trung cổ, đã có những quy
mô rộng lớn và biến thành một cuộc nội
chiến thực sự giữa hai giai cấp: giữa nông
dân và bọn phong kiến. Tất cả các đồng chí
đều biết nhiều ví dụ về những cuộc
khởi nghĩa nông dân như thế chống bọn chúa
phong kiến, cả ở Nga nữa.

Để
duy trì sự thống trị của nó, để bảo
vệ chính quyền của nó, chúa phong kiến phải có
một bộ máy tập hợp và thu phục một số
rất đông người, bắt họ phải tuân theo
những luật pháp và quy chế nhất định; và
về căn bản, tất cả các luật pháp đó
chung quy chỉ là nhằm một mục đích: duy trì chính
quyền của chúa phong kiến dối với nông nô.
Đó chính là nhà nước phong kiến, nhà nước này
– ở Nga chẳng hạn, hoặc ở các nước
rất lạc hậu ở châu á là
nơi mà cho đến nay vẫn còn chế độ nông
nô – đều có các hình thức khác nhau: hoặc là cộng
hoà, hoặc là quân chủ. Khi nhà nước là chế
độ quân chủ, thì nghĩa là chính quyền của
một người được công nhận; khi nhà
nước là chế độ cộng hoà thì sự tham gia
ít nhiều rộng rãi của các đại biểu của
bọn địa chủ được công nhân;
điều đó đã có một số xã hội dựa
trên chế độ nông nô. Xã hội phong kiến biểu
hiện một sự phân chia giai cấp, trong đó
tuyệt đại đa số là nông nô bị lệ
thuộc hoàn toàn vào một thiểu số rất nhỏ là
bọn chúa phong kiến, những kẻ chiếm hữu
ruộng đất.

Sự phát
triển của thương mại, sự phát triển
của trao đổi hàng hoá làm xuất hiện một giai
cấp mới: giai cấp những nhà tư bản. Tư
bản xuất hiện vào cuối thời trung cổ, khi
mà nền thương mại thế giới, sau khi tìm ra
châu Mỹ, đã có một đà phát triển phi
thường, khi mà số lượng các kim khí quý đã
tăng lên, khi mà vàng và bạc đã trở thành một
phương tiện trao đổi, khi mà lưu thông
tiền tệ làm cho vô số của cải tích luỹ
trong tay riêng một bọn người. Vàng và bạc đã
được công nhân là của cải trên toàn thế
giới. Lực lượng kinh tế của giai cấp
địa chủ bị suy tàn, trong khi đó thì sức
mạnh của một giai cấp mới lại lớn
lên, đó là giai cấp những đại biểu của
tư bản. Sự cải tạo xã hội đã nhằm
làm cho tất cả các công dân dường như
được bình đẳng, nhằm xoá bỏ sự
phân chia cũ thành chủ nô và nô lệ và kiến lập
quyền bình đẳng của mọi người
trước pháp luật, không kể số tư bản
họ có trong tay là bao nhiêu: chủ đất đai hay
người cùng khổ chỉ có hai cánh tay để lao
động, tất cả đều trở nên bình
đẳng trước pháp luật. Pháp luật bảo
vệ mọi người như nhau; nó bảo vệ tài
sản của những người có của chống
lại sự xâm phạm của cái khối lớn
những người không có của, không có gì cả ngoài hai
cánh tay, và dần dần bị bần cùng hoá, bị phá
sản và biến thành vô sản. Đó là xã hội tư
bản chủ nghĩa.

Tôi không
thể phân tích điểm đó một cách chi tiết
hơn nữa. Các đồng chí sẽ trở lại
vấn đề này khi các đồng chí nghiên cứu
cương lĩnh của đảng: lúc đó,
người ta sẽ nói với các đồng chí cái gì là
đặc điểm của xã hội tư bản. Xã
hội đó đã chống lại chế độ phong
kiến, chống lại chế độ cũ, chống
lại chế độ nông nô, dưới khẩu
hiệu tự do. Nhưng đó là một thứ tự do
cho người có của. Và khi chế độ nông nô
đã bị xoá bỏ, vào cuối thế kỷ XVIII –
đầu thế kỷ XIXI – ở nước Nga,
muộn hơn các nơi khác, vào năm 1861 – thì nhà
nước tư bản thay thế cho nhà nước phong
kiến; nó tuyên bố mọi người đều
được tự do, nó nói rằng nó là biểu hiện
ý chí của tất cả mọi người, nó không
nhận nó là một nhà nước giai cấp; thế là
giữa những người xã hội chủ nghĩa
đấu tranh cho tự do của toàn thể nhân dân và nhà
nước tư bản diễn ra một cuộc
đấu tranh, nó vừa đưa đến việc
thành lập nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa xô-viết và đang lan tràn khắp thế giới.

Muốn
hiểu rõ cuộc đấu tranh đã bắt đầu
để chống tư bản thế giới, muốn
hiểu rõ bản chất của nhà nước tư
bản, chúng ta cần nhớ rằng khi nhà nước này
chống chế độ phong kiến, thì nó cũng
đứng ra chiến đấu dưới khẩu
hiệu tự do. Thủ tiêu chế độ nông nô có
nghĩa là tự do cho những đại biểu của
nhà nước tư bản và có lợi cho họ trong
chừng mực chế độ nông nô bị lật
đổ, và người nông dân có thể có quyền
sở hữu hoàn toàn về mảnh đất mà họ
đã có được bằng cách trả tô; điều
này không quan hệ gì mấy đối với nhà
nước: nhà nước bảo vệ mọi tài
sản, không kể nguồn gốc của tài sản đó
như thế nào, vì nhà nước dựa trên chế
độ tư hữu tài sản. Nông dân đã trở thành
những người tư hữu trong tất cả các nước
văn minh hiện đại. Nhà nước cũng
bảo vệ chế độ tư hữu ở nơi
nào mà người chủ đất đã giao lại
một phần ruộng đất của mình cho nông dân,
nhà nước bồi thường cho chủ đất
bằng cách chuộc lại bằng tiền. Nhà
nước tựa như tuyên bố sẽ duy trì quyền
tư hữu đầy đủ và trọn vẹn, và nhà
nước hoàn toàn ủng hộ và bảo vệ quyền
tư hữu. Nhà nước lại công nhân quyền sở
hữu đó cho mỗi nhà buôn, cho mỗi nhà công nghiệp
hoặc chủ công xưởng. Và xã hội đó, kiến
lập trên chế độ tư hữu, trên quyền
lực của tư bản, trên sự lệ thuộc hoàn
toàn của tất cả các công nhân vô sản và quần
chúng nông dân lao động, – xã hội ấy lại tuyên
bố rằng sự thống trị của nó là dựa
trên cơ sở tự do. Khi đấu tranh chống
chế độ nông nô, xã hội đó đã tuyên bố
mọi quyền sở hữu đều được
tự do và nó lại đặc biệt tự hào cho
rằng nhà nước không còn là nhà nước giai cấp
nữa.

Nhưng nhà
nước vẫn là một bộ máy giúp cho bọn tư
bản giữ nông dân nghèo khổ và giai cấp công nhân trong
vòng lệ thuộc; song bề ngoài, nhà nước đó là
tự do. Nó tuyên bố quyền đầu phiếu phổ
thông; tuyên bố, qua lời nói của những kẻ
ủng hộ nó, của các nhà tuyên truyền, các nhà bác
học và các nhà triết học của nó, rằng nó không
phải là một nhà nước giai cấp. Ngay cả ngày
nay, khi mà các nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa xô-viết bắt đầu đấu tranh
chống lại nó, bọn đó vẫn vu cáo chúng ta là vi
phạm tự do, là xây dựng lên một nhà nước
dựa trên sự cưỡng bức, trên sự đàn áp
của những người này đối với những
người kia, còn họ thì họ đại biểu cho
nhà nước của toàn dân, nhà nước dân chủ. Và
hiện nay, khi cách mạng xã hội chủ nghĩa đã
bắt đầu trên toàn thế giới, chính vào lúc cách
mạng thắng ở một số nước, khi
cuộc đấu tranh chống tư bản toàn thế
giới đã trở nên đặc biệt quyết
liệt thì vấn đề nhà nước đã có một
ý nghĩa cực kỳ quan trọng, có thể nói là đã
trở thành vấn đề nóng hổi nhất, trở
thành trung tâm của mọi vấn đề chính trị và
mọi cuộc tranh luận chính trị trong thời
đại hiện nay.

Chúng ta
cứ xét bất cứ đảng nào ở Nga hay ở
một nước nào văn minh hơn, thì thấy hiện
nay, hầu hết mọi cuộc tranh luận chính trị,
mọi sự bất đồng ý kiến, mọi chính
kiến đều xoay quanh khái niệm nhà nước. Trong
một nước tư bản, trong một nước
cộng hoà dân chủ, – nhất là ở một nước
như Thuỵ Sĩ hoặc Mỹ chẳng hạn, – trong
các nước cộng hoà dân chủ tự do nhất, nhà
nước là biểu hiện ý chí của nhân dân, là
tổng hợp những quyết định của toàn
dân, là biểu hiện ý chí của dân tộc, v.v., hay
lại là một bộ máy mà bọn tư bản các
nước ấy dùng để duy trì quyền lực
của họ đối với giai cấp công nhân và nông
dân? Đó là vấn đề cơ bản mà hiện nay các
cuộc tranh luận chính trị trên toàn thế giới
đang bàn tới. Người ta nói gì về chủ
nghĩa bôn-sê-vích? Báo chí tư sản đang mạt sát
những người bôn-sê-vích. Các đồng chí sẽ
không tìm thấy một tờ báo nào mà lại không lặp
lại luận điện vu cáo đã trở nên thông
thường cho rằng người bôn-sê-vích vi phạm dân
chủ. Nếu bọn men-sê-vích và bọn xã hội – cách
mạng ở nước ta, trong tâm hồn ngây thơ
của họ (nhưng ở đây có lẽ là cái gì khác
hẳn sự ngây thơ, hoặc có lẽ là thứ ngây
thơ mà người ta bảo là tệ hơn sự thâm
hiểm chăng?), nghĩ rằng họ đã phát hiện
và phát minh ra được lời vu cáo nói rằng
những người bôn-sê-vích đã vi phạm tự do và
dân chủ, thì họ đã lầm một cách đáng
buồn cười nhất. Hiện nay, không có một
tờ báo nào trong số những tờ báo giàu có nhất
ở các nước giàu có nhất – những tờ báo tiêu
hàng chục triệu đồng vào việc phát hành hàng
chục triệu bản để gieo rắc luận
điệu tư sản dối trá và ca tụng chính sách
đế quốc chủ nghĩa – lại không lặp
lại những lý lẽ ấy và những lời buộc
tội ghê gớm đó đối với những người
bôn-sê-vích, rằng Mỹ, Anh và Thuỵ sĩ đều là
những nhà nước tiên tiến, nhân dân có chủ
quyền, còn cộng hoà bôn-sê-vích là một nhà nước
của bọn ăn cướp, không biết tự do là
gì, rằng những người bôn-sê-vích đã vi phạm
ngay cả tư tưởng dân quyền và họ thậm
chí đã đi đến chỗ giải tán Quốc
hội lập hiến. Các lời buộc tội ghê
gớm ấy đối với những người
bôn-sê-vích được lặp đi lặp lại trên toàn
thế giới. Tất cả những lời buộc
tội đó đều đưa chúng ta đến
vấn đề: nhà nước là gì? Muốn hiểu
được những lời buộc tội ấy, và
muốn nghiên cứu, muốn phân tích những lời
ấy một cách hoàn toàn tự giác, và không chỉ căn
cứ vào những lời đồn đạimà
để có một nhận định vững chắc,
thì ta cần phải hiểu rõ nhà nước là gì. ở đây, chúng ta có đủ các
loại nhà nước tư bản và tất cả các lý
luận đã được tạo ra trước
chiến tranh để biện hộ cho các loại nhà
nước ấy. Muốn doanh nghiệp giải quyết
đúng đắn vấn đề đó, ta phải xét
tất cả các lý luận và quan điểm ấy
bằng con mắt phê phán.

