Tiểu luận Triết học Mac Lênin về con người Nguyễn Minh Lợi
Ngày đăng: 01/02/2015, 04:50
Xem thêm: Hoàng Duy Hùng – Wikipedia tiếng Việt
TIU LUN : TRIT HC MC LấNIN TIU LUN Môn : Triết học Mác Lênin Lp : Cao hc Học viên: NGUYN MINH LI T i : quan hên biện chứng giữa vật chất và ý thức trong hoạt động thực tiễn MC LC 1 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Mở đầu : Lý do chọn đề tài PHẦN I : NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC 1. Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử 2. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác – Lênin về con người PHẦN II : MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁ NHÂN VÀ XÃ HỘI 1. Cá nhân và nhân cách 2. Quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội PHẦN III : VAI TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN VÀ CỦA CÁ NHÂN – LÃNH TỤ TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỊCH SỬ 1. Khái niệm quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử 2. Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ (Tài liệu tham khảo : – Sách Giáo trình triết học Mác – Lênin (tập 2 : Chủ nghĩa duy vật lịch sử) – Sách Giáo trình triết học Mác – Lênin (Dùng cho hệ ĐH – CĐ) – Website Chungta.com – Website hochiminhcity.gov.com – Website hnue.edu.vn) 2 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Con người là một khách thể hết sức phong phú được rất nhiều ngành khoa học nghiên cứu như sinh vật học, nhân chủng học, tâm lý học, xã hội học, y học, triết học… Mỗi khoa học có cách tiếp cận và phương pháp giải quyết khác nhau về vần đề con người. Các khoa học cụ thể nhận thức con người ở những mặt, những khía cạnh riêng biệt, cụ thể. Triết học, với đặc trưng trừu tượng hóa, khái q uát hóa các tri thức khoa học cụ thể về con người, để nghiên cứu con người về mặt thế giới quan, hệ tư tưởng, lối sống…Bằng cách này hay cách khác, triết học bao giờ cũng phải giải đáp những vấn đề chung nhất của con người như : Bản chất của con người ? Vị thế của con người như thế nào trong thế giới : Tự nhiên và lịch sử hoạt động phát triển của con người ? Ý nghĩa cuộc sống của con người là gì ? Thực chất, đó là sự phản tư, là đặc trưng của tư duy triết học : Con người lấy chính bản thân mình làm đối tượng nhận thức. Từ góc độ triết học, con người được nghiên cứu trên cả hai bình diện : Bản thể luận và nhận thức luận. Triết học Mác ra đời đã khắc phục tính chất trừu tượng, duy tâm, siêu hình trong quan niệm bản chất con người với cách tiếp cận mới.Hoàn toàn khác so với các tư tưởng triết học cổ điển. Các Mác đã đưa ra một luận đề nổi tiếng : “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Từ tiếp cận con người hiện thực, triết học Mác đã chỉ ra rằng con người là một chỉnh thể sinh vật – xã hội, là thực thể song trùng tự nhiên – xã hội. Vì vậy nghiên cứu triết học Mác là tìm hiểu về bản chất con người. 3 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN I. NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC 1. Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử. a. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông. Trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại, con người là một vấn đề triết học được đặt ra từ rất sớm. Từ những thế giới quan triết học và quan điểm chính trị, xã hội khác nhau, các trường phái triết học, các hệ thống triết học tiêu biểu đã có những kiến giải khác nhau về vấn đề con người. Ngay từ thời cổ đại, trong triết học phương Đông (Trung Quốc và Ấn Độ), “Con người được xem như là một vũ trụ thu nhỏ”. Các mối quan hệ giữa con người với thế giới, con người với con người, con người với chính bản thân mình đều đã được đề cập và luận giải khá sâu sắc. Những nhà thông thái vào thời đó đã bàn nhiều đến sự hài hòa trong các mối quan hệ của con người. Nó trở thành triết lý ứng xử và là nét bản sắc của con người phương Đông. Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ – trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ khác và đi tới kết luận bản tính Tự Nhiên của con người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ. Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tư tưởng của các trường phái triết học ấn độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (Siêu 4 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN hình học) đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết lụân về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật. b. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây. Trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây từ Cổ đại Hy Lạp trải qua giai đoạn Trung cổ, Phục hưng và Cận đại đến nay, những vấn đề triết học về con người vẫn là một đề tài tranh luận chưa chấm dứt. Các triết gia tiêu biểu cho nền triết học Hy Lạp cổ đại đã đưa ra những kiến giải có giá trị về con người. Prôtago (481 – 411 TCN) đã nói : Người ta là thước đo của mọi vật. Nhà tư tưởng vĩ đại nhất của mọi thời đại Arixtôt (384 – 322 TCN) phân biệt con người khác với con vật ở chỗ, con người là “động vật chính trị”. Trải qua đêm trường Trung cổ ( từ thế kỷ V đến thế kỷ XIV), con người với những tư tưởng khoa học bị kìm hãm bởi sự hà khắc của cường quyền, chuyên chế vua chúa phong kiến và giáo hội. Ở thời đại này, triết học chỉ là đầy tớ của thần học. Thời Phục hưng ( Thế kỷ XV – XVI) đã làm sống lại những giá trị, những tư tưởng tích cực về con người. Triết học thời kỳ này đã đề cập đến con người với tư cách là cá nhân, với cái “tôi” có cá tính, có trí tuệ và phẩm chất. Giờ đây không phải là quan hệ giữa Chúa và thế giới mà chính là quan hệ giữa con người và thế giới trở thành trung tâm của sự suy tư và chiêm nghiệm triết học. Đây là thời kỳ phát triển tư tưởng nhân đạo và chủ nghĩa nhân văn, là thời kỳ đấu tranh giải phóng cá nhân khỏi xiềng xích của thần quyền và phong kiến. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này đề cập vấn đề con người chủ yếu từ phương diện cá thể. Những tư tưởng về con người tiếp tục phát triển và bừng sáng trong triết học Tây Âu cận đại ( thế kỉ XVI – XVIII). Sức mạnh trí tuệ con người được các nhà triết học duy lý đề cao. R.Đêcactơ (1596 – 1635),nhà duy lý vĩ đại đã nêu lên một mệnh đề nổi tiếng : “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” là điểm xuất phát cho 5 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN hệ thống triết học của mình. Dù Đêcactơ đứng trên lập trường duy tâm và nhị nguyên, nhưng trong luận đề nêu trên của ông đã thể hiện sự coi trọng đặc biệt trí tuệ con người, đề cao tư duy khoa học lí luận.Hơn nữa, nó khẳng định vai trò chủ thể của con người trong tư duy độc lập. Chính vì vậy, luận đề này có ý nghĩa tích cực to lớn là cổ vũ sự phát triển của các khoa học lí thuyết và mở ra một thời đại mới của triết học. Lênin đã từng nhận xét rằng: “Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thông minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn. Chủ nghĩa duy tâm biện chứng thay cho chủ nghĩa duy tâm thông minh; siêu hình, không phát triển, chết cứng, thô bạo, bất động thay cho ngu xuẩn”. Nhận xét này giúp ta đánh giá đúng đắn hơn cái hạt nhân hợp lí của triết học đã coi trọng vấn đề con người. Nhìn chung, quan niệm về con người trong triết học cua thế kỉ Ánh sáng khá phong phú và co những bước tiến quan trọng. Con người là vấn đề trung tâm trong các lí thuyết “thực thể”của Spinôza,trong lí thuyết “đơn tử” của Lépnít, trong lí thuyết “năng lực tinh thần” của Bêcơn. Những quan điểm duy vật về con người trong thời kì này trở thành cơ sở, nền tảng cho các khoa học nghiên cứu con người về sau này. Triết học cổ điển Đức (thế kỉ XVIII – XIX) là đỉnh cao của triết học phương Tây cận đại. Các nhà triết học tiêu biểu của nền triết học này đã có cách nhìn mới về các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại. Do đó, họ có những bước tiến trong quan niệm về khả năng và hoạt động của con người. Từ I.Cantơ ( 1724 – 1804) đến G.V.Ph.Hêghen ( 1770 – 1831) đều đề cao sức mạnh trí tuệ và hoạt động của con người. Con người được coi là chủ thể đồng thời là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo ra. Tiến trình lịch sử của nhân loại được các triết gia cổ điển Đức xem xét như một quá trình phát triển biện chứng. Đó là những tư tưởng có ý nghĩa tích cực đã ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại. Hạn chế của họ là chỗ đã đề cao ý thức của con người tới mức cực đoan, tuyệt đối hóa vai trò của ý thức. 6 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN L.Phoiơbắc G.V.Ph.Hêghen Spinoza R.Đêcactơ Đối lập với Hêghen, L.Phoiơbắc ( 1804 – 1872) nhà duy vật tiền bối của triết học Mác, người có công khôi phục chủ nghĩa duy vật cho rằng : Con người là sản phẩm tự nhiên là kết quả phát triển của tự nhiên. Ông phủ nhận sự tách biệt giữa linh hồn và thể xác. Ông khẳng định con người là chủ thể của tư duy, tư duy là thuộc tính, là chức năng của bộ óc con người – một khí quan vật chất. Ông còn cho rằng, con người khi hoạt động một cách không tự giác, không tự chủ thì nó thuộc về giới tự nhiên cũng như ánh sáng, khí trời, nước, lửa…Và như vậy, Phoiơbắc đã phân biệt giữa con người tự nhiên, sinh vật với con người ý thức. Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài mácxít còn có một hạn chế cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin về con người. 2. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác – Lênin về con người. a) Sự thống nhất giữa hai mặt sinh vật và xã hội. 7 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”; con người là một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là “một động vật có tính xã hội”, hoặc con người động vật có tư duy Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. 8 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội. Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hóa quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần. 9 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên – xã hội. b) Bản chất con người. Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” 1. Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội ) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. 10 […]… học nghiên cứu con người và thế giới con người Các khoa học vật lý học, sinh học, y học, ưu sinh học đã từng đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình lý giải bản chất tự nhiên của con người Các thành tựu của ưu sinh học người đã khám phá ra bộ gien người và đặc biệt, đã tạo ra con người bằng sinh sản vô tính Sau khi tạo ra được con người từ trong các ống nghiệm, các cá thể người ấy sống như… LUẬN Con người cùng với thế giới người mà nó tạo ra là cả một thiên hà các vấn đề Vấn đề con người từ đâu tới, các quan hệ của nó, sự tồn tại thế giới bên trong, thế giới bên ngoài trong thực tiễn lịch sử – xã hội của con người; con người đi đâu và về đâu; các tổ chức xã hội của con người, các kiểu con người trong tiến trình lịch sử v.v và v.v đã từng là cội nguồn tạo ra những khoa học nghiên cứu con. .. lý luận về mặt tự nhiên trong bản chất của con người Trong hệ thống lý luận triết học về con người của C.Mác và Ph.Ăngghen, con người phải có mối quan hệ cùng nhau Con người sinh ra trong một xã hội nhất định và nó nằm trong mối liên hệ lịch sử với các thế hệ trước, gắn chặt với các quan hệ xã hội Tính xã hội – lịch sử của con người được các ông đặt vào hàng trung tâm Sự phát triển nhiều mặt trong con. .. Trong số các khoa học xã hội và khoa học nhân văn nghiên cứu các hoạt động người, trước hết phải kể đến Khoa xã hội học Khoa xã hội học đã đạt được rất nhiều thành tựu khi giải quyết và lý giải các vấn đề xã hội của con người Mặc dù nghành khoa học này đã nghiên cứu các hình thái ý thức và tồn tại xã hội, các tổ chức và cơ cấu xã hội của con người, 23 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN song nó lại không…TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ… sinh vật- xã hội – lịch sử của con người phổ biến, mà còn là hình thức tư duy cơ bản, đúng đắn để nghiên cứu thế giới con người với tư cách những cá nhân, cá tính và các hình thức Nhà Nước, chế độ xã hội của con người 25 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN 26 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN 27 … Để nghiên cứu con người, hệ thống lý luận triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen dựa trên quan điểm nhất nguyên lịch sử và do vậy, khắc phục được các vấn đề số phận của con người Triết học tự nhiên, triết học xã hội, quan điểm nhất nguyên lịch sử của C.Mác và Ph.Ăngghen không chỉ là hình thức tư duy có rất nhiều triển vọng trong việc nghiên cứu tính toàn vẹn sinh vật- xã hội – lịch sử của con người phổ biến,… của nó là lao động của con người Như đã trình bầy ở trên, C.Mác mượn câu nói của Phơrăngcơlanh để định nghĩa con người là động vật biết chế tạo công cụ lao động” Sự khác nhau giữa con người và các động vật khác ở chỗ, con người tự tạo ra mình bằng các hoạt động sáng tạo công cụ lao động Bằng lao động, con người đã biến mình thành một động vật trên sinh học Nhờ lao động, con người đã biến đổi hiện… hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người c) Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử – xã hội C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật… của tự nhiên Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình 11 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người Hoạt động lao. cứu triết học Mác là tìm hiểu về bản chất con người. 3 TIỂU LUẬN : TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN I. NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC 1. Một số quan điểm triết học về. QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC 1. Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử 2. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác – Lênin về con người PHẦN II :. con người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của triết học Mác -Lênin về con người. 2. Những quan niệm cơ bản của triết học Mác – Lênin về con người.
Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn