Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế thế giới – Tài liệu text

Vai trò của thương mại quốc tế đối với sự phát triển kinh tế thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 36 trang )

CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỂ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Khái niệm, chức năng của hoạt động thương mại quốc tế:
1.1 Khái niệm:
Thương mại quốc tế(TMQT) là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế
trong đó diễn ra sự mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ hoặc các tài sản trí tuệ
giữa các chủ thể của quan hệ kinh tế quốc tế.
Điều kiện để thương mại quốc tế tồn tại và phát triển là:
– Có sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa-tiền tệ, kèm theo đó là sự xuất
hiện của tư bản thương nghiệp.
– Có sự ra đời của nhà nước và sự phát triển của phân công lao động quốc tế.
Ngoại thương đã xuất hiện từ thời cổ đại: dưới chế độ nhà nước chiếm
hữu nô lệ và tiếp đó là chế độ nhà nước phong kiến. Thời đó, do kinh tế tự nhiên
còn chiếm vị trí thống trị, nên thương mại quốc tế mang tính chất ngẫu nhiên,
phát triển với quy mô rất nhỏ, hẹp. Lưu thông hàng hóa quốc tế chỉ gồm một
phần nhỏ nhiều sản phẩm sản xuất ra và chủ yếu là để phục vụ cho tiêu dùng cá
nhân của giai cấp thống trị đương thời. Đến thời đại tư bản chủ nghĩa, thương
mại quốc tế mới phát triển rộng rãi. Các cuộc cách mạng lớn diễn ra trong
thương nghiệp ở thế kỷ XVI và XVII gắn liền với những phát kiến địa ký đã
dẫn tới sự phát triển nhanh chóng của tư bản thương nhân. Tính tất yếu nội tại
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phải tái sản xuất tren một quy mô
ngày càng lớn hơn để phát triển thu lợi nhuận. Điều đó, thúc đẩy thị trường thế
giới phải không ngừng mở rộng, thương mại quốc tế ngày càng phát triển. Ngày
nay càng có nhiều nước ở nhiều trình độ phát triển kinh tế- xã hội khác nhau
thuộc nhiều khu vực lãnh thổ khác nhau cùng tham gia vào mậu dịch quốc tế.
Nhất là trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay,thì thương
mại quốc tế càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của một nước.
1.2 Chức năng của hoạt động ngoại thương:
Chức năng của một ngành kinh tế là một phạm trù khách quan, được hình
thành trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Chức năng của thương mại quốc tế là lưu thông hàng hóa giữa trong nước và
nước ngoài.

1
Tuy vậy, cần phân biệt chức năng của thương mại quốc tế với tư cách là
một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, với tư cách là một lĩnh vực kinh tế.
Là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, thương mại quốc tế có thể
có các chức năng sau:
Thứ nhất, tạo vốn cho quá trình mở rộng đầu tư trong nước.
Thứ hai, chuyển hóa giá trị sử dụng làm thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước và thích ứng chúng
với nhu cầu tiêu dùng và tích lũy.
Thứ ba, góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo môi trường
thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh.
Là một lĩnh vực kinh tế đảm nhận lưu thông hàng hóa giữa trong nước và
ngoài nước, chức năng cơ bản của ngoại thương là: tổ chức chủ yếu quá trính
lưu thông hàng hóa với bên ngoài, thông qua mua bán để nối liền một cách hữu
cơ theo kế hoạch giữa thị trường trong và ngoài nước, thỏa mãn nhu cầu sản
xuất của xã hội về hàng hóa theo số lượng, chất lượng, mặt hàng, địa điểm và
thời gian phù hợp với chi phí thấp nhất.
Để thực hiện được chức năng quan trọng trên, thương mại quốc tế cần có
sự quản lý của nhà nước. Nhà nước quản lý hoạt động thương mại quốc tế theo
cơ chế thích hợp cho từng thời kỳ phát triển. Trong cơ chế quản lý kinh tê theo
mô hình kế hoạch hóa tập trung, quản lý Nhà nước về thương mại quốc tế hoàn
toàn khác với quản lý TMQT trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước trong việc mua bán hàng hóa, dịch vụ.
2. Các hình thức của thương mại quốc tế:
2.1 Thương mại quốc tế về hàng hóa
Thương mại quốc tế về hàng hóa là hình thức thương mại trong đó diễn ra việc
mua bán trao đổi các sản phẩm, hàng hóa thể hiện dưới dạng vật chất hữu hình.
Ví dụ: trao đổi hàng nông sản (gạo, cà phê, sữa ) nguyên liệu, nhiên liệu, thiết
bị máy móc… là những lĩnh vực quan trọng trong thương mại quốc tế về hàng
hóa.

2
2.2: Thương mại quốc tế về dịch vụ:
Thương mại quốc tế về dịch vụ là hình thức thương mại trong đó diễn ra
việc mua bán, trao đồi các sản phẩm vô hình, phi vật chất được thể hiện thông
qua các hoạt động của con người.
Một đặc điểm nổi bật của thương mại quốc tế hiện nay là vai trò ngày
càng tăng của hoạt động thương mại dịch vụ, với những lĩnh vực đa dạng như:
viễn thông, ngân hàng, tài chính, vận tải, bảo hiểm, du lịch, khách sạn, giải trí…
2.3 Thương mại quốc tế liên quan đến đầu tư:
Sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ gắn liền với hoạt động đẩu tư quốc tế. Hình
thức này ngày càng phổ biến với sự tăng trưởng mạnh mẽ của dòng vốn đầu tư
quốc tế và đặc biệt là sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia hiện nay.
2.4. Thương mại quốc tế liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ
Hoạt động thương mại này có đối tượng là các sản phẩm trí tuệ. Ví dụ:
quyền tác giả, tác phẩm, sáng chế, bí quyết công nghệ…
3. Các học thuyết cơ bản về Thương mại quốc tế:
3.1 Lợi thế tuyệt đối:
A. Smith là người đầu tiên đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của hoạt
động ngoại thương. Trong mô hình kinh tế cổ điển, chúng ta đã biết các nhà
kinh tế cổ điển cho đất đai là giới hạn của tăng trưởng. Khi nhu cầu lương thực
tăng lên, phải tiếp tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không đảm bảo được
lợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Các nhà kinh tế cổ
điển gọi đây là bức tranh đen tối của tăng trưởng. Trong điều kiện đó A. Smith
cho rằng có thể giải quyết bằng cách nhập khẩu lương thực từ nước ngoài với
giá rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai nước. Lợi ích này
được gọi là lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương.
Do đó, có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện so
sánh chi phí sản xuất để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm, khi một nước sản
3
xuất sản phảm có chi phí cao hơn có thế nhập sản phẩm đó từ nước khác có chi

phí sản xuất thấp hơn.
Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối với nước sản xuất sản phẩm có
chi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn khi bán trên thị trường
quốc tế. Còn đối với nước sản xuất sản phẩm với chi phí sản xuất cao sẽ có
được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không
đem lại lợi nhuận. Điều này gọi là bù đắp sự yêu kém về khả năng sản xuất
trong nước.
Ngày nay, đối với các nước đang phát triển việc khai thác lợi thế tuyệt
đối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có khả năng sản xuẩ một số loại sản
phẩm, đặc biệt là tư liệu sản xuất với chi phí chấp nhận được. Ví dụ, việc không
đủ khả năng sản xuất ra máy móc thiết bị là khó khăn lớn đối với các nước đang
phát triển, và là nguyên nhân dẫn tới đầu tư thấp. Như chúng ta đã biết, các
khoản tiết kiệm chưa thể trở thành vốn đầu tư chừng nào tư liệu sản xuất các
doanh nghiệp cần đến chưa có. Bởi vì các tư liệu sản xuất chưa sản xuất được
trong nước mà phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Khi tiến hành nhập những tư liệu sản xuất này, công nhân trong nước bắt
đầu học cách sử dụng máy móc thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họ
học cách sản xuất ra chúng. Về mặt này, vai trò đóng góp của ngoại thương giữa
các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển thông qua bù đắp
sự yếu kém về khả năng sản xuất tư liệu sản xuất và yếu kém về kiến thức công
nghệ của các nước đang phát triển cũng được đánh giá là lợi thế tuyệt đối.
Quan điểm
• Đề cao vai trò của các cá nhân và doanh nghiệp, ủng hộ một nền thương
mại tự do, không có sự can thiệp của chính phủ.
4
• Thấy được tính ưu việt của chuyên môn hóa
• Dùng lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần rất nhỏ trong mậu
dịch thế giới hiện nay.
Có thể minh họa lợi thế tuyệt đối bằng một ví dụ như sau: chúng ta giả
thuyết trường hợp của hai nước Hoa kỳ và Anh với việc 2 nước sản xuất 2 mặt

hàng là lúa mì và vải
Hoa Kỳ có lợi thế tuyệt đối so với Anh về sản xuất lúa mì.
Anh có lợi thế tuyệt đối so với Hoa Kỳ về sản xuất vải
3.2 Lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh):
Phát triển lý thuyết lợi thế tuyệt đối của hoạt động thương mại quốc tế D.
Ricardo đã nghiên cứu lợi thế này dưới góc độ chi phí so sánh để sản xuất ra sản
phẩm. Ví dụ, xét khả năng trao đổi sản phẩm giữa Việt Nam và Nga đối với hai
sản phẩm thép và quần áo.
Bảng 1: Chi phí sản xuất
Sản phẩm Chi phí sản xuất(ngày công theo lao động)
Việt Nam Nga
Thép(1 đơn vị) 25 16
Quần áo(1 đơn vị) 5 4
Xét theo chi phí sản xuất thì Việt Nam sản xuất thép và quần áo đều có chi phí
cao hơn Nga. Lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam không có khả năng xuất
khẩu sản phẩm nào sang Nga. Song nếu xét chi phí so sánh thì lại có cái nhìn
khác.
5
Bảng 2: Chi phí so sánh
Sản phẩm Chi phí so sánh
Việt Nam Nga
Thép( 1 đơn vị) 5 4
Quần áo(1đơnv ị) 1/5 1/4
Theo chi phí so sánh thì thấy rằng chi phí sản xuất thép của Việt Nam cao
hơn Nga: để sản xuất một đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo trong
khi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị. Nhưng ngược lại chi phí sản xuất quần áo ở Việt
Nam lại thấp hơn ở Nga, để sản xuất ra một đơn vị quần áo ở Việt Nam cần 1/5
đơn vị thép, trong khi ở Nga cần 1/4 đơn vị. Điều này chỉ ra rằng Việt Nam và
Nga có thể trao đổi sản phẩm cho nhau. Nga xuất khẩu thép sang Việt Nam và
Việt Nam xuất khẩu quần áo sang Nga. Việc trao đồi này đem lại lợi ích cho cả

hai nước.
Như vậy, lợi thế so sánh của thương mại quốc tế là khả năng nâng cao
mức sống và thu nhập thực tế của một nước thông qua việc mua bán, trao đồi
hàng hóa với nước khác dựa trên cơ sở chi phí so sánh để sản xuất hàng hóa.
3.3 Lợi thế nguồn lực của Hecksher- Ohlin
D. Ricardo đã đặt nền móng ban đầu cho việc lý giải sự hình thành quan
hệ thương mại giữa hai quốc gia, đó chính là sự khác nhau về giá cả sản phẩm
tính theo chi phí so sánh. Tuy vậy, ông chưa phân tích sâu về nguyên nhân của
6
sự khác nhau đó và chưa giải thích vì sao giữa các nước lại có chi phí so sánh
khác nhau. Để làm rõ điều này, hai nhà kinh tế người Thụy Điển là Eli
Heckscher và Bertil Ohlin đã phát triển lý thuyết lợi thế so sánh, được gọi là lý
thuyết Heckscher – Ohlin (H-O). Lý thuyết H-O cho rằng chính sự khác nhau về
mức độ sử dụng yếu tố để sản xuất sản phẩm là những nhân tố quan trọng quyết
định sự khác biệt về chi phí so sánh.
Xét lại ví dụ về quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nga, có thể giải
thích rằng: Việt Nam là nước tương đối sẵn có về lao động, Việt Nam sẽ sản
xuất và xuất khẩu hàng dệt may là mặt hàng cần nhiều lao động. Còn Nga là
nước tương đối sẵn có về vốn sẽ sản xuất và xuất khẩu thép, là mặt hàng cần
nhiều vốn. Lý thuyết H-O đã giải thích được sự có được lợi ich trong thương
mại quốc tế là do mỗi nước đều hướng đến chuyên môn hóa sản xuất vào các
ngành sử dụng nhiều yếu tố sẵn có trong nước. Như vậy, có thể có lợi thế so
sánh cho phép bất kỳ nước nào cũng có thể tăng thu nhập của mình thông qua
thương mại quốc tế, ngay cả khi một nước sản xuất mọi sản phẩm với chi phí
tuyệt đối thấp hơn một nước khác, bởi vì thị trường thế giới tạo ra cơ hôi để có
thể mua hàng hóa với giá tương đối rẻ so với giá đang được lưu hành trong
nước nếu không có thương mại quốc tế. Nội dung này xuất phát từ sự khác nhau
về chi phí so sánh để sản xuất sản phẩm.
7
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI

QUỐC TẾVÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ THẾ GIỚI (2001-2011)
1. Tình hình phát triển thương mại quốc tế:
1.1Tình hình phát triển TM hàng hóa
1.1.1 Kim ngạch XK
Giai đoạn 1990 – 2008, với sự ra đời của tổ chức Thương Mại Quốc Tế WTO
(1/1/1995) kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chức
tiền thân, GATT – Hiệp định chung về Thuế quan Thương mại, thế giới đã
chứng kiến một giai đoạn phát triển mạnh mẽ của giao thương quốc tế, khối
lượng hàng hóa được xuất khẩu ra thị trường thế giới liên tục tăng trong giai
đoạn này. Điều đó được thể hiện rất rõ qua bảng sau:
8
(Nguồn: Ban thư ký WTO)
Khối lượng hàng hóa xuất khẩu của thế giới liên tục tăng nhanh, từ 100
đơn vị năm 1990 lên gần gấp 3 lần là 280 đơn vị vào năm 2007. Tuy nhiên,
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 – 2009, bắt nguồn từ cú vỡ bong
bóng nhà đất tại Mĩ, và lan ra các nền kinh tế lớn, nhỏ toàn cầu. Cuộc khủng
hoảng đã làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tiền tệ của các ngân hàng hàng đầu thế
giới và dẫn đến sự phá sản của hàng loạt tập đoàn kinh tế, làm ảnh hưởng rất
lớn đến thương mại quốc tế, thế giới đã có một bước tụt lùi đáng kể, sản lượng
xuất khẩu hàng hóa của thế giới đã giảm xuống còn gần 250 năm 2009. Theo
nguồn từ ban thư ký WTO, năm 2009 GDP toàn cầu giảm khoảng 2,5% và tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của thế giới giảm mạnh khoảng 12% (Chart 1).
(Nguồn: Ban thư ký WTO)
9
Đến năm 2010, khi thế giới đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, thương
mại thế giới có xu thế tăng trưởng mạnh. Tổng hợp số liệu thống kê của 70 nền
kinh tế chiếm 90% thương mại toàn cầu cho thấy giá trị thương mại hàng hóa
toàn cầu trong quý II/2010 vừa qua đã tăng 25% so với quý I/2010, trong đó
xuất khẩu tăng 26% và nhập khẩu tăng 25%. Giá trị thương mại hàng hóa tăng

mạnh nhất là ở châu Á – khu vực kéo thế giới thoát khỏi khủng hoảng (37,5%)
và khu vực Bắc Mỹ (28,5%). Thương mại toàn cầu năm 2010 tăng 13,8% so
với năm 2009.
Sang năm 2011, một loạt các sự kiện và diễn biến xấu đã xảy ra gây cản
trở và thiệt hại không nhỏ cho thương mại Quốc tế. Các sự kiện có thể kể đến
như là khủng hoảng nợ công ở Châu Âu, một loạt các cuộc nổi dậy và chiến
tranh tại Châu Phi cụ thể là Libya… đã làm giảm nguồn cung dầu ra thế giới
khoảng 8%. Sóng thần tại Nhật Bản, lũ lụt lớn ở Thái Lan … các thảm họa tự
nhiên này đã tác động rất lớn đến chuỗi cưng ứng và sản xuất tại Nhật Bản và
Trung Quốc làm giảm khả năng cung ứng hàng hóa cho xuất khẩu Quốc tế.
Tất cả các sự kiện trên đã làm cho tình hình thương mại Quốc tế xấu đi
khá là nhiều, cụ thể tổng kim ngạch thương mại thế giới tăng trưởng chậm lại
còn 5%, một sự chậm lại rõ rệt, thấp hơn mức tăng trưởng bình quân giai đoạn
1990 – 2007 là 5.4%, chậm hơn rất nhiều so với năm 2010 là 13,8%. Tổng giá
trị kim ngạch thương mại hàng hóa thế giới năm 2011 đạt 18,2 ngàn tỷ USD,
vượt qua đỉnh cao trước đây là 16,1 ngàn tỷ USD năm 2008. Tuy là vượt đỉnh
xong phần lớn tăng trưởng là do giá cả hàng hóa thế giới tăng cao hơn trước chứ
không phải tăng về quy mô hay số lượng.
Đã bước qua năm 2011 nhưng châu Âu vẫn chìm trong khủng hoảng nợ,
Trung Quốc và Mỹ tăng trưởng chậm chạp, nước Nhật chưa hoàn toàn phục hồi
sau thảm họa động đất, sóng thần hồi đầu năm, lạm phát hoành hành ở khắp mọi
nơi. Triển vọng kinh tế toàn cầu 2012 sẽ là rất bếp bênh. Với những khó khăn
10
chung còn tồn tại, WTO dự báo thương mại quốc tế trong năm nay sẽ còn tăng
trưởng chậm hơn năm 2011 và có thể chỉ là 3,7%. Dù còn khó khăn xong vẫn
tăng trưởng, cả thế giới đang cùng lỗ lực khắc phục những khó khăn để đưa
kinh tế thế giới không lâm vào khủng hoảng mới, chúng ta cùng hy vọng vào
một tương lai tươi sáng của kinh tế thế giới và cả thương mại quốc tế trong
những năm sắp tới.
1.1.2 Cơ cấu sản phẩm XK

Khối lượng các loại hàng hóa được xuất khẩu ra thị trường thế giới được
tổng hợp từ các bảng sau:
(Nguồn: Ban thư ký WTO)
Biểu đồ tỷ trọng các loại hàng qua các năm
11

12
(Nguồn: Ban thư ký WTO)
Tổng giá trị xuất khẩu hàng năm liên tục tăng xong cơ cấu hàng hóa xuất
khẩu của thế giới nhìn chung những năm qua biến động không nhiều, hàng hóa
sản xuất vẫn chiếm phần lớn trong tổng kim ngạch hàng xuất khẩu của thế giới
13
(trên dưới 70%), tiếp đến là hàng nhiên liệu và khai thác mỏ (xấp xỉ 20%), hàng
nông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch ( khoảng 10%).
1.1.3 Kim ngạch xuất khẩu của các khu vực và 10 nước đứng đầu trong những
nước xuất khẩu
Trong năm 2011, khu vực xuất khẩu lớn nhất trên toàn thế giới là châu
Âu, chiếm 37% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới, đứng thứ 2 là khu vực
châu Á với 31%, thứ ba là Bắc Mỹ chiếm 13%, tiếp đến là khu vực Trung Đông
7%, Liên bang Nga và Nam Mỹ cùng chiếm 4%, cuối cùng là châu Phi 3%.
(Nguồn: Ban thư ký WTO)
Điểm đáng lưu ý nhất là các nước khu vực châu Á bao gồm các nền kinh
tế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ… trong những năm qua đã có sự tăng
trưởng xuất khẩu mạnh mẽ, dự báo trong tương lai gần khu vực này sẽ vươn lên
đứng đầu danh sách và là khu xuất khẩu lớn của toàn thế giới.
14
(Nguồn: Ban thư ký WTO)
Trong danh sách các nước đứng đầu kim ngạch xuất khẩu năm 2011 do
WTO công bố thì 10 nước, khu vực kinh tế đứng đầu lần lượt là: các nước ngoài
EU, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, LB Nga, Hồng Kông TQ, Canada,