Để
giúp cho công tác nghiên cứu của các đồng chí, tôi
đã giới thiệu với các đồng chí tác phẩm
của Ăng-ghen: “Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà
nước”. Chính trong tác phẩm này có nói rằng
mọi nhà nước, dù dân chủ đến đâu
chăng nữa, nếu trong đó còn có quyền tư
hữu về ruộng đất và về tư liệu
sản xuất, trong đó tư bản còn thống
trị, thì đều là một nhà nước tư
bản chủ nghĩa, một bộ máy nằm trong tay
bọn tư bản để khống chế giai cấp
công nhân và nông dân nghèo. Mà quyền đầu phiếu
phổ thông, Quốc hội lập hiến, nghị
viện đều chỉ là hình thức, chỉ là một
thứ hối phiếu, không thay đổi được
gì về thực chất cả.

Hình thức
thống trị của nhà nước có thể khác nhau:
tư bản biểu thị sức mạnh của nó
bằng cách này ở nơi có hình thức này, hoặc
bằng cách khác ở nơi có hình thức khác; nhưng
thực ra thì chính quyền vẫn ở trong tay tư
bản, dù là dưới chế độ bầu cử
dựa trên thuế suất hay không dựa trên thuế
suất, dù là dưới chế độ cộng hoà dân
chủ hay không; và thậm chí chế độ cộng hoà
càng dân chủ thì sự thống trị của chủ
nghĩa tư bản càng tàn bạo, càng vô liêm sỉ.
Nước Mỹ là mọt trong những nước
cộng hoà dân chủ nhất thế giới, nhưng không
ở đâu quyền lực của tư bản, quyền
lực của một nhúm bọn tỷ phú đối
với toàn thể xã hội lại biểu hiện một
cách thô bạo, bằng sự mua chuộc trắng trợn
như ở Mỹ (ai đã ở đó sau năm 1905 chắc
đều nhận thấy điều này). Một khi
đã xuất hiện, thì tư bản thống trị toàn
thể xã hội, và không một chế độ cộng
hoà dân chủ nào, không một luật bầu cử nào có
thể thay đổi được tình trạng đó.

So với
chế độ nông nô, thì chế độ cộng hoà dân
chủ và chế độ đầu phiếu phổ thông
là một bước tiến rất lớn: những cái đó
đã làm cho giai cấp vô sản có thể đạt
đến trình độ thống nhất, đoàn kết
mà hiện nay nó đã có được; làm cho giai cấp vô
sản có thể thành lập đội ngũ có kỷ
luật và có tổ chức để tiến hành một
cuộc đấu tranh có hệ thống chống lại
tư bản. Điều đó và ngay cả điều
gần như thế, người nông nô đã không có
được, chứ đừng nói gì người nô
lệ. Chúng ta điều biết nô lệ đã nổi
dậy khởi nghĩa, đã làm các cuộc bạo
động, đã làm bùng nổ các cuộc nội
chiến, nhưng họ không bao giờ có thể hợp
thành một đa số tự giác, lập ra các chính
đảng có khả năng lãnh đạo cuộc
đấu tranh của họ; họ không thể có một
ý niệm rõ ràng về mục đích mà họ theo
đuổi; và ngay trong các thời kỳ cách mạng
nhất của lịch sử, họ vẫn luôn luôn là
những quân cờ trong tay các giai cấp thống trị.
Chế độ cộng hoà tư sản, nghị
viện, đầu phiếu phổ thông, – tất cả
những cái đó, xét về phương diện phát
triển của xã hội trên toàn thế giới,
đều là một bước tiến rất lớn.
Nhân loại đã đi tới chủ nghĩa tư
bản; và chỉ có chủ nghĩa tư bản, nhờ có
nền văn hoá thành thị, mới có thể làm cho giai
cấp vô sản bị áp bức giác ngộ về
địa vị của mình và tạo nên một phong trào
công nhân thế giới, tổ chức hàng triệu công nhân
trên toàn thế giới thành những chính đảng –
đảng xã hội chủ nghĩa – lãnh đạo cuộc
đấu tranh của quần chúng một cách tự giác.
Nếu không có chế độ đại nghị, không có
nguyên tắc bầu cử, giai cấp công nhân sẽ không
thể phát triển như thế được. Đáy là
lý do tại sao quảng đại quần chúng rất coi
trọng tất cả những cái đó. Đấy là lý do
tại sao bước ngoặt lại có vẻ khó khăn
đến thế. Không phỉa chỉ có bọn
người cố ý giả dối, bọn học giả
và bọn giáo sĩ mới kiên trì và bảo vệ luận
điệu tư sản dối trá nói rằng nhà
nước có tự do và có nhiệm vụ bảo vệ
lợi ích của mọi người, mà cả đông
đảo những người khác nữa cũng vậy,
đó là những người đã thành thực lặp
lại những thành kiến cũ rích và không thể
hiểu nổi bước chuyển từ xã hội
cũ, tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã
hội. Không phải chỉ có những người lệ
thuộc trực tiếp vào giai cấp tư sản,
bị tư bản áp bức hay bị nó mua chuộc
(phục vụ tư bản là một đám đông
những học giả, nghệ sĩ, giáo sĩ, v.v.
thuộc tất cả các loại), mà cả những
người chỉ bị ảnh hưởng bởi
những thành kiến về tự do tư sản, –
tất cả những người đó trên toàn thế
giới, đều khai chiến với chủ nghĩa
bôn-sê-vích, bởi vì khi mới thành lập, nước
Cộng hoà xô-viết đã vứt bỏ luận
điệu tư sản dối trá ấy và tuyên bố công
khai rằng: các người cho nhà nước của các
người có tự do, nhưng thực ra, chừng nào mà
chế độ tư hữu còn, thì nhà nước
của các người, dù là cộng hoà dân chủ, cũng
chỉ là một bộ máy ở trong tay bọn tư
bản để đàn áp công nhân, và nhà nước càng
ưự do thì điều đó càng lộ ra rõ rệt
hơn. Nước Thuỵ Sĩ ở châu âu, nước
Hoa kỳ ở châu Mỹ, là một tỷ dụ nói lên
điều đó. Không ở đâu sự thống trị
của tư bản lại vô liêm sỉ và tàn nhẫn
bằng ở các nước đó, và điều này không
ở đâu lại rõ rệt bằng ở các nước
đó, tuy rằng đó là những cộng hoà dân chủ,
mặc dù có nguỵ trang khéo léo, mặc dù có tất cả
mọi luận điệu về dân chủ đối
với người lao động, về quyền bình
đẳng của mọi người công dân. Thật ra,
ở Thuỵ Sĩ và ở Mỹ, chính là tư bản
thống trị, và hễ khi nào công nhân mưu toàn đòi
cải thiện thiết thực đời sống
của mình đôi chút thì người ta liền dùng ngay
nội chiến để ứng phó lại. Các
nước đó là những nước có ít binh lính, ít quân
đội thường trực hơn cả: ở
Thuỵ Sĩ có các đội dân vệ, và mỗi
người Thuỵ sĩ đều có súng trong nhà; cho
đến nay, nước Mỹ chưa có quân đội
thường trực. Bởi vậy, khi có một cuộc
bãi công nổ ra, thì giai cấp tư sản tự võ trang,
tuyển mộ binh lính và đàn áp cuộc bãi công, và không
ở đâu phong trào công nhân lại bị đàn áp dữ
dội như ở thuỵ sĩ và ở Mỹ; không
ở đâu ảnh hưởng của tư bản
lại tác động mạnh mẽ đến nghị
viện như ở hai nước đó. Sức mạnh
của tư bản là tất cả, sở giao dịch là
tất cả, còn nghị viện, các cuộc bầu
cử chỉ là những con rối, những bù nhìn mà thôi…
Nhưng thời gian càng trôi qua thì công nhân càng sáng mắt ra,
tư tưởng về Chính quyền xô-viết càng lan
rộng, nhất là sau cuộc thảm sát đẫm máu mà
chúng ta vừa trải qua. Giai cấp công nhân ngày càng thấy
rõ là cần phải đấu tranh quyết liệt
chống bọn tư bản.

