317. Ca dao, tục ngữ và lịch sử Việt
Từ trước, người ta thường có ý niệm rằng ca dao, tục ngữ là văn chương tầm trung, phát xuất từ nông thôn, thật sự ca dao tục ngữ là lời nói của nhiều những tầng lớp dân chúng, và có lẽ rằng phần nhiều tác giả là những kẻ sĩ, cư ngụ ở khắp nơi, từ thành thị đến nông thôn .
Ca dao, tục ngữ là loại văn chương truyền khẩu, bộc lộ nhiều mặt hoạt động và sinh hoạt của quần chúng Nước Ta, nhất là về mặt tình cảm, nên trong ca dao rất phong phú và đa dạng khúc hát trữ tình. Ngoài ra, đặc biệt quan trọng ca dao, tục ngữ còn biểu lộ những nhận định và đánh giá của dân chúng so với những hành vi tốt, xấu của con người trong xã hội khi tiếp xúc với nhau, hay phản hồi, phê phán giới chỉ huy trong chính quyền sở tại hiện tại, hoặc trong quá khứ, tức là những nhân vật lịch sử và những biến cố tương quan đến vận mệnh dân tộc bản địa và quốc gia .
Trường hợp này, ca dao, tục ngữ có thể xem là một hình thức ngôn luận của quần chúng ở thời đại xưa, khi xã hội chưa phát triển, chưa có điều kiện phổ biến dư luận của người dân như là báo chí hoặc các hình thức thông tin trong thời đại mới, mặc dù từ trước đã có thư tịch nhưng chỉ là để chuyển tải văn chương, sử liệu, mô phạm (thánh mô hiền phạm) v…v… Bài viết này chỉ đề cập đến phần ca dao, tục ngữ có liên hệ với các vấn đề lịch sử Việt Nam.
Bạn đang đọc: 317. Ca dao, tục ngữ và lịch sử Việt
Nho giáo từ Trung Quốc truyền sang đất Việt, qua giới nho sĩ, từ trước thường có ý niệm trọng nam khinh nữ ( nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô ). Nhưng so với người dân Việt thì không có ý niệm tẩy chay đó, nhất là so với hạng anh thư nữ kiệt .
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà quản tượng cỡi voi bành vàng
Rõ ràng câu ca dao này đã ca tụng công đức chống ngoại xâm của Triệu Nữ Vương ( tức là Triệu Thị Trinh – mà sử Tàu miệt thị gọi là Triệu … u : Bà vú Triệu ). Sau cuộc nổi dậy chống Tô Ðịnh của Hai Bà Trưng bị thất bại, Bà Triệu noi gương gan góc đó đã phất cờ khởi nghĩa chống quân Ðông Ngô. Khi Bà đánh giặc, mặc áo giáp vàng cỡi voi xông vào quân địch như vào chỗ không người, xưng danh hiệu là Nhụy Kiều tướng quân. Sau một thời hạn dài bị chịu ràng buộc Trung Quốc, Nước Ta giành được độc lập và Ngô Quyền thiết lập một vương triều tự chủ, sau hơn 10 thế kỷ chịu nhục của người dân dưới ách đô hộ. Nhưng cuối đời nhà Ngô, vì thế lực suy yếu, nên đã có 12 sứ quân nổi dậy, đánh lẫn nhau, làm cho dân tình khổ sở. Các sứ quân đó, trong hơn 20 năm, vẫn xưng hùng xưng bá, không ai chịu phục ai. Kết cuộc, họ phải khuất phục dưới tay Vạn Thắng Vương Ðinh Bộ Lĩnh, tức Ðinh Tiên Hoàng sáng lập ra vương triều nhà Ðinh. Phán xét sự tranh giành quyền lực tối cao của những sứ quân và cuộc thắng lợi của Ðinh Bộ Lĩnh, dân gian đã tóm gọn trong câu ca dao :
Ở đời muôn sự của chung
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi
Thật vậy, ở đời muôn sự của chung, nhưng của chung đó không phải là ai cũng hoàn toàn có thể chiếm hữu thuận tiện. Phải có năng lực hay mưu lược quyền biến .
Ngôi vua ở đầu cuối của nhà Lý thuộc về Lý Chiêu Hoàng, tức là Chiêu Thánh công chúa, con vua Lý Huệ Tôn, mới lên 7 tuổi. Quyền hành lúc đó ở trong tay Trần Thủ Ðộ. Và Thủ Ðộ đã làm chủ hôn cho cháu là Trần Cảnh lấy Chiêu Hoàng, để chuyển vương quyền qua nhà Trần. Quần chúng có lòng lưu luyến nhà Lý đã tỏ lòng công phẫn và mỉa mai trong câu ca truyền khẩu :
Trống chùa ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng
Dưới đời vua Trần Anh Tông, vì nguyên do chính trị, đã gả em gái là Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm là Chế Mân để đổi lấy 2 châu Ô, Lý ( tức Ðịa Lý và Bố Chính ), sau đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu. Người Việt vẫn có tinh thần kỳ thị chủng tộc, cho người Chiêm là giống man di, lên tiếng phản đối việc làm này của triều đình nhà Trần
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Ðể cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Quần chúng còn tiếc thương cho thân phận một vị công chúa, lá ngọc cành vàng, phải lấy chồng tàn khốc ở phương xa, qua ca khúc Nam Bình, vẫn lưu truyền ở cố đô Huế : “ Nước non ngàn dặm ra đi ” .
Về sau, Chế Mân chết, vua Trần sai Trần Khắc Chung sang Chiêm tìm cách đưa Huyền Trân về nước để khỏi bị hỏa thiêu theo chồng ( theo tục lệ Chiêm ). Dư luận quần chúng có vẻ như khắc nghiệt khi hoài nghi về tình cảm của Trần Khắc Chung so với công chúa Huyền Trân trên chặng đường thủy dài ngày đưa công chúa về nước. Người ta xót xa thân phận Huyền Trân, một lần nữa, qua tay Trần Khắc Chung .
Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Ðem vò nước đục lại vần lửa rơm
Nhưng đó chỉ là chuyện đồn đại trong dân gian, không có vật chứng gì xác nhận .
Khi Lê Lợi dấy binh chống Minh, khởi đầu ở vùng Thanh Hóa, sau sở hữu Nghệ An để lan rộng ra khu vực chiến đấu, nhân dân đã phấn khởi ca tụng vùng đất tự do ấy và cổ võ cuộc di dân vào vùng này :
Ðường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô
Các biến cố lịch sử tác động ảnh hưởng rất lớn đến đời sống dân chúng, nhất là loạn lạc. Chiến tranh gây cảnh điêu tàn, chết chóc, nhà tan cửa nát. Nhân dân chỉ biết kêu trời, bày tỏ nỗi oán thán :
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Em về nuôi cái cùng con
Ðể anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Ấy là thảm cảnh của người dân phải thi hành nghĩa vụ và trách nhiệm tòng quân dưới thời Nam Bắc Triều, xảy ra cuộc cuộc chiến tranh Trịnh – Mạc. Cao Bằng là căn cứ địa trọng điểm của nhà Mạc. Người lính trong câu ca dao trên thuộc hàng ngũ quân Trịnh, được lệnh lên đường đánh quân Mạc, vỗ về vợ con trong buổi chia tay. Từ khi Trịnh Tùng diệt được nhà Mạc, dù với danh nghĩa phù Lê, nhưng tập trung chuyên sâu mọi quyền hành vào tay mình rồi xưng Chúa, vua Lê chỉ còn giữ hư vị .
Trong lúc họ Trịnh xưng chúa ở miền Bắc, thì Nguyễn Hoàng được Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hóa từ trước, gây dần thế lực, đến lúc vững mạnh cũng xưng chúa ở miền Nam. Rồi đôi bên gây nên cuộc Nam Bắc phân tranh, lê dài đến non nửa thế kỷ. Họ đánh nhau liên miên, xây thành đắp lũy vững chắc, hiểm trở để phòng chống nhau, nên có câu tục ngữ :
Hiểm nhất lũy Thầy
Thứ nhì đồng lầy Võ Xá
Lũy Thầy tức là lũy Trường Dục, do Ðào Duy Từ chỉ huy xây cất. Nhờ lũy này, quân Nguyễn mới chống cự được lâu dài với quân Trịnh, phải lặn lội đường xa, vất vả nên ở thế bất lợi trong việc tiến quân đánh Nguyễn. Cuộc nội chiến Nam Bắc giữa hai nhà Trịnh – Nguyễn kéo dài, nhưng hai phe cũng liên tục kế truyền nghiệp Chúa. Và cũng vì chiến tranh quá lâu dài nên sau cuộc ngưng chiến, với sông Gianh làm giới hạn hai miền Nam Bắc, họ Trịnh tổ chức một xã hội gần như thanh bình ở Bắc. Các vua chúa cũng như quần thần có mức sống xa xỉ, trụy lạc. Theo tập “Vũ Trung Tùy Bút” của Phạm Ðình Hổ, đời chúa Trịnh thứ 12 là Trịnh Sâm thường tổ chức nhiều cuộc vui chơi ở ly cung trên Tây Hồ, sai người xây cất luôn mãi. Mỗi lần vui chơi thì lại có binh lính hầu quanh hồ, các nội thần thì giả làm đàn bà và dân thì bày bán hàng hóa như ở chợ để vua quan mua sắm.
