Bình luận về quan điểm nghệ thuật của Nam Cao pps – Tài liệu text

Bình luận về quan điểm nghệ thuật của Nam Cao pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.18 KB, 10 trang )

Bình luận về quan điểm nghệ
thuật của Nam Cao

Đề: Trong truyện ngắn “Đời thừa”, Nam Cao viết : “Văn chương
không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu
đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu,
biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì
chưa có”

Hãy bình luận ý kiến trên và phân tích một số tác phẩm của Nam
Cao để làm sáng tỏ quan điểm nghệ thuật đó
BÀI LÀM

“Đời thừa” là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu của Nam
Cao về đề tài người trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng tháng Tám. Đó
là câu chuyện về sự giằng xé đến bi kịch của một nhà văn giàu khát
vọng nhưng đồng thời cũng là một tuyên ngôn nghệ thuật có giá trị. Qua
nhân vật Hộ – nhân vật nhà văn trong tác phẩm – Nam Cao đã gởi gắm
những suy tư và những quan niệm sâu sắc của mình về nghề văn và sứ
mạng của người cầm bút chân chính. Ông viết: “Văn chương không cần
đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn
chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”.

Câu nói ngắn gọn nhưng đã thâu tóm những yêu cầu thật là gắt gao,
nghiêm túc đối với người sáng tác văn chương. “Văn chương không cần
đến những người thợ khéo tay làm theo một kiểu mẫu đưa cho” là cách
diễn tả hình ảnh, ám chỉ thứ văn chương đẽo gọt, khuôn sáo, hời hợt,
một thứ văn chụp ảnh hoặc minh họa giản đơn. “Người thợ” dù là
“người thợ khéo tay” thì cũng chỉ sản xuất ra những thành phẩm hàng

loạt theo mẫu mã có sẵn, dù có khéo léo cũng chỉ là một hình thức bắt
chước, theo khuôn mẫu. Lao động của nhà văn thì khác hẳn. Đó là quá
trình nghiền ngẫm, khám phá, tìm tòi những nội dung mới và hình thức
diễn tả mới để tạo ra những sản phẩm độc nhất vô nhị của riêng mình,
mang bản sắc độc đáo của từng nghệ sĩ. Trong một truyện ngắn khác,
(truyện “Những chuyện không muốn viết”) Nam Cao cũng đã diễn đạt
một cách thật là đặc thù hình ảnh lao động của nghề văn: “cái nghề văn
kị nhất là cái lối thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào” tức là nó
tối kị sự sao chép, bắt chước. Với một yêu cầu thật nghiêm khắc về
nghề, nhà văn quan niệm:

“Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi
những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những cái gì chưa có”.

Đúng vậy. Mọi nghệ sĩ chân chính, có tài năng đều khao khát sáng tạo ra
được những tác phẩm chân chính, sâu sắc. Nhưng không bao giờ họ
bằng lòng với lối sao chép, rập khuôn hay phản ánh hiện thực cuộc sống
trên bề mặt của nó. Nhà văn phải là người có cái nhìn nhạy bén và sâu
xa hơn người để phát hiện những vấn đề sâu kín ở bề sâu của đời sống
để đem đến cho người đọc những khía cạnh mới, những vấn đề mới đầy
bất ngờ, sâu sắc, thú vị, có khả năng đánh thức vào trí tuệ trái tim, làm
phong phú tâm hồn, thậm chí có thể làm thay đổi những thói quen,
những nếp nghĩ thông thường. Mỗi sáng tạo của một nhà văn tài năng
phải là một tìm tòi mới, một khám phá mới.

Về thực chất, đây là một yêu cầu về tính chân thật trong sáng tạo nghệ
thuật chứ không phải là sự đi tìm của lạ một cách màu mè, hình thức. Đó
là một sự sáng tạo mang đậm nét bản sắc của chủ thể nghệ sĩ, mang dấu
ấn tinh thần của cá nhân nhà văn từ cách nhìn, cách nghĩ đến cách viết.
Đó chính là cá tính sáng tạo đã từng được đặt ra như một yêu cầu không

thể thiếu của sáng tác văn chương. Thiếu nó sẽ không có nghệ thuật.
Gorki ,nhà văn Nga, cũng đã từng nhất mạnh : “Bạn hãy giữ lấy cái gì là
của riêng mình, hãy săn sóc nó phát triển tự do. Lúc một nghệ sĩ không
có cái là của riêng mình thì phải thấy người đó không có gì hết”.

Ở đây, “cái riêng” không phải được hiểu như một phẩm chất, không chỉ
tự nhiên mà có, nó phải được trau dồi, “săn sóc”, “phát triển”, “tìm tòi”,
“đào sâu” không ngừng. Nghệ thuật bắt đầu từ thiên bẩm. Nhưng chỉ
thiên bẩm không thôi cũng sẽ không có nghệ thuật. Nhà văn Nga
L.Tolstoi cũng đã từng nói : “một phần mười là thiên bẩm còn chín phần
mười là nước mắt, mồ hôi”. Người ta cũng ví nhà văn như người “trinh
sát” như nhà “địa chất”, với ý nghĩa nhấn mạnh vai trò khám phá, tìm
tòi, phát hiện… đầy thử thách, gian khổ, có khi cần cả đến sự hy sinh
của người nghệ sĩ.

Khám phá cho được sự thật,” đào sâu, tìm tòi, khơi được những nguồn
chưa ai khơi” đã là khó. Những quan niệm nghệ thuật của Nam Cao
không chỉ dừng ở đó. Nghệ thuật còn đòi hỏi “sáng tạo những gì chưa
có” nữa. Đây cũng là một quan niệm rất đúng đắn về bản chất của sự
sáng tạo nghệ thuật. Đó là “sự sáng tạo theo quy luật của cái đẹp” như
Marx đã từng nói, là sự thể hiện cái thế giới ao ước, khát khao của con
người. Cách đây khoảng 2400 năm về trước, nhà mĩ học người Hy Lạp
Aristote cũng đã từng nói: “Nhiệm vụ của nhà thơ không chỉ nói về cái
thực sự đã xảy ra mà cái lẽ ra có thể xảy ra”. Thơ là vậy,văn thực chất
cũng như vậy.

Nhà văn Hộ trong”Đời thừa” của Nam Cao cũng khao khát sáng tạo ra
những tác phẩm có giá trị, một tác phẩm “phải vượt lên trên tất cả các bờ
cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải
chứa đựng một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn

khởi, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho
người gần người hơn”. Đó chính là hiện thực của khát vọng, là cái “lẽ
ra” mà Aristote đã nói và bao nhiêu nhà văn đã từng khao khát nhắn gửi
trong sáng tác của mình. Tuy nhiên, mỗi nhà văn có cá tính sáng tạo, sẽ
có cách thức thể hiện khác nhau, tùy thuộc vào tài năng bản lĩnh, vốn
sống, lý tưởng thẩm mĩ riêng biệt, độc đáo…

Như thế để thấy quan niệm của Nam Cao không phải hoàn toàn mới lạ.
Tuy nhiên, ở Nam Cao đó không phải là một nhận thức lý luận được
nhập cảng mà là một quan niệm được hình thành từ một cây bút có trách
nhiệm, có tài năng, luôn luôn băn khoăn trăn trở về nghề và đã trở thành
một ý thức thường trực, thành máu thịt, thành cảm hứng sáng tạo chi
phối ngòi bút trong hầu hết các sáng tác của mình.

Đọc Nam Cao, ta được tiếp nhận một phong cách nghệ thuật thật là độc
đáo, mới lạ: độc đáo từ cách phát hiện đề tài, xử lý đề tài đến hành văn,
giọng điệu, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ… Đến cả cái tên của nhân vật
mà ông chon lựa cũng chẳng giống ai. Đó không phải là những Lan,
những Ngọc, những Nhung, những Tuyết… mà là Lang Rận, Chí Phèo,
đĩ Chuột; là Lê Văn Rự, Trạch Văn Đoành… những cái tên mà chính tác
giả cũng thấy nó “như chọc vào lỗ tai”. Cả tên các tác phẩm nhiều khi
nghe cũng thật là ngộ nghĩnh (“Rình trộm”, “Tư cách mõ”, “Thôi, về đi”
v.v… và v.v…)

Tuy nhiên, cái độc đáo của Nam Cao bộc lộ chủ yếu ở cách thức nhà văn
đi sâu, tìm tòi, khám phá và diễn tả cái bề sâu của đời sống hiện thực.
Cũng như các nhà văn hiện thực khác, ngòi bút của ông chủ yếu cũng
hướng tới những con người bần cùng, khốn khổ. Ông không hề làm ngơ,
hờ hững trước chuyện rách áo, đói cơm vốn là một hiện thực phổ biến
thời bấy giờ. Nhiều chuyện ông viết về miếng cơm, manh áo thật cảm

động, xót xa, có thể làm rơi nước mắt… Nhưng trung tâm cảm hứng của
ngòi bút Nam Cao chủ yếu hướng về nỗi khổ đau, vất vả về đời sống
tinh thần, những nỗi đau xót âm thầm mà dữ dội, những bi kịch nội tâm,
những xung đột giằng xé trong từng con người, từng số phận, giữa cái
xấu và cái tốt, cái cao thượng và cái thấp hèn; cái nhân hậu vị tha và cái
ích kỷ, độc ác…

Ít có ngòi bút nào lách sâu đến chỗ tận cùng của xung đột âm thầm mà
dữ dội ấy như ngòi bút của Nam Cao. Ông ít miêu tả trực tiếp những
xung đột và đấu tranh giai cấp trên bề mặt của đời sống, ông thiên về
diễn tả những bi kịnh nội tâm với biết bao giằng xé, cắn rứt, tủi nhục, ân
hận trong từng con người. Đừng nghĩ rằng chỉ những trí thức tiểu tư sản
như Thứ (Sống mòn) như Điền (Trăng sáng), như Hộ (Đời thừa)… mới
có bi kịch nội tâm, mới có những vật lộn, ray rứt, ân hận… Ngay cả Chí
Phèo, một con người đã mất gần hết nhân tính, lúc tỉnh rượu cũng nhận
ra một trạng thái “dường như ăn năn…”- Lão Hạc xung quanh chuyện
bán con chó vàng cũng là cả một sự giằng xé âm thầm, dai dẳng… và
khi đã bán rồi thì lão “khóc hu hu” vì khổ đau, ân hận. Lão không chỉ
tiếc thương con chó, lão còn ân hận cắt rứt không thôi vì đã nỡ đánh lừa
một con chó.

Ít có ai phát hiện, thấu hiểu và diễn tả tinh tế nỗi đau khổ, dày vò về tinh
thần, những vẻ đẹp bên trong của những con người khốn khổ, tội
nghiệp… như ngòi bút của Nam Cao. Biệt tài của ông là khả năng khai
thác, diễn tả thật cảm động xung quanh những chi tiết tầm thường, vặt
vãnh, chẳng hạn: để mua cho con mấy tấm mía tốn một xu rưỡi, người
mẹ khốn khổ kia đã phải trải qua bao nhiêu tính toán, biện bạch, xót xa,
ân hận (Trẻ con không được ăn thịt chó) và ai biết trên đường đến nhà
mụ phó Thụ để “thăm cháu” – thực chất là để kiếm miếng ăn – người bà

đói khát kia đã suy nghĩ những gì? Ấn tượng của người đọc không phải
là nỗi đói khát mà là nỗi xót xa bà cụ đành cam chịu chuốc lấy để đổi lấy
miếng ăn nhục nhã (Một bữa no).

Trong dòng văn học hiện thực phê phán hiếm có cây bút nào diễn tả cái
tầm thường một cách xót xa và cảm động như thế. Viết về người nông
dân hay người tiểu tư sản trí thức, ngòi bút của Nam Cao vẫn trước sau
nhất quán. Đó là thái độ trân trọng, tin yêu đề cao nhân cách và phẩm
giá con người. Một mặt nó tố cáo, lên án xã hội làm biến chất, tha hóa
con người, mặt khác nó đánh thức tình yêu thương con người. Tác phẩm
Nam Cao không chỉ lên tiếng đòi cơm áo, nó còn dõng dạc đòi quyền
làm người lương thiện, quyền được ước mơ, quyền được sống xứng
đáng với cuộc sống con người…

Chủ nghĩa nhân văn của Nam Cao rõ ràng sâu sắc hơn các nhà văn cùng
thời với ông. Các nhà văn khác thiên về phản ánh nỗi đói khát bần cùng.
Nam Cao đi sâu hơn vào vấn đề tha hóa, biến chất bởi đói khát, bần
cùng, tàn bạo. Không phải chỉ Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức… mới
tha hóa. Bao nhiêu kẻ phàm ăn tục uống, đối xử thô bạo, tàn nhẫn với vợ
con cũng là những dấu hiệu biến chất, tha hóa. Những kẻ thâu đêm chầu
bên canh bạc như những kẻ khát nước để cầu vận may để rồi rơi vào
cảnh tan cửa nát nhà cũng đang tuột trên cái dốc của sự tha hóa. Cả
những người trí thức có mộng văn chương đẹp như Hộ mà cũng phải
cho in nhiều “cuốn sách viết vội vàng” để rồi người ta đọc và “quên
ngay sau khi đọc”. Đó là một kiểu tha hóa. Sự bần cùng đã xô đẩy bao
nhiêu số phận tuột trên cái dốc tha hóa theo nhiều kiểu như một qui luật
khó tránh khỏi. Không phải không có những con người trong bần cùng,
khốn quẩn vẫn giữ được thiên lương như Dì Hảo, như Lão Hạc, như anh
Đĩ Chuột… hoặc cuối cùng cũng trở lại thiên lương, nhưng số phận
những con người ấy mới đau đớn, bi kịch làm sao, và rốt cuộc không bị

tha hóa thì cũng rơi vào bế tắc, bần cùng, tự sát…

Chỉ ra qui luật của bần cùng, tha hóa vì đói rách nghèo hèn, tác phẩm
Nam Cao hầu hết đều thấm nhuần một tinh thần nhân văn, nhân đạo. Tác
phẩm của ông như một tiếng chuông cảnh tỉnh, góp phần thức tỉnh lương
tri. Sáng tạo ra nhân vật Thị Nở, một nhân vật thô kệch xấu xí đến ma
chê quỉ hờn, nhưng chỉ một chút quan tâm săn sóc âu yếm của con người
ấy, vẫn có thể đánh thức một bản tính người nơi Chí Phèo sống dậy.
Điều ấy cho thấy tình thương có một sức mạnh cảm hóa to lớn như thế
nào. Thị Nở xấu xí, nhưng qua nhân vật xấu xí này, Nam Cao lại gửi
gắm một khát vọng và một niềm tin mãnh liệt, đẹp đẽ: tình thương có
thể cứu vãn con người. Không phải chỉ mình Nam Cao nghĩ như thế,
nhưng sáng tạo ra một nhân vật như Thị Nở để gửi gắm lí tưởng thẩm
mĩ, ước mơ thì quả là một sự sáng tạo độc đáo, độc nhất vô nhị.

Đọc Nam Cao ta không chỉ bị thu hút bởi những vấn đề sâu sắc, độc đáo
mà nhà văn đưa ra, ta còn bị thu hút bởi một cách viết thật mới mẻ, hấp
dẫn. Các nhân vật của ông đi lại, ăn nói … như chính họ xuất hiện trước
mắt ta chứ chẳng phải là trên trang giấy. Nghĩa là các nhân vật sống
động, chân thực một cách kì lạ. Văn của ông có một giọng điệu thật đặc
biệt, phong phú, biến hóa, sắc lạnh tàn nhẫn mà xúc động thiết tha, mộc
mạc góc cạnh mà thâm trầm, triết lí… Truyện của ông mang màu sắc
hiện đại rõ rệt. Ông chú ý đến tình nhiều hơn là chuyện, nội tâm nhiều
hơn ngoại hình. Nhiều tác phẩm được tổ chức không theo trình tự thời
gian mà theo dòng hồi ức tâm lí.

Nam Cao thực sự đã đem lại cho văn học dân tộc một phong cách nghệ
thuật độc đáo, hấp dẫn… không thể trộn lẫn với bất cứ ai. Sáng tác của
ông quả là thống nhất tuyệt đối với quan niệm sáng tác văn chương của
ông.

loạt theo mẫu mã có sẵn, dù có khôn khéo cũng chỉ là một hình thức bắtchước, theo khuôn mẫu. Lao động của nhà văn thì khác hẳn. Đó là quátrình nghiền ngẫm, tò mò, tìm tòi những nội dung mới và hình thứcdiễn tả mới để tạo ra những mẫu sản phẩm độc nhất vô nhị của riêng mình, mang truyền thống độc lạ của từng nghệ sĩ. Trong một truyện ngắn khác, ( truyện “ Những chuyện không muốn viết ” ) Nam Cao cũng đã diễn đạtmột cách thật là đặc trưng hình ảnh lao động của nghề văn : “ cái nghề vănkị nhất là cái lối thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào ” tức là nótối kị sự sao chép, bắt chước. Với một nhu yếu thật nghiêm khắc vềnghề, nhà văn quan niệm : “ Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, biết tìm tòi, khơinhững nguồn chưa ai khơi, phát minh sáng tạo những cái gì chưa có ”. Đúng vậy. Mọi nghệ sĩ chân chính, có kĩ năng đều khao khát phát minh sáng tạo rađược những tác phẩm chân chính, thâm thúy. Nhưng không khi nào họbằng lòng với lối sao chép, rập khuôn hay phản ánh hiện thực cuộc sốngtrên mặt phẳng của nó. Nhà văn phải là người có cái nhìn nhạy bén và sâuxa hơn người để phát hiện những yếu tố sâu kín ở bề sâu của đời sốngđể đem đến cho người đọc những góc nhìn mới, những yếu tố mới đầybất ngờ, thâm thúy, mê hoặc, có năng lực thức tỉnh vào trí tuệ trái tim, làmphong phú tâm hồn, thậm chí còn hoàn toàn có thể làm biến hóa những thói quen, những nếp nghĩ thường thì. Mỗi phát minh sáng tạo của một nhà văn tài năngphải là một tìm tòi mới, một tò mò mới. Về thực ra, đây là một nhu yếu về tính chân thực trong sáng tạo nghệthuật chứ không phải là sự đi tìm của lạ một cách màu mè, hình thức. Đólà một sự phát minh sáng tạo mang đậm nét truyền thống của chủ thể nghệ sĩ, mang dấuấn ý thức của cá thể nhà văn từ cách nhìn, cách nghĩ đến cách viết. Đó chính là đậm chất ngầu phát minh sáng tạo đã từng được đặt ra như một nhu yếu khôngthể thiếu của sáng tác văn chương. Thiếu nó sẽ không có nghệ thuật. Gorki, nhà văn Nga, cũng đã từng nhất mạnh : “ Bạn hãy giữ lấy cái gì làcủa riêng mình, hãy săn sóc nó tăng trưởng tự do. Lúc một nghệ sĩ khôngcó cái là của riêng mình thì phải thấy người đó không có gì hết ”. Ở đây, “ cái riêng ” không phải được hiểu như một phẩm chất, không chỉtự nhiên mà có, nó phải được trau dồi, “ săn sóc ”, “ tăng trưởng ”, “ tìm tòi ”, “ đào sâu ” không ngừng. Nghệ thuật mở màn từ thiên bẩm. Nhưng chỉthiên bẩm không thôi cũng sẽ không có nghệ thuật. Nhà văn NgaL. Tolstoi cũng đã từng nói : “ một phần mười là thiên bẩm còn chín phầnmười là nước mắt, mồ hôi ”. Người ta cũng ví nhà văn như người “ trinhsát ” như nhà “ địa chất ”, với ý nghĩa