Dù chính
thể cộng hoà mang hình thức nào chăng nữa, ngay
cả là cộng hoà dân chủ nhất, nhưng nếu
đó là một cộng hoà tư sản, nếu quyền
tư hữu ruộng đất, quyền tư hữu
về nhà máy và công xưởng còn tồn tại trong
nước cộng hoà đó, và nếu ở đấy
toàn thể xã hội còn bị tư bản tư nhân duy trì
trong chế độ nô lệ làm thuê, nói một cách khác,
nếu ở đấy người ta không thực
hiện những điều mà cương lĩnh của
đảng ta và Hiến pháp xô-viết đã công bố, thì
nhà nước đó vẫn là một bộ máy để
cho những người này áp bức những người
khác. Và bộ máy đó, chúng ta sẽ đặt vào trong tay
của giai cấp có nhiệm vụ đánh đổ chính
quyền của tư bản. Chúng ta sẽ vứt bỏ
tất cả những thành kiến cũ kỹ cho rằng
nhà nước là sự bình đẳng cho tất cả
mọi người. Đó chỉ là một sự lừa
bịp: chừng nào còn có bóc lột thì không thể có bình
đẳng được. Địa chủ không thể
bình đẳng với công nhân, cũng như người
đói không thể bình đẳng với người no
được. Bộ máy đó, mà người ta gọi là
nhà nước, mà mọi người sùng bái một cách mê
tín và tin vào các câu chuyện hoang đường cũ rích
nói rằng nhà nước là chính quyền của toàn dân, –
bộ máy đó, giai cấp vô sản vứt bỏ nó đi
và nói: đó là một sự dối trá của tư
sản. Bộ máy đó, chúng ta đã tước của
bọn tư bản, chúng ta đã nắm lấy nó. Nhờ
bộ máy đó hoặc nhờ cái gậy đó, chúng ta
sẽ đập tan được mọi sự bóc
lột, và khi nào trên quả đất không còn có khả
năng bóc lột người khác nữa, không còn có chủ
đất, chủ công xưởng, không còn có một bên là
những người no kềnh bụng và một bên là
những người đói lả nữa, – chỉ khi nào
không thể có tình trạng đó nữa, thì chúng ta mới
vứt bỏ được bộ máy ấy vào
đống sắt vụn. Khi ấy, sẽ không có nhà
nước, không có bóc lột. Đó là quan điểm
của đảng cộng sản chúng ta. Tôi mong rằng
chúng ta sẽ trở lại vấn đề này trong các
buổi nói chuyện sau, và trở lại nhiều lần.

Chú thích

[1]
Bài giảng đọc tại trường đại học
xvéc-đlốp (ngày 11 tháng bảy 1919). Đăng lần đầu
tiên trên báo “Sự thật”, số 15, ngày 18 tháng Giêng
1929.