Cũng dưới triều Trịnh Sâm, phế bỏ con cả là Trịnh Khải, lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử ( con của sủng phi Ðặng Thị Huệ, thường gọi là Bà Chúa Chè ), giao cho Huy Quận Công Hoàng Ðình Bảo làm phụ chính. Khi Trịnh Sâm mất, đảng Trịnh Khải mưu với quân tam phủ làm mưa làm gió, giết Quận Huy và được tam quân ( thường gọi là loạn kiêu binh – hạng lính được tặng thêm, tuyển mộ ở Thanh Nghệ = Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần ) lập lên làm Chúa, tức là Ðoan Nam Vương. Khi Trịnh Sâm còn sống, ham vui thú ăn chơi, nên mọi quyền hành ở tay Quận Huy. Ông này tự do ra vào cung cấm và có mối liên hệ bất chính với Tuyên phi Ðặng Thị Huê Việc này không tránh khỏi búa rìu của dư luận quần chúng :
Ba quân có mắt như mờ
Ðể cho Huy Quận vào sờ chính cung
Khi viết tập “Vũ Trung Tùy Bút”, về việc chúa Trịnh ham mê hưởng lạc, bày cảnh vui chơi làm khổ dân với nhiều sai dịch, Phạm Ðình Hổ đã cho là có sự bất tường. Cho nên hết đời Trịnh Sâm, các con ông là Trịnh Khải và Trịnh Cán vì tranh quyền đã gây rối loạn ở kinh thành. Trịnh Cán (con Tuyên phi Ðặng Thị Huệ) mới được lập lên, với sự hỗ trợ của Quận Huy, chưa được hai tháng, thì bị anh là Trịnh Khải trừ diệt. Và các chúa Trịnh từ đó về sau cũng vì lý do nữ họa mà mất nghiệp:
Sự này chỉ tại Bà Chè
Cho Chúa mất nước cho Nghè làng xiêu
Về chuyện hai bạn bè họ Trịnh tương tàn, dân gian đã cố lời buôn chuyện :
Ðục cùn thì giữ lấy tông
Ðục long cán gãy còn mong nỗi gì
“ Tông ” ám chỉ tước hiệu của Trịnh Cán ( Tông Ðô Vương ). “ Ðục long cán gãy ” là nghiệp chúa của Trịnh Cán không sống sót bao lâu .
Lịch sử Nước Ta từ thế kỷ thứ 17 đến đầu thế kỷ thứ 19, suốt 200 năm là một chuỗi biến cố đẫm máu. Hết cuộc cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn, đến cuộc tương tranh Nguyễn – Tây Sơn. Từ lúc bạn bè Tây Sơn khởi nghĩa, hầu hết là vua Quang Trung, lập nên một triều đại huy hoàng với nhiều võ thuật oanh liệt, nhưng khá ngắn ngủi :
Ðầu cha lấy làm đuôi con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi
Tương truyền đây là một câu sấm ứng vào việc triều Tây Sơn mất nghiệp sau 14 năm. Ðầu chữ Quang ( – Quang Trung ) lấy làm đuôi chữ Cảnh ( – Cảnh Thịnh ) .
Một câu ca dao khác, cũng cùng ý nghĩa :
Cha nhỏ đầu con nhỏ chân
Ðến năm Nhâm Tuất (1802) thì thân chẳng còn
Chữ “ tiểu ” ở trên đầu chữ Quang, ở chân chữ Cảnh. Trong xã hội Nước Ta ngày trước, có hạng sĩ phu, ở lẫn trong dân chúng, thường đánh giá và nhận định về những hoạt động giải trí của giới cầm quyền đương thời và đề xuất kiến nghị những câu sấm để tuyên truyền cho một phe phái nào đó. Câu sấm được truyền trong dân gian bằng cách dạy cho trẻ con hát khi nô đùa ở những nơi công cộng. Chẳng hạn câu sấm sau đây, dưới hình thức ca dao, được truyền là của những cựu thần nhà Mạc tổ chức triển khai chống Trịnh làm ra để liên lạc với những chiến sỹ tìm đến cơ sở ở mạn Bắc :
Ai lên Phố Cát Ðại Ðồng
Hỏi thăm cô Tú có chồng hay chưa?
Có chồng năm ngoái năm xưa
Năm nay chồng bỏ như chưa có chồng
Dù cuộc chiến tranh xảy ra giữa hai miền Nam Bắc rất là quyết liệt, nhưng hai họ Trịnh Nguyễn vẫn triển khai những công cuộc phúc lợi ở vùng họ quản lý .
Ở Nam, những chúa Nguyễn nhiều đời trấn thủ, mưu cầu định cư lạc nghiệp cho dân chúng. Dưới đời chúa Hiển Tông Nguyễn Phúc Chu, đường đi qua vùng Hồ Xá – Quảng Trị ( tức truông nhà Hồ ) thường có bọn cướp ẩn núp, cướp bóc kẻ qua đường. Năm 1722, Chúa sai ông Nguyễn Khoa Ðăng, làm Nội Tán, đi đánh dẹp bọn cướp đó. Người dân ca tụng việc ấy, qua câu ca dao quen thuộc :
Nhớ em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm
Phá Tam Giang ở huyện Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên, nơi có 3 sông lớn của Huế ( sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương ) chảy về rồi đổ ra cửa biển Thuận An. Phá này nhiều sóng lớn, thuyền bè qua lại khó khăn vất vả, về sau cạn đi .
Sau một thời hạn dài, suốt 25 năm, đấu tranh khó khăn, Chúa Nguyễn Ánh đã có thế vững mạnh, tiến quân ra Trung để thắng lợi Tây Sơn. Nhân dân miền Nam vốn có tình cảm với nhà Nguyễn đã truyền câu hát :
Lạy trời cho chóng gió nồm
Ðể cho Chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra
Khi Chúa Nguyễn còn ở trong Nam, tổ chức cuộc Nam tiến vào đất Gia Ðịnh, khẩn hoang lập ấp. Dân chúng đồng lòng cổ võ:
Xem thêm: 3 điểm đến lịch sử ở Bình Định
Nhà Bè nước chảy rẽ hai
Ai về Gia Ðịnh Ðồng Nai thì về
Vua Gia Long thống nhất sơn hà, lập nên triều Nguyễn, truyền được 13 đời vua. Kế tục sự nghiệp mở nước của Thế Tổ Gia Long, vua Minh Mạng đã có công dẹp những vụ làm mưa làm gió ở Bắc và Nam, cũng như chống cự ngoại xâm ( Xiêm ), chiếm Chân Lạp, bảo lãnh Ai Lao .
Về nội trị, vua kiểm soát và chấn chỉnh pháp luật, chính sách, làm thành một nước có kỷ cương, văn hiến. Trong việc bảo vệ phong tục, vua đã chạm đến niềm tin bảo thủ của người dân miền Bắc, tức là cấm đàn bà mặc váy :
Tháng sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Ði thì phải lột quần chồng sao đang?
Dưới triều vua Tự Ðức, nhiều biến cố trọng đại đã xảy ra. Từ những vụ làm mưa làm gió ở miền Bắc, chủ trương phù Lê, như giặc Châu Chấu ( có Cao Bá Quát làm quốc sư ), Cai Tổng Vàng ở TP Bắc Ninh, giặc Khách ở Cao Bằng. Ở triều đình, có người anh vua Tự Ðức là Hồng Bảo, thủ đoạn đoạt ngôi nhưng thất bại. Năm 1886, nhân ngày vua Tự Ðức cho xây Khiêm Lăng ở Vạn Niên ( Huế ), ba đồng đội họ Ðoàn ( Ðoàn Trưng, Ðoàn Trực, Ðoàn Ái ) khai thác nỗi oán hận của người dân phải đi làm phu gian lao khó khăn vất vả, nổi dậy chống triều đình. Họ khích động dân bằng câu ca dao :
Vạn niên là Vạn niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.
Trong cuộc khởi nghĩa nầy, họ Ðoàn tôn Ðinh Ðạo ( con của Hồng Bảo – cải họ Ðinh, sau khi Hồng Bảo bị tội, tự thắt cổ chết ) làm minh chụ Vụ này cũng không thành công xuất sắc. Ngoài những vụ làm mưa làm gió, triều vua Tự Ðức còn phải đối phó với cuộc xâm lăng của người Pháp .
Tự Ðức là ông vua có tinh thần bảo thủ, từ khước đề nghị canh tân của các sĩ phu, nhất là Nguyễn Trường Tộ, nên vận nước có chiều suy vong. Vua Tự Ðức chỉ là một nho sĩ thuần túy, có tiếng hay chữ nhất triều Nguyễn, ưa thích thi văn, ngâm vịnh. Dưới triều vua, có ông Lê Ngô Cát là một danh sĩ, đã soạn một bộ sử bằng văn vần là “Ðại Nam Quốc Sử Diễn Ca”. Soạn xong, ông dâng lên vua Tự Ðức ngự lãm. Vua xem rồi ban thưởng cho ông Cát:
Vua khen thằng Cát nó tài
Ban một cái khố với hai đồng tiền
Việc ban thưởng này, có lẽ rằng do chuyện buôn chuyện giữa những đồng liêu với ông Cát ở triều đình, nhưng lại lọt ra ngoài, nên dân gian đã có lời phẩm bình mỉa mai trên, cho rằng vua Tự Ðức không quí trọng văn tài của người khác .
Sau khi vua Tự Ðức mất, quyền hành ở triều đình Huế thuộc về hai ông Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường. Hai ông này trong bốn tháng đã phế và lập 3 vua : Dục Ðức, Hiệp Hòa và Kiến Phúc. Cho nên thời đó, trong dân gian có câu, giữa lúc có sự tranh chấp giữa Pháp và Việt :
Nhất giang lưỡng quốc nan phân THUYẾT
Tứ nguyệt tam vương triệu bất TƯỜNG
Nghĩa là : Một sông hai nước ( Việt – Pháp ) không hề thương thuyết, bốn tháng ba vua điềm chẳng lành. ( cuối 2 câu có tên hai ông Thuyết và Tường ) .
Thời gian triều đình Huế khởi xướng công cuộc chống Pháp với những đại thần và những tướng lãnh, dù có tận tâm nhưng thiếu kinh nghiệm tay nghề chỉ huy cuộc chiến tranh, nên dân chúng đã có lời bình phẩm có phần khắc nghiệt :
Nước Nam có bốn anh hùng
Tường gian Viêm dối Khiêm khùng Thuyết ngu
Tường là Nguyễn Văn Tường, trước sát cánh với Tôn Thất Thuyết chống Pháp, sau ra hàng. Viêm là Hoàng Kế Viêm, trước cũng chống Pháp, sau được vua Ðồng Khánh phục chức và sai đi dụ hàng vua Hàm Nghị Khiêm là Ông Ích Khiêm, một vị quan thời Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường chuyên quyền, vì tính khẳng khái, không luồn cúi cấp trên, làm phật ý hai ông Tường, Thuyết nên bị giam vào ngục. Dân gian nói ông Khiêm “ khùng vì có tính khí khác thường, ngang bướng, không chịu khuất phục cường quyền. Và “ Thuyết ngu ”, ý niệm cho rằng ông Thuyết là một kẻ “ hữu dũng vô mưu ”. Dù sao, dư luận quần chúng cũng chê hai kẻ gian dối và khen hai người trung can, nghĩa khí .
Thời Pháp xâm lược nước ta, dân cư không khỏi buồn lòng nhìn thế sự rối reng :
Ðêm đêm chớp bể mưa nguồn
Hỏi người quân tử có buồn chăng ai?
Nhất là cảnh quốc phá gia vong với một triều đại suy tàn :
Một nhà sinh đặng ba vua
Vua còn (Ðồng Khánh) vua mất (Kiến Phúc) vua thua chạy dài (Hàm Nghi)
Tuy thua chạy dài, nhưng vua Hàm Nghi với sự phù trợ của Tôn Thất Thuyết và những trung thần, nghĩa sĩ đã phát hịch lôi kéo nhân dân hưởng ứng chống Pháp, khởi xướng trào lưu Cần Vương ở khắp nơị Tình trạng trong nước Việt lúc bấy giờ đã phân hóa làm hai :
Gẫm xem thế sự thêm rầu
Ở giữa Ðồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi
Ở giữa, tức là kinh đô Huế, hai đầu là Nghệ Tĩnh và Nam Ngãi, nơi tăng trưởng trào lưu Cần Vương .
Tinh thần ái quốc của người Việt vẫn liên tục sôi nổị Dù công cuộc chống Pháp của vua Hàm Nghi bị thất bại, nhưng đến đời vua Thành Thái, thủ đoạn chống Pháp vẫn bí mật trong trí vị vua đã từng giả điên giả cuồng để tránh mắt dò xét của người Pháp. Dân gian phát hiện một hành vi của vị vua yêu nước này, mà người ta tưởng lầm là hành vi bất chính, khi vua vốn mang tiếng điên khùng :
Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi
Tương truyền vua Thành Thái có tổ chức triển khai một đội nữ binh ở ngoài thành phố, một khu vực bí hiểm ở vùng Kim Long và giao cho một vị tướng đảm nhiệm giảng dạy để chờ dịp khởi nghĩa. Nhiều đêm vua xuất cung vi hành để đến xem xét tác dụng của việc huấn luyện và đào tạo đó .
Vua Duy Tân lên làm vua lúc mới 8 tuổi, nhưng lớn lên có chí khí và có lòng yêu nước mãnh liệt. Cũng như vua Thành Thái, vua Duy Tân có ý chống Pháp. Vua thường ra ngoài hoàng cung để xem xét dân tình và tìm cách liên lạc với những nhân sĩ. Ði đi dạo trên bãi biển, tay vấy cát, người hầu lấy nước cho vua rửa. Vua nói : “ Tay nhớp ( bẩn ) lấy nước rửa, thế nước nhớp lấy gì mà rửa ? ” .
Phong trào Văn Thân bí hiểm liên lạc với vua để tìm phương cứu quốc. Năm 1915, đảng Nước Ta Quang Phục cử Trần Cao Vân và Thái Phiên hợp tác với vua mưu đồ khởi sư Họ hẹn gặp nhau trên bờ sông Ngự Hà, giả làm người đi câu để tránh tai mắt địch. Rồi mưu đồ phục quốc của vua Duy Tân cũng bị thất bại và vua phải đi đàỵ Người dân Huế thương tiếc vua cùng những nghĩa sĩ Trần Cao Vân và Thái Phiên đã hiến thân vì nước :
Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng
Và trên dòng Hương Giang, nhiều năm sau, trên những chuyến đò dọc, người ta còn nghe mấy câu hò trầm thống, bi đát, đầy tâm sự của kẻ mang tham vọng cứu nước không thành :
Trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu
Ai sầu ai thảm
Ai thương ai cảm
Ai nhớ ai mong
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
° ° °
Như trên đã nói, ca dao là phản ảnh một phần nào dư luận của quần chúng Nước Ta so với những hiện tượng kỳ lạ trong xã hội ở thời kỳ những phương tiện đi lại truyền thông online bằng văn tự chưa tăng trưởng .
Với người dân, những hành vi của giới cầm quyền, cũng như hành vi của những nhân vật trong nước, đều phải chịu sự bình phẩm, phán xét của công luận. Những hành vi có đạo đức, thiện tâm được khen ngợi, ca tụng, trái lại xấu xa, đê tiện đều bị chê bai, nguyền rủa .
Trăm năm bia đá cũng mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
Ca dao, nhất là loại ca dao có tương quan đến lịch sử Nước Ta là tấm bia miệng để đời cho người ta ghi nhớ, là tấm gương cho nhiều thế hệ soi chung và bản thân những câu ca dao đó cũng là những phán xét của lịch sử .
Phương Nghi
Original
Chia sẻ với bạn bè:
Thích bài này:
Thích
Đang tải …
Có liên quan
Source: https://evbn.org
Category: Địa Danh