nhấn mạnh vấn đề vai trò tò mò, tìmtòi, phát hiện … đầy thử thách, gian nan, có khi cần cả đến sự hy sinhcủa người nghệ sĩ. Khám phá cho được thực sự, ” đào sâu, tìm tòi, khơi được những nguồnchưa ai khơi ” đã là khó. Những ý niệm nghệ thuật của Nam Caokhông chỉ dừng ở đó. Nghệ thuật còn yên cầu “ phát minh sáng tạo những gì chưacó ” nữa. Đây cũng là một ý niệm rất đúng đắn về thực chất của sựsáng tạo nghệ thuật. Đó là “ sự phát minh sáng tạo theo quy luật của cái đẹp ” nhưMarx đã từng nói, là sự biểu lộ cái quốc tế ao ước, khát khao của conngười. Cách đây khoảng chừng 2400 năm về trước, nhà mĩ học người Hy LạpAristote cũng đã từng nói : “ Nhiệm vụ của nhà thơ không chỉ nói về cáithực sự đã xảy ra mà cái lẽ ra hoàn toàn có thể xảy ra ”. Thơ là vậy, văn thực chấtcũng như vậy. Nhà văn Hộ trong ” Đời thừa ” của Nam Cao cũng khao khát phát minh sáng tạo ranhững tác phẩm có giá trị, một tác phẩm “ phải vượt lên trên tổng thể những bờcõi và số lượng giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phảichứa đựng một cái gì đó lớn lao, can đảm và mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấnkhởi, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình … Nó làm chongười gần người hơn ”. Đó chính là hiện thực của khát vọng, là cái “ lẽra ” mà Aristote đã nói và bao nhiêu nhà văn đã từng khao khát nhắn gửitrong sáng tác của mình. Tuy nhiên, mỗi nhà văn có đậm cá tính phát minh sáng tạo, sẽcó phương pháp biểu lộ khác nhau, tùy thuộc vào năng lực bản lĩnh, vốnsống, lý tưởng thẩm mĩ riêng không liên quan gì đến nhau, độc lạ … Như thế để thấy ý niệm của Nam Cao không phải trọn vẹn mới lạ. Tuy nhiên, ở Nam Cao đó không phải là một nhận thức lý luận đượcnhập cảng mà là một ý niệm được hình thành từ một cây bút có tráchnhiệm, có kĩ năng, luôn luôn do dự trăn trở về nghề và đã trở thànhmột ý thức thường trực, thành máu thịt, thành cảm hứng phát minh sáng tạo chiphối ngòi bút trong hầu hết những sáng tác của mình. Đọc Nam Cao, ta được đảm nhiệm một phong thái nghệ thuật thật là độcđáo, mới lạ : độc lạ từ cách phát hiện đề tài, giải quyết và xử lý đề tài đến hành văn, giọng điệu, cấu trúc, nhân vật, ngôn từ … Đến cả cái tên của nhân vậtmà ông chon lựa cũng chẳng giống ai. Đó không phải là những Lan, những Ngọc, những Nhung, những Tuyết … mà là Lang Rận, Chí Phèo, đĩ Chuột ; là Lê Văn Rự, Trạch Văn Đoành … những cái tên mà chính tácgiả cũng thấy nó “ như chọc vào lỗ tai ”. Cả tên những tác phẩm nhiều khinghe cũng thật là ngộ nghĩnh ( “ Rình trộm ”, “ Tư cách mõ ”, “ Thôi, về đi ” v.v … và v.v … ) Tuy nhiên, cái độc lạ của Nam Cao thể hiện đa phần ở phương pháp nhà vănđi sâu, tìm tòi, mày mò và miêu tả cái bề sâu của đời sống hiện thực. Cũng như những nhà văn hiện thực khác, ngòi bút của ông hầu hết cũnghướng tới những con người nghèo khó, khốn khổ. Ông không hề làm ngơ, hờ hững