Singapore, Ả rập Saudi… Nổi bật nhất là Trung Quốc đã vươn lên đứng thứ 2
vượt hai cường quốc là Mỹ và Nhật Bản.
15
Dưới đây là tình hình xuất nhập khẩu của một số nước, khu vực đứng đầu:
(Nguồn: Ban thư ký WTO)
16
1.2.Tình hình xuất khẩu thương mại dịch vụ
1.2.1 Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ
Trong giai đoạn 1990 – 1998, thương mại dịch vụ của thế giới tăng
6,4%/năm, cao hơn mức tăng trưởng 5,9% của thương mại hàng hóa (WTO,
1999, trích bởi OECD, 2000: 25).Tuy nhiên, thương mại dịch vụ ngày nay vẫn
chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch thương mại hàng hóa và dịch vụ
(OECD, 2000: 24).
Xu hướng gia tăng của thương mại dịch vụ có các đặc điểm sau:
Một là sự gia tăng không đều ở các nền kinh tế. Thương mại dịch vụ chủ
yếu tập trung ở các nền kinh tế phát triển. Năm 2004, 20 nền kinh tế phát triển
hàng đầu của thế giới chiếm đến 75% tổng xuất khẩu dịch vụ của thế giới; trong
đó 5 nền kinh tế hàng đầu (Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Đức) chiếm 39%; với Mỹ
đứng đầu, chiếm 15% tiếp theo là Anh chiếm 8,1% (FORFAS, 2006: 33).
Thương mại dịch vụ dường như còn là lợi thế của các nền kinh tế phát triển xét
theo cán cân thương mại. Thí dụ, kể từ năm 1971, Mỹ luôn đạt thặng dư trong
xuất khẩu dịch vụ. Năm 2005, thặng dư trong thương mại dịch vụ của Mỹ đã đạt
tới 56,3 tỷ USD (US service economy overview, web).1
Hai là thương mại của các ngành dịch vụ gia tăng không đều. Năm 2005,
nếu xét theo ba ngành lớn thì ngành giao thông vận tải chỉ chiếm 24% tổng kim
ngạch xuất khẩu dịch vụ, du lịch và lữ hành chiếm 29% còn các ngành còn lại
(trong đó có ngành dịch vụ kinh doanh) chiếm tới 48% (so với mức 35% năm
1980). Trong các ngành dịch vụ thì xuất khẩu dịch vụ máy tính và dịch vụ thông
tin tăng nhanh nhất, bình quân 20%/năm, tiếp đó là xuất khẩu dịch vụ bảo hiểm
(17%/năm) và dịch vụ tài chính (9,7%/năm). Xuất khẩu của các ngành giao

thông vận tải, du lịch và lữ hành, dịch vụ chính phủ và xây dựng đều tăng ở
dưới mức bình quân của xuất khẩu dịch vụ nói chung (FORFAS, 2006: 33).
17
Ba là phương thức “hiện diện thương mại” trong thương mại dịch vụ
ngày càng phổ biến. Xu hướng này hoàn toàn phù hợp với xu hướng gia tăng
FDI trong ngành dịch vụ. Theo ước tính của WTO, năm 2006 phương thức hiện
diện thương mại (phương thức 3) chiếm tới 50% hoạt động thương mại dịch vụ,
vượt xa các phương thức thương mại dịch vụquốc tế khác (phương thức 1: cung
cấp qua biên giới chiếm 35%, phương thức 2: tiêu dùng ở nước ngoài chiếm 10-
15% và phương thức 4: hiện diện của thể nhân: 1 – 2%) (FORFAS, 2006: 27).
Kế từ năm 1996, xuất khẩu dịch vụ của Mỹ theo phương thức 3 đã vượt quá
toàn bộ xuất khẩu dịch vụ theo các phương thức 1, 2 và 4, và đạt mức chênh
lệch 156,7 tỷ USD năm 2001. Còn nhập khẩu dịch vụ theo phương thức 3 của
Mỹ vượt nhập khẩu dịch vụ theo các phương thức 1, 2, 4 kể từ năm 1989 và đạt
mức chênh lệch 165,3 tỷ USD năm 2001 (USDOC, 2003: 59). Thương mại dịch
vụ cũng chịu tác động của nhiều yếu tố như đầu tư vào ngành dịch vụ nói trên.
Yếu tố cơ bản thúc đẩy thương mại dịch vụ là công nghệ thông tin đã tạo điều
kiện cho nhiều ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ kinh doanh, có khả năng mua
bán được (FORFAS, 2006: 31). Mặc dù vậy, tự do hóa thương mại dịch vụ vẫn
còn bị hạn chế do thương mại dịch vụ phức tạp hơn thương mại hàng hóa rất
nhiều nên khó thể có những biện pháp tự do hóa đồng loạt mà chỉ có các biện
pháp mở cửa theo ngành.
1.2.2 Kim ngạch từng nhóm hàng:
Bảng 3: xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thương mại của thế giới, 2005-11
18
Tỷ $ và % thay đổi hàng năm
Nguồn: Ban thư ký về hàng hóa của WTO và Ban thư ký về các dịch vụ thương
mại của UNCTAD
Dịch vụ thương mại xuất khẩu tăng từ 11% trong năm 2011 lên 4,1 nghìn
tỷ USD. Dịch vụ vận tải ghi nhận sự tăng trưởng chậm nhất trong bất kỳ loại

dịch vụ phụ nào (8%), tiếp theo là dịch vụ thương mại khác (11%) và du lịch
(12%).
Sự tăng trưởng chậm của dịch vụ vận tải có lẽ là không ngạc nhiên khi
xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa các loại dịch vụ và thương mại hàng hoá, đã
bị đình trệ trong nửa cuối năm 2011.
Du lịch thế giới vẫn tăng trưởng bất chấp khủng hoảng. Lượng khách du
lịch quốc tế năm 2011 ước đạt 980 triệu lượt khách, tăng gần 4,5% so với năm
2010. Bất chấp những khó khăn của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng
như tình hình bất ổn chính trị ở nhiều khu vực trên thế giới, du lịch quốc tế vẫn
tiếp tục tăng trưởng trong năm 2011. Tổng Thư ký Tổ chức Du lịch thế giới
thuộc Liên hợp quốc (UNWTO), ông Taleb Rifai, cho biết lượng khách du lịch
quốc tế ước đạt 980 triệu lượt khách, tăng gần 4,5% so với năm 2010 và dự kiến
tiếp tục tăng trưởng ở mức 4-5%, chạm mức kỷ lục 1 tỷ lượt khách trong năm
2012. Tuy nhiên, trong khi lượng khách du lịch tới châu Âu không ngừng tăng
thì du khách quốc tế lại bỏ qua những địa danh hút khách nổi tiếng ở Trung
Đông và Bắc Phi do tình hình bất ổn tại khu vực, khiến tốc độ phục hồi từ năm
2010 chững lại. Tăng trưởng du lịch của châu Á giảm khoảng 6%, giảm hơn 1/2
so với 13% của năm ngoái, chủ yếu do những tác động của thảm họa động đất –
sóng thần và sự cố hạt nhân ở Nhật Bản hồi tháng 3/2011.
Nhìn vào dữ liệu chúng ta thấy các ngành dịch vụ khác tăng trưởng khá
nhiều trong năm 2011. Các ngành xuất khẩu dịch vụ khác bao gồm: y tế,
internet, thương mại điện tử, tài chính – ngân hàng,…Các ngành này đóng vai
19
trò quan trọng trong việc xuất khẩu các dịch vụ song phương và đa phương giữa
các nước.
Châu âu là nên kinh tế tích hợp nhiều lĩnh vực tinh vi và cũng là nền kinh
tế xuất khẩu dịch vụ thương mại nhiều nhất thế giới. Khu vực này chiếm hơn
một nửa xuất khẩu dịch vụ toàn cầu. Thế giới vào giữa những thập niên 90 đã
chứng kiến hai sự phát triển tưởng trừng như riêng biệt nhưng trên thực tế lại có
liên quan đến nhau, đó là cuộc cách mạng công nghệ thông tin và truyền thông.

Chúng phát triển nhanh chóng trong những lực lượng toàn cầu thường được gọi
là công nghệ 3Ts (technology, transportability,and tradability ). Hai sự phát
20
triển đó đã tác động sâu sắc tới bản chất, năng suất của thương mại dịch vụ. Kết
quả của chúng trong sự tăng trưởng nhanh chóng của dịch vụ hiện đại là khách
quan và sự tiến bộ. Vd như CNTT, kinh doanh chế biến, dịch vụ giáo dục, sản
xuất…Các dịch vụ thương mại gia tăng nhanh chóng tương tự như đối với hàng
hóa sản xuất. Những ngành xuất khẩu dịch vụ tinh vi cung cấp cho sự tăng
trưởng dựa trên sự mở rộng cơ hội cho sự sáng tạo, tạo việc làm công nghệ cao.
Mỹ là quốc gia có tiềm lực kinh tế hàng đầu thế giới với hệ thống tài
chính rất hùng mạnh. xuất khẩu dịch vụ chiếm khoảng 1/3 tổng kim ngạch xuất
khẩu của Mỹ và tỷ lệ này đang tiếp tục tăng lên. Năm 2008, xuất khẩu dịch vụ
thương mại của Mỹ đạt hơn 500 tỷ USD. Trong đó, các dịch vụ kinh doanh,
nghề nghiệp và kỹ thuật chiếm phần lớn nhất lên tới 113 tỷ USD, bao gồm các
dịch vụ như quản lý và tư vấn, nghiên cứu và phát triển, công nghệ thông tin…
Các dịch vụ xuất khẩu khác của Mỹ phải kể tới bao gồm lữ hành và du lịch,
dịch vụ tài chính, điện ảnh Hollywood…
Tiền bản quyền cũng đóng góp một phần không nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu
chung của Mỹ. Chẳng hạn, một công ty ở Thụy Điển muốn sản xuất một loại
thuốc do một công ty Mỹ nghiên cứu ra tại New York sẽ phải trả phí để được
cấp phép. Năm 2010, tiền thu về từ quyền sở hữu trí tuệ như vậy đóng góp
104,5 tỷ USD vào kim ngạch xuất khẩu của Mỹ.
2. Tác động của thương mại quốc tế đối với sự phát triển:
2.1. Tác động tích cực:
2.1.1 Thương mại quốc tế là động lực để tăng trưởng kinh tế:
GDP của một quốc gia được xác định theo phương pháp chi tiêu và luồng
sản phẩm theo công thức:
GDP= C + I+ G + (X-M)
21
Như vậy theo công thức trên tổng thu nhập quốc dân phụ thuộc rất lớn

vào hoạt động xuất nhập khẩu ( hay ngoại thương) của nước đó. Đặc biệt là xuất
khẩu, song xuất khẩu lại phu thuộc vào nhập khẩu, vì thế giải quyết mối quan hệ
giữa xuất khẩu và nhập khẩu là vấn đề phức tạp nhưng rất quan trọng vì nó sẽ
tác động tích cực hay tiêu cực đến tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Xuất khẩu liên quan đến thu ngoại tệ còn nhập khẩu liên quan đến chi
ngoại tệ. Vì vậy, hoạt động xuất nhập khẩu tác động đến quỹ tiền tệ của đất
nước từ đó tác động đến tổng cầu của toàn nền kinh tế. Nếu xuất khẩu thuần
dương thì tổng cầu sẽ tăng, còn xuất khẩu thuần âm tổng cầu sẽ giảm. Tổng cầu
tăng làm nền kinh tế tăng, thương mại quốc tế phát triển, thị trường được mở
rộng, cho phép tăng chuyên môn hóa sản xuất, tiếp nhận công nghệ mới, khuyến
khích phát minh sáng chế nâng cao năng suất lao động dẫn tới tăng tổng sản
phẩm quốc dân. Đồng thời cho phép các quốc gai mở rộng sản xuất trên cơ sở
chuyên môn hóa một cách sâu sắc. Từ đó ngoại thương tạo điều kiện cho các
quốc gia mở rộng đường giới hạn khả năng sản xuất dịch chuyển ra xa hơn so
với đường giới hạn khả năng sản xuất cũ.
Để đánh giá tác động của ngoại thương vào tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc dân người ta sử dụng mối quan hệ tương quan giữa kim ngạch xuất khẩu
với GDP, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu so với GDP và tương quan xuất
khẩu so với nhập khẩu. Ngoài ra ảnh hưởng đó còn được tính toán bởi chí tiêu
tăng trưởng xuất nhập khẩu và tăng trưởng xuất khẩu vào 1% tăng trưởng GDP.
2.1.2 Thương mại quốc tế thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
mỗi quốc gia theo hướng tích cực:
Xu hướng có tính quy luật chung của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn chuyển một nền
kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp đều phải trải qua các bước:
Chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công- nông nghiệp để từ đó
22
chuyển sang nền kinh tế công nghiệp phát triển. Nội dung cụ thể của xu thế này
thể hiện ở tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm đi trong khi đó tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng trong tổng GDP, giai đoạn đầu tốc

độ tăng của công nghiệp sẽ cao hơn dịch vụ, nhưng giai đoạn sau,, khi nền kinh
tế đã phát triển cao, thì dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn.
Trong sự vận động chung, ngoại thương với các hoạt động xuất nhập
khẩu hàng hóa và dịch vụ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của nó tác động
đến toàn bộ quá trình tái sản xuất hàng hóa, từ sản xuất, lưu thông, phân phối
đến tiêu dùng. Đặc biệt đối với các ngành sản xuất vật chất cơ bản như công
nghiệp, nông nghiệp… ngoại thương đã tác động trực tiếp đến cả đầu vào và
đẩu ra của quá trình tái sản xuất, do đó đã góp phần thúc đẩy nhanh sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Ngoại thương cũng tạo ra các “ mối liên hệ ngược”, “ mối
liên hệ gián tiếp”, giữa các ngành, tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế năng
động.
2.1.3 Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế:
Cán cân thanh toán quốc tế là bản quyết toán tổng hợp toàn bộ các mối
quan hệ kinh tế đối ngoại của một nước, bao gồm các luồng hàng hóa, dịch vụ
và luồng vốn giữa các nước đó với các nước khác trong một thời kỳ nhất định.
Như vậy, cán cân thanh toán quốc tế là tấm gương phản chiếu mọi hoạt động
kinh tế đối ngoại của một nước với các nước khác và do đó nó đã được các
nước có nền kinh tế mở sử dụng như một công cụ đắc lực để phân tích và quản
lý vĩ mô các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Cơ cấu cán cân thanht oán quốc tế bao gồm các bộ phận chủ yếu: cán cân
ngoại thương ( còn gọi là cán cân mậu dịch hay cán cân hữu hình),cán cân dịch
vụ và cán cân chuyển tiền đơn phương không bồi hoàn( gọi chung là cán cân
phi mậu dịch hay cán cân vô hình), cán cân nguồn vốn…trong đó ngoại thương
hữu hình vẫn là hoạt động quan trọng nhất, do vậy cán cân ngoại thương giữ vị
23
trí quan trọng nhất trong tất cả các bộ phận cấu thành nên cán cân thanh toán
quốc tế. Đối với những nước đang phát triển có nền kinh tế mở quy mô nhỏ, thì
việc quan tâm trước hết đến cải thiện cán cân ngoại thương càng có ý nghĩa
quyết định đến cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Vì thực tế cho thấy, do xuất
phát điểm trình độ kinh tế xã hội của các nước này thấp, nên hiệu quả thu được

từ các hoạt động kinh tế đối ngoại khác thường khó đạt đến sự mong muốn ngay
như hiệu quả của hoạt động thương mại quốc tế, là hoạt động kinh tế đối ngoại
có thể tận dụng triệt để ngay các nguồn lực( lợi thế so sánh) mà các nước này
sẵn có.
Nếu hoạt động xuất nhập khẩu ổn định, cán cân thanh toán an toàn thì sẽ
giúp ổn định kinh tế vĩ mô của một quốc gia, tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi cho doanh nghiệp, tâm lý yên tâm làm ăn, sinh sống cho người dân.
2.1.4 Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống thực tế
cho các tầng lớp dân cư:
Có thể nói đây là tác dộng có ý nghĩa quan trọng nhất bởi mục tiêu cuối
cùng của sự tăng trưởng là con người, hướng tới con người. Con người vừa là
động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển.
Hoạt động ngoại thương thông qua cách giải quyết quan hệ xuất khẩu-
nhập khẩu có tác động trực tiếp đến việc làm và do đó, đến thu nhập và mức
sống thực tế của người dân.
Hiện nay, để phát triển kinh tế các nước đều cố gắng tận dụng mọi lợi thế
mà nước mình có được. Đối với các nươc đang phát triển thường có dân số
đông, lao động dư thừa nhiều, nhất là lao động của nền sản xuất hàng hóa còn
kém, vốn đầu tư cho phát triển thiếu. Vì thế, nên hướng sản xuất hàng hóa xuất
khẩu vào những ngành sử dụng lợi thế của đất nước. Khi xuất khẩu tăng trưởng
thường kéo theo sự gia tăng sản xuất trong nước. Cầu lao động tăng nhanh dẫn
24
tới giải quyết công ăn việc làm cho phần lớn lao động dư thừa. Người lao động
có việc làm tức là có thu nhập, bởi vậy mức sống của họ được cải thiện đáng kể.
Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu không chỉ đáp ứng cho sản xuất mà
còn cho cả tiêu dùng. Hàng nội vì phải cạnh tranh với hàng ngoại nên không
ngừng nâng cao chất lượng và hạ giá bán. Người được lợi ở đây chính là người
tiêu dùng ngày càng được sử dụng những hàng hóa đa chủng loại và chất lượng
cao.
2.2 Tác động tiêu cực

2.2.1 Có thể tạo ra những bất bình đẳng giữa các nước
Các quốc gia phát triển luôn đưa ra mở cửa thị trường, đẩy mạnh đầu tư,
chuyển giao công nghệ, nhưng thực tế khi quyền lợi bị xâm hại họ sẵn sàng đập
“cây gậy” chống bán phá giá, vi phạm sở hữu trí tuệ, vi phạm tiêu chuẩn kỹ
thuật một cách vô lý lên đầu bất cứ quốc gia nào mà họ cho là vi phạm (Điển
hình như vụ kiện chống bán phá giá cá basa của VN). Điều trớ trêu là những đối
tượng trực tiếp chịu những “cú đánh” này lại là những người nông dân nghèo,
những người vốn dĩ cuộc sống đã phải chịu quá nhiều khó khăn.
3.2.2 Gây ô nhiễm môi trường
Bên cạnh tác động tiêu cực về cạnh tranh bất bình đẳng, thương mại quốc
tế còn đem lại cho các quốc gia đang phát triển “nguồn tài nguyên dồi dào” –
rác thải. Những thứ mà các quốc gia phát triển thải ra: rác thải công nghiệp, y
tế, sinh hoạt… việc tái chế hay tiêu hủy trở nên đắt đỏ và ô nhiễm. Vì vậy, có
xu thế xuất khẩu những thứ này sang các quốc gia đang phát triển trong đó có
VN, biến những nơi này thành bãi rác, nơi tái chế và vùng ô nhiễm khổng lồ.
Chúng ta cảm tưởng những chiếc ô tô, ti vi, hay các máy móc được bán sang
VN với giá rẻ đó là một sự “cảm thông” của các quốc gia phát triển với những
nước nghèo. Sự thực là các quốc gia đang phát triển khó có thể nào chống lại
25
Tuy vậy, cần phân biệt tính năng của thương mại quốc tế với tư cách làmột khâu của quy trình tái sản xuất xã hội, với tư cách là một nghành nghề dịch vụ kinh tế tài chính. Là một khâu của quy trình tái sản xuất xã hội, thương mại quốc tế có thểcó các công dụng sau : Thứ nhất, tạo vốn cho quy trình lan rộng ra góp vốn đầu tư trong nước. Thứ hai, chuyển hóa giá trị sử dụng làm biến hóa cơ cấu tổ chức vật chất của tổng sảnphẩm xã hội và thu nhập quốc dân được sản xuất trong nước và thích ứng chúngvới nhu yếu tiêu dùng và tích góp. Thứ ba, góp thêm phần nâng cao hiệu suất cao của nền kinh tế tài chính bằng việc tạo môi trườngthuận lợi cho sản xuất, kinh doanh thương mại. Là một nghành kinh tế tài chính đảm nhiệm lưu thông sản phẩm & hàng hóa giữa trong nước vàngoài nước, công dụng cơ bản của ngoại thương là : tổ chức triển khai đa phần quá trínhlưu thông sản phẩm & hàng hóa với bên ngoài, trải qua mua và bán để nối tiếp một cách hữucơ theo kế hoạch giữa thị trường trong và ngoài nước, thỏa mãn nhu cầu nhu yếu sảnxuất của xã hội về sản phẩm & hàng hóa theo số lượng, chất lượng, mẫu sản phẩm, khu vực vàthời gian tương thích với ngân sách thấp nhất. Để thực thi được tính năng quan trọng trên, thương mại quốc tế cần cósự quản trị của nhà nước. Nhà nước quản trị hoạt động giải trí thương mại quốc tế theocơ chế thích hợp cho từng thời kỳ phát triển. Trong chính sách quản trị kinh tê theomô hình kế hoạch hóa tập trung chuyên sâu, quản trị Nhà nước về thương mại quốc tế hoàntoàn khác với quản trị TMQT trong cơ chế thị trường có sự quản trị của nhànước trong việc mua và bán sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ. 2. Các hình thức của thương mại quốc tế : 2.1 Thương mại quốc tế về hàng hóaThương mại quốc tế về sản phẩm & hàng hóa là hình thức thương mại trong đó diễn ra việcmua bán trao đổi các loại sản phẩm, sản phẩm & hàng hóa bộc lộ dưới dạng vật chất hữu hình. Ví dụ : trao đổi hàng nông sản ( gạo, cafe, sữa ) nguyên vật liệu, nguyên vật liệu, thiếtbị máy móc … là những nghành quan trọng trong thương mại quốc tế về hànghóa. 2.2 : Thương mại quốc tế về dịch vụ : Thương mại quốc tế về dịch vụ là hình thức thương mại trong đó diễn raviệc mua và bán, trao đồi các loại sản phẩm vô hình dung, phi vật chất được biểu lộ thôngqua các hoạt động giải trí của con người. Một đặc thù điển hình nổi bật của thương mại quốc tế lúc bấy giờ là vai trò ngàycàng tăng của hoạt động giải trí thương mại dịch vụ, với những nghành phong phú như : viễn thông, ngân hàng nhà nước, kinh tế tài chính, vận tải đường bộ, bảo hiểm, du lịch, khách sạn, vui chơi … 2.3 Thương mại quốc tế tương quan đến góp vốn đầu tư : Sự trao đổi sản phẩm & hàng hóa, dịch vụ gắn liền với hoạt động giải trí đẩu tư quốc tế. Hìnhthức này ngày càng phổ cập với sự tăng trưởng can đảm và mạnh mẽ của dòng vốn đầu tưquốc tế và đặc biệt quan trọng là sự phát triển của các công ty xuyên vương quốc lúc bấy giờ. 2.4. Thương mại quốc tế tương quan đến quyền sở hữu trí tuệHoạt động thương mại này có đối tượng người dùng là các mẫu sản phẩm trí tuệ. Ví dụ : quyền tác giả, tác phẩm, sáng tạo, tuyệt kỹ công nghệ tiên tiến … 3. Các học thuyết cơ bản về Thương mại quốc tế : 3.1 Lợi thế tuyệt đối : A. Smith là người tiên phong đưa ra kim chỉ nan về lợi thế tuyệt đối của hoạtđộng ngoại thương. Trong quy mô kinh tế tài chính cổ xưa, tất cả chúng ta đã biết các nhàkinh tế cổ xưa cho đất đai là số lượng giới hạn của tăng trưởng. Khi nhu yếu lương thựctăng lên, phải liên tục sản xuất trên những đất đai cằn cỗi, không bảo vệ đượclợi nhuận cho các nhà tư bản thì họ sẽ không sản xuất nữa. Các nhà kinh tế tài chính cổđiển gọi đây là bức tranh đen tối của tăng trưởng. Trong điều kiện kèm theo đó A. Smithcho rằng hoàn toàn có thể xử lý bằng cách nhập khẩu lương thực từ quốc tế vớigiá rẻ hơn. Việc nhập khẩu này sẽ mang lại quyền lợi cho cả hai nước. Lợi ích nàyđược gọi là lợi thế tuyệt đối của hoạt động giải trí ngoại thương. Do đó, hoàn toàn có thể nói lợi thế tuyệt đối là lợi thế có được trong điều kiện kèm theo sosánh chi phí sản xuất để sản xuất ra cùng một loại loại sản phẩm, khi một nước sảnxuất sản phảm có ngân sách cao hơn có thế nhập mẫu sản phẩm đó từ nước khác có chiphí sản xuất thấp hơn. Lợi thế này được xem xét từ hai phía, đối với nước sản xuất loại sản phẩm cóchi phí sản xuất thấp sẽ thu được nhiều doanh thu hơn khi bán trên thị trườngquốc tế. Còn đối với nước sản xuất mẫu sản phẩm với chi phí sản xuất cao sẽ cóđược mẫu sản phẩm mà trong nước không có năng lực sản xuất hoặc sản xuất khôngđem lại doanh thu. Điều này gọi là bù đắp sự yêu kém về năng lực sản xuấttrong nước. Ngày nay, đối với các nước đang phát triển việc khai thác lợi thế tuyệtđối vẫn có ý nghĩa quan trọng khi chưa có năng lực sản xuẩ 1 số ít loại sảnphẩm, đặc biệt quan trọng là tư liệu sản xuất với ngân sách gật đầu được. Ví dụ, việc khôngđủ năng lực sản xuất ra máy móc thiết bị là khó khăn vất vả lớn đối với các nước đangphát triển, và là nguyên do dẫn tới góp vốn đầu tư thấp. Như tất cả chúng ta đã biết, cáckhoản tiết kiệm chi phí chưa thể trở thành vốn góp vốn đầu tư chừng nào tư liệu sản xuất cácdoanh nghiệp cần đến chưa có. Bởi vì các tư liệu sản xuất chưa sản xuất đượctrong nước mà phải nhập khẩu từ quốc tế. Khi thực thi nhập những tư liệu sản xuất này, công nhân trong nước bắtđầu học cách sử dụng máy móc thiết bị mà trước đây họ chưa biết và sau đó họhọc cách sản xuất ra chúng. Về mặt này, vai trò góp phần của ngoại thương giữacác nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển trải qua bù đắpsự yếu kém về năng lực sản xuất tư liệu sản xuất và yếu kém về kỹ năng và kiến thức côngnghệ của các nước đang phát triển cũng được nhìn nhận là lợi thế tuyệt đối. Quan điểm • Đề cao vai trò của các cá thể và doanh nghiệp, ủng hộ một nền thươngmại tự do, không có sự can thiệp của chính phủ nước nhà. • Thấy được tính ưu việt của chuyên môn hóa • Dùng lợi thế tuyệt đối chỉ lý giải được một phần rất nhỏ trong mậudịch quốc tế lúc bấy giờ. Có thể minh họa lợi thế tuyệt đối bằng một ví dụ như sau : tất cả chúng ta giảthuyết trường hợp của hai nước Hoa kỳ và Anh với việc 2 nước sản xuất 2 mặthàng là lúa mì và vảiHoa Kỳ có lợi thế tuyệt đối so với Anh về sản xuất lúa mì. Anh có lợi thế tuyệt đối so với Hoa Kỳ về sản xuất vải3. 2 Lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh ) : Phát triển kim chỉ nan lợi thế tuyệt đối của hoạt động giải trí thương mại quốc tế D.Ricardo đã điều tra và nghiên cứu lợi thế này dưới góc nhìn ngân sách so sánh để sản xuất ra sảnphẩm. Ví dụ, xét năng lực trao đổi mẫu sản phẩm giữa Nước Ta và Nga đối với haisản phẩm thép và quần áo. Bảng 1 : Chi tiêu sản xuấtSản phẩm Ngân sách chi tiêu sản xuất ( ngày công theo lao động ) Nước Ta NgaThép ( 1 đơn vị chức năng ) 25 16Q uần áo ( 1 đơn vị chức năng ) 5 4X ét theo chi phí sản xuất thì Nước Ta sản xuất thép và quần áo đều có chi phícao hơn Nga. Lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Nước Ta không có năng lực xuấtkhẩu loại sản phẩm nào sang Nga. Song nếu xét ngân sách so sánh thì lại có cái nhìnkhác. Bảng 2 : giá thành so sánhSản phẩm giá thành so sánhViệt Nam NgaThép ( 1 đơn vị chức năng ) 5 4Q uần áo ( 1 đơnv ị ) 1/5 1/4 Theo ngân sách so sánh thì thấy rằng chi phí sản xuất thép của Nước Ta caohơn Nga : để sản xuất một đơn vị chức năng thép ở Nước Ta cần 5 đơn vị chức năng quần áo trongkhi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị chức năng. Nhưng ngược lại chi phí sản xuất quần áo ở ViệtNam lại thấp hơn ở Nga, để sản xuất ra một đơn vị chức năng quần áo ở Nước Ta cần 1/5 đơn vị chức năng thép, trong khi ở Nga cần 1/4 đơn vị chức năng. Điều này chỉ ra rằng Nước Ta vàNga hoàn toàn có thể trao đổi loại sản phẩm cho nhau. Nga xuất khẩu thép sang Nước Ta vàViệt Nam xuất khẩu quần áo sang Nga. Việc trao đồi này đem lại quyền lợi cho cảhai nước. Như vậy, lợi thế so sánh của thương mại quốc tế là năng lực nâng caomức sống và thu nhập trong thực tiễn của một nước trải qua việc mua và bán, trao đồihàng hóa với nước khác dựa trên cơ sở ngân sách so sánh để sản xuất sản phẩm & hàng hóa. 3.3 Lợi thế nguồn lực của Hecksher – OhlinD. Ricardo đã đặt nền móng bắt đầu cho việc lý giải sự hình thành quanhệ thương mại giữa hai vương quốc, đó chính là sự khác nhau về Chi tiêu sản phẩmtính theo ngân sách so sánh. Tuy vậy, ông chưa nghiên cứu và phân tích sâu về nguyên do củasự khác nhau đó và chưa lý giải vì sao giữa các nước lại có ngân sách so sánhkhác nhau. Để làm rõ điều này, hai nhà kinh tế tài chính người Thụy Điển là EliHeckscher và Bertil Ohlin đã phát triển kim chỉ nan lợi thế so sánh, được gọi là lýthuyết Heckscher – Ohlin ( H-O ). Lý thuyết H-O cho rằng chính vì sự khác nhau vềmức độ sử dụng yếu tố để sản xuất loại sản phẩm là những tác nhân quan trọng quyếtđịnh sự độc lạ về ngân sách so sánh. Xét lại ví dụ về quan hệ thương mại giữa Nước Ta và Nga, hoàn toàn có thể giảithích rằng : Nước Ta là nước tương đối sẵn có về lao động, Nước Ta sẽ sảnxuất và xuất khẩu hàng dệt may là loại sản phẩm cần nhiều lao động. Còn Nga lànước tương đối sẵn có về vốn sẽ sản xuất và xuất khẩu thép, là mẫu sản phẩm cầnnhiều vốn. Lý thuyết H-O đã lý giải được sự có được lợi ich trong thươngmại quốc tế là do mỗi nước đều hướng đến chuyên môn hóa sản xuất vào cácngành sử dụng nhiều yếu tố sẵn có trong nước. Như vậy, hoàn toàn có thể có lợi thế sosánh được cho phép bất kể nước nào cũng hoàn toàn có thể tăng thu nhập của mình thông quathương mại quốc tế, ngay cả khi một nước sản xuất mọi loại sản phẩm với chi phítuyệt đối thấp hơn một nước khác, chính do thị trường quốc tế tạo ra cơ hôi để cóthể mua sản phẩm & hàng hóa với giá tương đối rẻ so với giá đang được lưu hành trongnước nếu không có thương mại quốc tế. Nội dung này xuất phát từ sự khác nhauvề ngân sách so sánh để sản xuất mẫu sản phẩm. CHƯƠNG II : TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠIQUỐC TẾVÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂNKINH TẾ THẾ GIỚI ( 2001 – 2011 ) 1. Tình hình phát triển thương mại quốc tế : 1.1 Tình hình phát triển TM hàng hóa1. 1.1 Kim ngạch XKGiai đoạn 1990 – 2008, với sự sinh ra của tổ chức triển khai Thương Mại Quốc Tế WTO ( 1/1/1995 ) kế tục và lan rộng ra khoanh vùng phạm vi điều tiết thương mại quốc tế của tổ chứctiền thân, GATT – Hiệp định chung về Thuế quan Thương mại, quốc tế đãchứng kiến một tiến trình phát triển can đảm và mạnh mẽ của giao thương mua bán quốc tế, khốilượng sản phẩm & hàng hóa được xuất khẩu ra thị trường quốc tế liên tục tăng trong giaiđoạn này. Điều đó được bộc lộ rất rõ qua bảng sau : ( Nguồn : Ban thư ký WTO ) Khối lượng sản phẩm & hàng hóa xuất khẩu của quốc tế liên tục tăng nhanh, từ 100 đơn vị chức năng năm 1990 lên gần gấp 3 lần là 280 đơn vị chức năng vào năm 2007. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn thế giới năm 2008 – 2009, bắt nguồn từ cú vỡ bongbóng nhà đất tại Mĩ, và lan ra các nền kinh tế tài chính lớn, nhỏ toàn thế giới. Cuộc khủnghoảng đã làm sụp đổ hàng loạt mạng lưới hệ thống tiền tệ của các ngân hàng nhà nước số 1 thếgiới và dẫn đến sự phá sản của hàng loạt tập đoàn lớn kinh tế tài chính, làm ảnh hưởng tác động rấtlớn đến thương mại quốc tế, quốc tế đã có một bước tụt lùi đáng kể, sản lượngxuất khẩu sản phẩm & hàng hóa của quốc tế đã giảm xuống còn gần 250 năm 2009. Theonguồn từ ban thư ký WTO, năm 2009 GDP toàn thế giới giảm khoảng chừng 2,5 % và tổngkim ngạch xuất khẩu sản phẩm & hàng hóa của quốc tế giảm mạnh khoảng chừng 12 % ( Chart 1 ). ( Nguồn : Ban thư ký WTO ) Đến năm 2010, khi quốc tế đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, thươngmại quốc tế có xu thế tăng trưởng mạnh. Tổng hợp số liệu thống kê của 70 nềnkinh tế chiếm 90 % thương mại toàn thế giới cho thấy giá trị thương mại hàng hóatoàn cầu trong quý II / 2010 vừa mới qua đã tăng 25 % so với quý I / 2010, trong đóxuất khẩu tăng 26 % và nhập khẩu tăng 25 %. Giá trị thương mại sản phẩm & hàng hóa tăngmạnh nhất là ở châu Á – khu vực kéo quốc tế thoát khỏi khủng hoảng cục bộ ( 37,5 % ) và khu vực Bắc Mỹ ( 28,5 % ). Thương mại toàn thế giới năm 2010 tăng 13,8 % sovới năm 2009. Sang năm 2011, một loạt các sự kiện và diễn biến xấu đã xảy ra gây cảntrở và thiệt hại không nhỏ cho thương mại Quốc tế. Các sự kiện hoàn toàn có thể kể đếnnhư là khủng hoảng cục bộ nợ công ở Châu Âu, một loạt các cuộc nổi dậy và chiếntranh tại Châu Phi đơn cử là Libya … đã làm giảm nguồn cung dầu ra thế giớikhoảng 8 %. Sóng thần tại Nhật Bản, lũ lụt lớn ở xứ sở của những nụ cười thân thiện … các thảm họa tựnhiên này đã tác động ảnh hưởng rất lớn đến chuỗi cưng ứng và sản xuất tại Nhật Bản vàTrung Quốc làm giảm năng lực đáp ứng sản phẩm & hàng hóa cho xuất khẩu Quốc tế. Tất cả các sự kiện trên đã làm cho tình hình thương mại Quốc tế xấu đikhá là nhiều, đơn cử tổng kim ngạch thương mại quốc tế tăng trưởng chậm lạicòn 5 %, một sự chậm lại rõ ràng, thấp hơn mức tăng trưởng trung bình giai đoạn1990 – 2007 là 5.4 %, chậm hơn rất nhiều so với năm 2010 là 13,8 %. Tổng giátrị kim ngạch thương mại sản phẩm & hàng hóa quốc tế năm 2011 đạt 18,2 ngàn tỷ USD, vượt qua đỉnh điểm trước kia là 16,1 ngàn tỷ USD năm 2008. Tuy là vượt đỉnhxong phần nhiều tăng trưởng là do Chi tiêu sản phẩm & hàng hóa quốc tế tăng cao hơn trước chứkhông phải tăng về quy mô hay số lượng. Đã bước qua năm 2011 nhưng châu Âu vẫn chìm trong khủng hoảng cục bộ nợ, Trung Quốc và Mỹ tăng trưởng chậm rãi, nước Nhật chưa trọn vẹn phục hồisau thảm họa động đất, sóng thần hồi đầu năm, lạm phát kinh tế hoành hành ở khắp mọinơi. Triển vọng kinh tế tài chính toàn thế giới 2012 sẽ là rất nhà bếp bênh. Với những khó khăn10chung còn sống sót, WTO dự báo thương mại quốc tế trong năm nay sẽ còn tăngtrưởng chậm hơn năm 2011 và hoàn toàn có thể chỉ là 3,7 %. Dù còn khó khăn vất vả xong vẫntăng trưởng, cả quốc tế đang cùng lỗ lực khắc phục những khó khăn vất vả để đưakinh tế quốc tế không lâm vào khủng hoảng cục bộ mới, tất cả chúng ta cùng kỳ vọng vàomột tương lai tươi đẹp của kinh tế tài chính quốc tế và cả thương mại quốc tế trongnhững năm sắp tới. 1.1.2 Cơ cấu loại sản phẩm XKKhối lượng các loại sản phẩm & hàng hóa được xuất khẩu ra thị trường quốc tế đượctổng hợp từ các bảng sau : ( Nguồn : Ban thư ký WTO ) Biểu đồ tỷ trọng các loại hàng qua các năm1112 ( Nguồn : Ban thư ký WTO ) Tổng giá trị xuất khẩu hàng năm liên tục tăng xong cơ cấu tổ chức hàng hóa xuấtkhẩu của quốc tế nhìn chung những năm qua dịch chuyển không nhiều, hàng hóasản xuất vẫn chiếm phần nhiều trong tổng kim ngạch hàng xuất khẩu của thế giới13 ( xấp xỉ 70 % ), tiếp đến là hàng nguyên vật liệu và khai thác mỏ ( xê dịch 20 % ), hàngnông nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch ( khoảng chừng 10 % ). 1.1.3 Kim ngạch xuất khẩu của các khu vực và 10 nước đứng đầu trong nhữngnước xuất khẩuTrong năm 2011, khu vực xuất khẩu lớn nhất trên toàn quốc tế là châuÂu, chiếm 37 % tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc tế, đứng thứ 2 là khu vựcchâu Á với 31 %, thứ ba là Bắc Mỹ chiếm 13 %, tiếp đến là khu vực Trung Đông7 %, Liên bang Nga và Nam Mỹ cùng chiếm 4 %, sau cuối là châu Phi 3 %. ( Nguồn : Ban thư ký WTO ) Điểm đáng quan tâm nhất là các nước khu vực châu Á gồm có các nền kinhtế mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ … trong những năm qua đã có sự tăngtrưởng xuất khẩu can đảm và mạnh mẽ, dự báo trong tương lai gần khu vực này sẽ vươn lênđứng đầu list và là khu xuất khẩu lớn của toàn quốc tế. 14 ( Nguồn : Ban thư ký WTO ) Trong list các nước đứng đầu kim ngạch xuất khẩu năm 2011 doWTO công bố thì 10 nước, khu vực kinh tế tài chính đứng đầu lần lượt là : các nước ngoàiEU, Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Nước Hàn, LB Nga, Hồng Kông TQ, Canada, Nước Singapore, Ả rập Saudi … Nổi bật nhất là Trung Quốc đã vươn lên đứng thứ 2 vượt hai cường quốc là Mỹ và Nhật Bản. 15D ưới đây là tình hình xuất nhập khẩu của một số ít nước, khu vực đứng đầu : ( Nguồn : Ban thư ký WTO ) 161.2. Tình hình xuất khẩu thương mại dịch vụ1. 2.1 Kim ngạch xuất khẩu dịch vụTrong quá trình 1990 – 1998, thương mại dịch vụ của quốc tế tăng6, 4 % / năm, cao hơn mức tăng trưởng 5,9 % của thương mại sản phẩm & hàng hóa ( WTO, 1999, trích bởi OECD, 2000 : 25 ). Tuy nhiên, thương mại dịch vụ thời nay vẫnchỉ chiếm khoảng chừng 20 % tổng kim ngạch thương mại sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ ( OECD, 2000 : 24 ). Xu hướng ngày càng tăng của thương mại dịch vụ có các đặc thù sau : Một là sự ngày càng tăng không đều ở các nền kinh tế tài chính. Thương mại dịch vụ chủyếu tập trung chuyên sâu ở các nền kinh tế tài chính phát triển. Năm 2004, 20 nền kinh tế tài chính phát triểnhàng đầu của quốc tế chiếm đến 75 % tổng xuất khẩu dịch vụ của quốc tế ; trongđó 5 nền kinh tế tài chính số 1 ( Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Đức ) chiếm 39 % ; với Mỹđứng đầu, chiếm 15 % tiếp theo là Anh chiếm 8,1 % ( FORFAS, 2006 : 33 ). Thương mại dịch vụ có vẻ như còn là lợi thế của các nền kinh tế tài chính phát triển xéttheo cán cân thương mại. Thí dụ, kể từ năm 1971, Mỹ luôn đạt thặng dư trongxuất khẩu dịch vụ. Năm 2005, thặng dư trong thương mại dịch vụ của Mỹ đã đạttới 56,3 tỷ USD ( US service economy overview, web ). 1H ai là thương mại của các ngành dịch vụ ngày càng tăng không đều. Năm 2005, nếu xét theo ba ngành lớn thì ngành giao thông vận tải vận tải đường bộ chỉ chiếm 24 % tổng kimngạch xuất khẩu dịch vụ, du lịch và lữ hành chiếm 29 % còn các ngành còn lại ( trong đó có ngành dịch vụ kinh doanh thương mại ) chiếm tới 48 % ( so với mức 35 % năm1980 ). Trong các ngành dịch vụ thì xuất khẩu dịch vụ máy tính và dịch vụ thôngtin tăng nhanh nhất, trung bình 20 % / năm, tiếp đó là xuất khẩu dịch vụ bảo hiểm ( 17 % / năm ) và dịch vụ kinh tế tài chính ( 9,7 % / năm ). Xuất khẩu của các ngành giaothông vận tải đường bộ, du lịch và lữ hành, dịch vụ cơ quan chính phủ và kiến thiết xây dựng đều tăng ởdưới mức trung bình của xuất khẩu dịch vụ nói chung ( FORFAS, 2006 : 33 ). 17B a là phương pháp “ hiện hữu thương mại ” trong thương mại dịch vụngày càng thông dụng. Xu hướng này trọn vẹn tương thích với xu thế gia tăngFDI trong ngành dịch vụ. Theo ước tính của WTO, năm 2006 phương pháp hiệndiện thương mại ( phương pháp 3 ) chiếm tới 50 % hoạt động giải trí thương mại dịch vụ, vượt xa các phương pháp thương mại dịch vụquốc tế khác ( phương pháp 1 : cungcấp qua biên giới chiếm 35 %, phương pháp 2 : tiêu dùng ở quốc tế chiếm 10-15 % và phương pháp 4 : hiện hữu của thể nhân : 1 – 2 % ) ( FORFAS, 2006 : 27 ). Kế từ năm 1996, xuất khẩu dịch vụ của Mỹ theo phương pháp 3 đã vượt quátoàn bộ xuất khẩu dịch vụ theo các phương pháp 1, 2 và 4, và đạt mức chênhlệch 156,7 tỷ USD năm 2001. Còn nhập khẩu dịch vụ theo phương pháp 3 củaMỹ vượt nhập khẩu dịch vụ theo các phương pháp 1, 2, 4 kể từ năm 1989 và đạtmức chênh lệch 165,3 tỷ USD năm 2001 ( USDOC, 2003 : 59 ). Thương mại dịchvụ cũng chịu ảnh hưởng tác động của nhiều yếu tố như góp vốn đầu tư vào ngành dịch vụ nói trên. Yếu tố cơ bản thôi thúc thương mại dịch vụ là công nghệ thông tin đã tạo điềukiện cho nhiều ngành dịch vụ, đặc biệt quan trọng là dịch vụ kinh doanh thương mại, có năng lực muabán được ( FORFAS, 2006 : 31 ). Mặc dù vậy, tự do hóa thương mại dịch vụ vẫncòn bị hạn chế do thương mại dịch vụ phức tạp hơn thương mại sản phẩm & hàng hóa rấtnhiều nên khó thể có những giải pháp tự do hóa hàng loạt mà chỉ có các biệnpháp Open theo ngành. 1.2.2 Kim ngạch từng nhóm hàng : Bảng 3 : xuất khẩu sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ thương mại của quốc tế, 2005 – 1118T ỷ USD và % biến hóa hàng nămNguồn : Ban thư ký về sản phẩm & hàng hóa của WTO và Ban thư ký về các dịch vụ thươngmại của UNCTADDịch vụ thương mại xuất khẩu tăng từ 11 % trong năm 2011 lên 4,1 nghìntỷ USD. Thương Mại Dịch Vụ vận tải đường bộ ghi nhận sự tăng trưởng chậm nhất trong bất kể loạidịch vụ phụ nào ( 8 % ), tiếp theo là dịch vụ thương mại khác ( 11 % ) và du lịch ( 12 % ). Sự tăng trưởng chậm của dịch vụ vận tải đường bộ có lẽ rằng là không quá bất ngờ khixem xét mối quan hệ ngặt nghèo giữa các loại dịch vụ và thương mại hàng hoá, đãbị đình trệ trong nửa cuối năm 2011. Du lịch quốc tế vẫn tăng trưởng mặc kệ khủng hoảng cục bộ. Lượng khách dulịch quốc tế năm 2011 ước đạt 980 triệu lượt khách, tăng gần 4,5 % so với năm2010. Bất chấp những khó khăn vất vả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn thế giới cũngnhư tình hình không ổn định chính trị ở nhiều khu vực trên quốc tế, du lịch quốc tế vẫntiếp tục tăng trưởng trong năm 2011. Tổng Thư ký Tổ chức Du lịch thế giớithuộc Liên hợp quốc ( UNWTO ), ông Taleb Rifai, cho biết lượng khách du lịchquốc tế ước đạt 980 triệu lượt khách, tăng gần 4,5 % so với năm 2010 và dự kiếntiếp tục tăng trưởng ở mức 4-5 %, chạm mức kỷ lục 1 tỷ lượt khách trong năm2012. Tuy nhiên, trong khi lượng khách du lịch tới châu Âu không ngừng tăngthì hành khách quốc tế lại bỏ lỡ những địa điểm hút khách nổi tiếng ở TrungĐông và Bắc Phi do tình hình không ổn định tại khu vực, khiến vận tốc phục sinh từ năm2010 chững lại. Tăng trưởng du lịch của châu Á giảm khoảng chừng 6 %, giảm hơn 50% so với 13 % của năm ngoái, đa phần do những tác động ảnh hưởng của thảm họa động đất – sóng thần và sự cố hạt nhân ở Nhật Bản hồi tháng 3/2011. Nhìn vào tài liệu tất cả chúng ta thấy các ngành dịch vụ khác tăng trưởng khánhiều trong năm 2011. Các ngành xuất khẩu dịch vụ khác gồm có : y tế, internet, thương mại điện tử, kinh tế tài chính – ngân hàng nhà nước, … Các ngành này đóng vai19trò quan trọng trong việc xuất khẩu các dịch vụ song phương và đa phương giữacác nước. Châu âu là nên kinh tế tài chính tích hợp nhiều nghành nghề dịch vụ phức tạp và cũng là nền kinhtế xuất khẩu dịch vụ thương mại nhiều nhất quốc tế. Khu vực này chiếm hơnmột nửa xuất khẩu dịch vụ toàn thế giới. Thế giới vào giữa những thập niên 90 đãchứng kiến hai sự phát triển tưởng trừng như riêng không liên quan gì đến nhau nhưng trên thực tiễn lại cóliên quan đến nhau, đó là cuộc cách mạng công nghệ thông tin và tiếp thị quảng cáo. Chúng phát triển nhanh gọn trong những lực lượng toàn thế giới thường được gọilà công nghệ 3T s ( technology, transportability, and tradability ). Hai sự phát20triển đó đã tác động ảnh hưởng thâm thúy tới thực chất, hiệu suất của thương mại dịch vụ. Kếtquả của chúng trong sự tăng trưởng nhanh gọn của dịch vụ văn minh là kháchquan và sự văn minh. Vd như CNTT, kinh doanh thương mại chế biến, dịch vụ giáo dục, sảnxuất … Các dịch vụ thương mại ngày càng tăng nhanh gọn tương tự như như đối với hànghóa sản xuất. Những ngành xuất khẩu dịch vụ phức tạp cung ứng cho sự tăngtrưởng dựa trên sự lan rộng ra thời cơ cho sự phát minh sáng tạo, tạo việc làm công nghệ cao. Mỹ là vương quốc có tiềm lực kinh tế tài chính số 1 quốc tế với mạng lưới hệ thống tàichính rất hùng mạnh. xuất khẩu dịch vụ chiếm khoảng chừng 1/3 tổng kim ngạch xuấtkhẩu của Mỹ và tỷ suất này đang liên tục tăng lên. Năm 2008, xuất khẩu dịch vụthương mại của Mỹ đạt hơn 500 tỷ USD. Trong đó, các dịch vụ kinh doanh thương mại, nghề nghiệp và kỹ thuật chiếm phần đông nhất lên tới 113 tỷ USD, gồm có cácdịch vụ như quản trị và tư vấn, điều tra và nghiên cứu và phát triển, công nghệ thông tin … Các dịch vụ xuất khẩu khác của Mỹ phải kể tới gồm có lữ hành và du lịch, dịch vụ kinh tế tài chính, điện ảnh Hollywood … Tiền bản quyền cũng góp phần một phần không nhỏ trong kim ngạch xuất khẩuchung của Mỹ. Chẳng hạn, một công ty ở Thụy Điển muốn sản xuất một loạithuốc do một công ty Mỹ điều tra và nghiên cứu ra tại Thành Phố New York sẽ phải trả phí để đượccấp phép. Năm 2010, tiền thu về từ quyền sở hữu trí tuệ như vậy đóng góp104, 5 tỷ USD vào kim ngạch xuất khẩu của Mỹ. 2. Tác động của thương mại quốc tế đối với sự phát triển : 2.1. Tác động tích cực : 2.1.1 Thương mại quốc tế là động lực để tăng trưởng kinh tế tài chính : GDP của một vương quốc được xác lập theo giải pháp tiêu tốn và luồngsản phẩm theo công thức : GDP = C + I + G + ( X-M ) 21N hư vậy theo công thức trên tổng thu nhập quốc dân nhờ vào rất lớnvào hoạt động giải trí xuất nhập khẩu ( hay ngoại thương ) của nước đó. Đặc biệt là xuấtkhẩu, tuy nhiên xuất khẩu lại phu thuộc vào nhập khẩu, do đó xử lý mối quan hệgiữa xuất khẩu và nhập khẩu là yếu tố phức tạp nhưng rất quan trọng vì nó sẽtác động tích cực hay xấu đi đến tăng trưởng và phát triển kinh tế tài chính. Xuất khẩu tương quan đến thu ngoại tệ còn nhập khẩu tương quan đến chingoại tệ. Vì vậy, hoạt động giải trí xuất nhập khẩu tác động ảnh hưởng đến quỹ tiền tệ của đấtnước từ đó ảnh hưởng tác động đến tổng cầu của toàn nền kinh tế tài chính. Nếu xuất khẩu thuầndương thì tổng cầu sẽ tăng, còn xuất khẩu thuần âm tổng cầu sẽ giảm. Tổng cầutăng làm nền kinh tế tài chính tăng, thương mại quốc tế phát triển, thị trường được mởrộng, được cho phép tăng chuyên môn hóa sản xuất, tiếp đón công nghệ tiên tiến mới, khuyếnkhích ý tưởng sáng tạo nâng cao hiệu suất lao động dẫn tới tăng tổng sảnphẩm quốc dân. Đồng thời được cho phép các quốc gai lan rộng ra sản xuất trên cơ sởchuyên môn hóa một cách thâm thúy. Từ đó ngoại thương tạo điều kiện kèm theo cho cácquốc gia lan rộng ra đường số lượng giới hạn năng lực sản xuất di dời ra xa hơn sovới đường số lượng giới hạn năng lực sản xuất cũ. Để nhìn nhận tác động ảnh hưởng của ngoại thương vào tăng trưởng tổng sản phẩmquốc dân người ta sử dụng mối quan hệ đối sánh tương quan giữa kim ngạch xuất khẩuvới GDP, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu so với GDP và đối sánh tương quan xuấtkhẩu so với nhập khẩu. Ngoài ra ảnh hưởng tác động đó còn được thống kê giám sát bởi chí tiêutăng trưởng xuất nhập khẩu và tăng trưởng xuất khẩu vào 1 % tăng trưởng GDP. 2.1.2 Thương mại quốc tế thôi thúc quy trình vận động và di chuyển cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính củamỗi vương quốc theo hướng tích cực : Xu hướng có tính quy luật chung của vận động và di chuyển cơ cấu tổ chức ngành kinh tế tài chính làchuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, văn minh hóa. Muốn chuyển một nềnkinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế tài chính công nghiệp đều phải trải qua các bước : Chuyển từ nền kinh tế tài chính nông nghiệp sang kinh tế tài chính công – nông nghiệp để từ đó22chuyển sang nền kinh tế tài chính công nghiệp phát triển. Nội dung đơn cử của xu thế nàythể hiện ở tỷ trọng nông nghiệp có xu thế ngày càng giảm đi trong khi đó tỷtrọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng trong tổng GDP, tiến trình đầu tốcđộ tăng của công nghiệp sẽ cao hơn dịch vụ, nhưng tiến trình sau, , khi nền kinhtế đã phát triển cao, thì dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn. Trong sự hoạt động chung, ngoại thương với các hoạt động giải trí xuất nhậpkhẩu sản phẩm & hàng hóa và dịch vụ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng quan trọng của nó tác độngđến hàng loạt quy trình tái sản xuất sản phẩm & hàng hóa, từ sản xuất, lưu thông, phân phốiđến tiêu dùng. Đặc biệt đối với các ngành sản xuất vật chất cơ bản như côngnghiệp, nông nghiệp … ngoại thương đã tác động ảnh hưởng trực tiếp đến cả đầu vào vàđẩu ra của quy trình tái sản xuất, do đó đã góp thêm phần thôi thúc nhanh sự chuyểndịch cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính. Ngoại thương cũng tạo ra các “ mối liên hệ ngược ”, “ mốiliên hệ gián tiếp ”, giữa các ngành, tạo ra năng lực kiến thiết xây dựng cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính năngđộng. 2.1.3 Cải thiện cán cân thanh toán giao dịch quốc tế : Cán cân thanh toán giao dịch quốc tế là bản quyết toán tổng hợp hàng loạt các mốiquan hệ kinh tế tài chính đối ngoại của một nước, gồm có các luồng sản phẩm & hàng hóa, dịch vụvà luồng vốn giữa các nước đó với các nước khác trong một thời kỳ nhất định. Như vậy, cán cân giao dịch thanh toán quốc tế là tấm gương phản chiếu mọi hoạt độngkinh tế đối ngoại của một nước với các nước khác và do đó nó đã được cácnước có nền kinh tế tài chính mở sử dụng như một công cụ đắc lực để nghiên cứu và phân tích và quảnlý vĩ mô các hoạt động giải trí kinh tế tài chính đối ngoại. Cơ cấu cán cân thanht oán quốc tế gồm có các bộ phận đa phần : cán cânngoại thương ( còn gọi là cán cân mậu dịch hay cán cân hữu hình ), cán cân dịchvụ và cán cân chuyển tiền đơn phương không bồi hoàn ( gọi chung là cán cânphi mậu dịch hay cán cân vô hình dung ), cán cân nguồn vốn … trong đó ngoại thươnghữu hình vẫn là hoạt động giải trí quan trọng nhất, do vậy cán cân ngoại thương giữ vị23trí quan trọng nhất trong tổng thể các bộ phận cấu thành nên cán cân thanh toánquốc tế. Đối với những nước đang phát triển có nền kinh tế tài chính mở quy mô nhỏ, thìviệc chăm sóc trước hết đến cải tổ cán cân ngoại thương càng có ý nghĩaquyết định đến cải tổ cán cân giao dịch thanh toán quốc tế. Vì thực tiễn cho thấy, do xuấtphát điểm trình độ kinh tế tài chính xã hội của các nước này thấp, nên hiệu suất cao thu đượctừ các hoạt động giải trí kinh tế tài chính đối ngoại khác thường khó đạt đến sự mong ước ngaynhư hiệu suất cao của hoạt động giải trí thương mại quốc tế, là hoạt động giải trí kinh tế tài chính đối ngoạicó thể tận dụng triệt để ngay các nguồn lực ( lợi thế so sánh ) mà các nước nàysẵn có. Nếu hoạt động giải trí xuất nhập khẩu không thay đổi, cán cân giao dịch thanh toán bảo đảm an toàn thì sẽgiúp không thay đổi kinh tế tài chính vĩ mô của một vương quốc, tạo môi trường tự nhiên kinh doanh thương mại thuậnlợi cho doanh nghiệp, tâm ý yên tâm làm ăn, sinh sống cho người dân. 2.1.4 Góp phần xử lý việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống thực tếcho các những tầng lớp dân cư : Có thể nói đây là tác dộng có ý nghĩa quan trọng nhất bởi tiềm năng cuốicùng của sự tăng trưởng là con người, hướng tới con người. Con người vừa làđộng lực vừa là tiềm năng của sự phát triển. Hoạt động ngoại thương trải qua cách xử lý quan hệ xuất khẩu-nhập khẩu có ảnh hưởng tác động trực tiếp đến việc làm và do đó, đến thu nhập và mứcsống thực tiễn của dân cư. Hiện nay, để phát triển kinh tế tài chính các nước đều nỗ lực tận dụng mọi lợi thếmà nước mình có được. Đối với các nươc đang phát triển thường có dân sốđông, lao động dư thừa nhiều, nhất là lao động của nền sản xuất sản phẩm & hàng hóa cònkém, vốn góp vốn đầu tư cho phát triển thiếu. Vì thế, nên hướng sản xuất sản phẩm & hàng hóa xuấtkhẩu vào những ngành sử dụng lợi thế của quốc gia. Khi xuất khẩu tăng trưởngthường kéo theo sự ngày càng tăng sản xuất trong nước. Cầu lao động tăng nhanh dẫn24tới xử lý công ăn việc làm cho phần nhiều lao động dư thừa. Người lao độngcó việc làm tức là có thu nhập, thế cho nên mức sống của họ được cải tổ đáng kể. Bên cạnh đó, hoạt động giải trí xuất khẩu không chỉ phân phối cho sản xuất màcòn cho cả tiêu dùng. Hàng nội vì phải cạnh tranh đối đầu với hàng ngoại nên khôngngừng nâng cao chất lượng và hạ giá bán. Người được lợi ở đây chính là ngườitiêu dùng ngày càng được sử dụng những sản phẩm & hàng hóa đa chủng loại và chất lượngcao. 2.2 Tác động tiêu cực2. 2.1 Có thể tạo ra những bất bình đẳng giữa các nướcCác vương quốc phát triển luôn đưa ra Open thị trường, tăng nhanh góp vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ tiên tiến, nhưng thực tiễn khi quyền hạn bị xâm hại họ sẵn sàng chuẩn bị đập “ cây gậy ” chống bán phá giá, vi phạm sở hữu trí tuệ, vi phạm tiêu chuẩn kỹthuật một cách vô lý lên đầu bất kỳ vương quốc nào mà họ cho là vi phạm ( Điểnhình như vụ kiện chống bán phá giá cá basa của việt nam ). Điều trớ trêu là những đốitượng trực tiếp chịu những “ cú đánh ” này lại là những người nông dân nghèo, những người vốn dĩ đời sống đã phải chịu quá nhiều khó khăn vất vả. 3.2.2 Gây ô nhiễm môi trườngBên cạnh tác động ảnh hưởng xấu đi về cạnh tranh đối đầu bất bình đẳng, thương mại quốctế còn đem lại cho các vương quốc đang phát triển “ nguồn tài nguyên dồi dào ” – rác thải. Những thứ mà các vương quốc phát triển thải ra : rác thải công nghiệp, ytế, hoạt động và sinh hoạt … việc tái chế hay tiêu hủy trở nên đắt đỏ và ô nhiễm. Vì vậy, cóxu thế xuất khẩu những thứ này sang các vương quốc đang phát triển trong đó cóVN, biến những nơi này thành bãi rác, nơi tái chế và vùng ô nhiễm khổng lồ. Chúng ta cảm tưởng những chiếc xe hơi, ti vi, hay các máy móc được bán sangVN với giá rẻ đó là một sự “ cảm thông ” của các vương quốc phát triển với nhữngnước nghèo. Sự thực là các vương quốc đang phát triển khó hoàn toàn có thể nào chống lại25

Source: https://evbn.org
Category: Địa Danh