trước chuyện rách nát áo, đói cơm vốn là một hiện thực phổ biếnthời bấy giờ. Nhiều chuyện ông viết về miếng cơm, manh áo thật cảmđộng, xót xa, hoàn toàn có thể làm rơi nước mắt … Nhưng TT cảm hứng củangòi bút Nam Cao hầu hết hướng về nỗi khổ đau, khó khăn vất vả về đời sốngtinh thần, những nỗi đau xót bí mật mà kinh hoàng, những thảm kịch nội tâm, những xung đột giằng xé trong từng con người, từng số phận, giữa cáixấu và cái tốt, cái hùng vĩ và cái thấp hèn ; cái nhân hậu vị tha và cáiích kỷ, gian ác … Ít có ngòi bút nào lách sâu đến chỗ tận cùng của xung đột bí mật màdữ dội ấy như ngòi bút của Nam Cao. Ông ít miêu tả trực tiếp nhữngxung đột và đấu tranh giai cấp trên mặt phẳng của đời sống, ông thiên vềdiễn tả những bi kịnh nội tâm với biết bao giằng xé, cắn rứt, tủi nhục, ânhận trong từng con người. Đừng nghĩ rằng chỉ những tri thức tiểu tư sảnnhư Thứ ( Sống mòn ) như Điền ( Trăng sáng ), như Hộ ( Đời thừa ) … mớicó thảm kịch nội tâm, mới có những vật lộn, ray rứt, ân hận … Ngay cả ChíPhèo, một con người đã mất gần hết nhân tính, lúc tỉnh rượu cũng nhậnra một trạng thái “ có vẻ như ăn năn … ” – Lão Hạc xung quanh chuyệnbán con chó vàng cũng là cả một sự giằng xé bí mật, dai dẳng … vàkhi đã bán rồi thì lão “ khóc hu hu ” vì khổ đau, ân hận. Lão không chỉtiếc thương con chó, lão còn ân hận cắt rứt không thôi vì đã nỡ đánh lừamột con chó. Ít có ai phát hiện, đồng cảm và diễn đạt tinh xảo nỗi đau khổ, dày vò về tinhthần, những vẻ đẹp bên trong của những con người khốn khổ, tộinghiệp … như ngòi bút của Nam Cao. Biệt tài của ông là năng lực khaithác, miêu tả thật cảm động xung quanh những chi tiết cụ thể tầm thường, vặtvãnh, ví dụ điển hình : để mua cho con mấy tấm mía tốn một xu rưỡi, ngườimẹ khốn khổ kia đã phải trải qua bao nhiêu giám sát, biện bạch, xót xa, ân hận ( Trẻ con không được ăn thịt chó ) và ai biết trên đường đến nhàmụ phó Thụ để “ thăm cháu ” – thực ra là để kiếm miếng ăn – người bàđói khát kia đã tâm lý những gì ? Ấn tượng của người đọc không phảilà nỗi đói khát mà là nỗi xót xa bà cụ đành cam chịu chuốc lấy để đổi lấymiếng ăn nhục nhã ( Một bữa no ). Trong dòng văn học hiện thực phê phán hiếm có cây bút nào miêu tả cáitầm thường một cách xót xa và cảm động như vậy. Viết về người nôngdân hay người tiểu tư sản tri thức, ngòi bút của Nam Cao vẫn trước saunhất quán. Đó là thái độ trân trọng, tin yêu đề cao nhân cách và phẩmgiá con người. Một mặt nó tố cáo, lên án xã hội làm biến chất, tha hóacon người, mặt khác nó thức tỉnh tình yêu thương con người. Tác phẩmNam Cao không chỉ lên tiếng đòi cơm áo, nó còn dõng dạc đòi quyềnlàm người lương thiện, quyền được tham vọng, quyền được sống xứngđáng với đời sống con người … Chủ nghĩa nhân văn của Nam Cao rõ ràng thâm thúy hơn những nhà văn cùngthời với ông. Các nhà văn khác thiên về phản ánh nỗi đói khát nghèo nàn. Nam Cao đi sâu hơn vào yếu tố tha hóa, biến chất bởi đói khát, bầncùng, tàn khốc. Không phải chỉ Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức … mớitha hóa. Bao nhiêu kẻ phàm ăn tục uống, đối xử thô bạo, tàn ác với vợcon cũng là những tín hiệu biến chất, tha hóa. Những kẻ thâu đêm chầubên canh bạc như những kẻ khát nước để cầu vận may để rồi rơi vàocảnh tan cửa nát nhà cũng đang tuột trên cái dốc của sự tha hóa. Cảnhững người tri thức có mộng văn chương đẹp như Hộ mà cũng phảicho in nhiều “ cuốn sách viết hấp tấp vội vàng ” để rồi người ta đọc và “ quênngay sau khi đọc ”. Đó là một kiểu tha hóa. Sự nghèo nàn đã xô đẩy baonhiêu số phận tuột trên cái dốc tha hóa theo nhiều kiểu như một qui luậtkhó tránh khỏi. Không phải không có những con người trong nghèo khó, khốn quẩn vẫn giữ được thiên lương như Dì Hảo, như Lão Hạc, như anhĐĩ Chuột … hoặc ở đầu cuối cũng trở lại thiên lương, nhưng số phậnnhững con người ấy mới đau đớn, thảm kịch làm thế nào, và rốt cuộc không bịtha hóa thì cũng rơi vào bế tắc, nghèo khó, tự sát … Chỉ ra qui luật của nghèo nàn, tha hóa vì đói rách nghèo hèn, tác phẩmNam Cao hầu hết đều thấm nhuần một tinh thần nhân văn, nhân đạo. Tácphẩm của ông như một tiếng chuông cảnh tỉnh, góp thêm phần thức tỉnh lươngtri. Sáng tạo ra nhân vật Thị Nở, một nhân vật thô kệch xấu xí đến machê quỉ hờn, nhưng chỉ một chút ít chăm sóc săn sóc âu yếm của con ngườiấy, vẫn hoàn toàn có thể thức tỉnh một bản tính người nơi Chí Phèo sống dậy. Điều ấy cho thấy tình thương có một sức mạnh cảm hóa to lớn như thếnào. Thị Nở xấu xí, nhưng qua nhân vật xấu xí này, Nam Cao lại gửigắm một khát vọng và một niềm tin mãnh liệt, đẹp tươi : tình thương cóthể cứu vãn con người. Không phải chỉ mình Nam Cao nghĩ như vậy, nhưng phát minh sáng tạo ra một nhân vật như Thị Nở để gửi gắm lí tưởng thẩmmĩ, tham vọng thì quả là một sự phát minh sáng tạo độc lạ, độc nhất vô nhị. Đọc Nam Cao ta không chỉ bị lôi cuốn bởi những yếu tố thâm thúy, độc đáomà nhà văn đưa ra, ta còn bị lôi cuốn bởi một cách viết thật mới lạ, hấpdẫn. Các nhân vật của ông đi lại, ăn nói … như chính họ Open trướcmắt ta chứ chẳng phải là trên trang giấy. Nghĩa là những nhân vật sốngđộng, chân thực một cách kì quặc. Văn của ông có một giọng điệu thật đặcbiệt, đa dạng chủng loại, biến hóa, sắc lạnh tàn ác mà xúc động thiết tha, mộcmạc góc cạnh mà thâm trầm, triết lí … Truyện của ông mang màu sắchiện đại rõ ràng. Ông quan tâm đến tình nhiều hơn là chuyện, nội tâm nhiềuhơn ngoại hình. Nhiều tác phẩm được tổ chức triển khai không theo trình tự thờigian mà theo dòng hồi ức tâm lí. Nam Cao thực sự đã đem lại cho văn học dân tộc bản địa một phong thái nghệthuật độc lạ, mê hoặc … không hề trộn lẫn với bất kỳ ai. Sáng tác củaông quả là thống nhất tuyệt đối với ý niệm sáng tác văn chương củaông .

Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn