Di tích Lăng mộ Hoàng Gia ở Gò Công tỉnh Tiền Giang

Di tích Lăng mộ Hoàng Gia ở Gò Công tỉnh Tiền Giang

Lăng Hoàng gia là nơi thờ tự và lăng mộ của dòng họ Phạm Đăng, trong đó có ông Phạm Đăng Hưng là ông ngoại Vua Tự Đức, thân sinh bà Thái hậu Từ Dụ ( dân gian gọi Từ Dũ ), vợ vua Thiệu Trị. Di tích Lăng Hoàng Gia tọa lạc tại Giồng Sơn Quy ( Gò Rùa ), ngày này thuộc ấp Hoàng Gia, xã Long Hưng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Lăng mộ là một khu công trình kiến trúc mang đậm phong thái cung đình Huế, uy nghi giữa một vùng cây trái đồng bằng. Ngoài kiến trúc độc lạ, di tích còn tiềm ẩn bao câu truyện ly kì .

Giếng ngọc ở Lăng Hoàng Gia

Vào cuối thế kỷ thứ 16 ông Phạm Đăng Long ( cha ông Phạm Đăng Hưng ) theo cha từ Tỉnh Quảng Ngãi vào vùng Gò Công, là người giỏi Nho học, tinh thông tử vi & phong thủy, địa lý của Lão học, đi nhiều nơi tìm thế đất tốt để định cư, mong con cháu phát tích. Lúc ông đến Gò Rùa ( Sơn Qui ), thấy thế đất rất đẹp nhưng toàn vùng Gò Công lúc bấy giờ không có chỗ nào đào được giếng có nước ngọt. Sau đó ông phát hiện ra mạch nước ngầm ở Gò Sơn Quy nên tuy tụ mồ mả 3 đời về đây và xây nhà ở gò đất này .
Hiện nay, tại lăng Hoàng Gia, phía sau nhà thời thánh, nơi nền nhà xưa vẫn còn cái giếng cổ, nước trong vắt và ngọt lịm. Đến nay vẫn chưa ai xác lập đúng mực giếng nước này được đào từ năm nào, chỉ biết rằng nó được cho là báo hiệu của một điềm lành, gắn liền với dòng họ hoàng tộc danh tiếng Phạm Đăng .

Có điều lạ là đến mùa khô, các giếng khác kể cả ao làng sâu 10m đều cạn hết, riêng giếng này không sâu nhưng ngay mạch nước nên nước lúc nào cũng có. Ngày xưa, người dân ở xã Long Hưng đều dùng nhờ giếng nước này. Điều lạ nữa là khi Hoàng Thái hậu Từ Dụ được sinh ra, nước ở giếng này càng ngọt hơn.

Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng

Phạm Đăng Hưng là con thứ ba của ông Phạm Đăng Long, sinh ra tại Gò Sơn Quy vào năm 1764. Ông là người mưu trí, văn võ song toàn đã từng làm quan Thượng thư dưới hai triều vua Gia Long và Minh Mạng. Năm 1784, lúc 20 tuổi, ông thi đỗ Tam trường, được triều đình bổ làm Lễ sinh ở Phủ, sau đó được thăng Lại bộ Tham tri. Đến năm 1824 được sắc phong Lễ bộ Thượng thư, năm 1825 ông được phó thác giữ kinh thành Huế. Nhân dân thường gọi là Phạm Đăng Hưng là ông “ Ba Bị ” vì lúc làm “ Điền tuấn quan ” đi đâu ông cũng mang theo ba bị hạt ngũ cốc để phân phát cho nông dân nghèo những khi thiên tai, hạn hán, bão lụt .
Vua Minh Mạng rất khâm phục tài đức của Phạm Đăng Hưng nên đã kết thành thông gia hai lần với ông : gả công chúa cho Phạm Đăng Thuật ( con trai Phạm Đăng Hưng ) và phong tước Phò mã đô úy ; cho thái tử Miên Tông ( vua Thiệu Trị ) kết hôn với con gái ông Phạm Đăng Hưng là Phạm Thị Hằng ( bà Từ Dũ ) .
Năm 1825, Phạm Đăng Hưng bị bệnh mất tại Huế, được vua Minh Mạng thăng hàm “ Vinh lộc đại phu, trụ quốc hiệp biên, đại học sĩ, thụy trung nhã ” và đưa về an táng tại Sơn Quy .
Một năm sau khi Phạm Đăng Hưng mất tức năm 1826, triều đình nhà Nguyễn cho thiết kế xây dựng nhà thời thánh và lăng mộ ngay trên nền nhà cũ của dòng họ Phạm Đăng. Khu lăng mô được xây theo kiến trúc phong thuỷ dành cho lăng tẩm vua quan lúc bấy giờ .
Năm 1849, khi vua Tự Đức truy phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc Công đã cho trùng tu, lan rộng ra nhà thời thánh, xây thêm tam cấp, cổng tam quan, ban thần vị theo nghi thức cung đình .
Vào năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi, chuẩn bị sẵn sàng vào viếng lăng nên cho trùng tu. Đến năm Khải Định 1921, trùng tu một lần nữa mang nét Á – Âu phối hợp và được lưu giữ cho đến thời nay .
Ngày 2/12/1992, Bộ Văn hóa – tin tức có quyết định hành động công nhận Khu Lăng mộ Hoàng gia là Di tích lịch sử – văn hóa truyền thống cấp vương quốc .

Kiến trúc độc đáo

Nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là một khu công trình kiến trúc nghệ thuật và thẩm mỹ thời Nguyễn mang đậm phong thái truyền thống lịch sử dân tộc bản địa qua những mảng chạm khắc trên mộ và trang trí bên trong nhà thời thánh bằng những điển tích rút ra từ “ tứ linh, tứ quý ” theo ý niệm tử vi & phong thủy của người Á Đông. Toàn bộ khu lăng mộ nằm trọn trong khuôn viên thoáng mát, có khá nhiều sứ đại cổ thụ, hoa lá cảnh vật bảo phủ theo kiểu khoảng trống nhà vườn xứ Huế .
Lăng không thật đồ sộ nhưng cũng không quá uy nghiêm như những lăng mộ của những quan đại thần khác. Nhiều người đến thăm lăng đều quá bất ngờ khi thấy kiến trúc của lăng phần nào giống kiến trúc của nhà tại. Chính điều này đã tạo cảm xúc thân mật và ấm cúng .
Cổng vào được xây theo lối tam quan cách điệu, trên mái lợp ngói lưu ly, đỉnh chạm trổ tượng mang hình ảnh “ lý ngư vọng nguyệt ” ( cá chép vàng trông trăng ) biểu lộ cho sự thanh cao của gia chủ .
Nhà từ đường có mười trụ cột chính giữa, lớn nhất được phong cách thiết kế thành hai hàng song song như những đôi bàn tay khổng lồ vươn lên chống đỡ hàng loạt lăng. Những đường hoành, rui, mè đều được phong cách thiết kế vô cùng tinh tế, độc lạ, vững chãi bởi những loại gỗ quý được luân chuyển từ cố đô Huế vào. Có lẽ vì vậy mà theo thời hạn những cây cột ngày càng trở nên bóng đẹp và cổ kính hơn .
Điểm đặc biệt quan trọng nhất của lăng có lẽ rằng là việc sử dụng trọn vẹn vật liệu gỗ để kiến thiết xây dựng, không thể nào tìm ra được một cây đinh nào trong việc kết nối những những thanh gỗ, kèo, cột ở đây. Tất cả đều được đục mộng tra vào nhau một cách tinh xảo đến tuyệt vời. Người xem khâm phục biết bao bàn tay và nghệ thuật và thẩm mỹ kiến thiết xây dựng cũng như kiến trúc của những nghệ nhân xưa .

Trong nhà thời thánh có đặt nhiều biển đại tự để thờ : Gian chính giữa thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng ; gian tả thờ ông Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hưng ; gian tả ngoài cùng thờ ông Phạm Đăng Tiên ( cố ) ; gian hữu thờ ông Phạm Đăng Dinh ( nội ) ; hai cuối bên hữu thờ ông Phạm Đăng Khoa ( sơ ) .
Mộ Phạm Đăng Hưng táng trên gò cao có hình dáng mai rùa. Mộ không xây theo kiểu “ ngưu phanh, mã phục ” mà được xây theo mẫu mã “ đỉnh trụ ” hình bát giác, trông vừa như chiếc nón lá vừa như búp sen .
Mặt sau mộ, xây bình phong hình bán nguyệt, trên có chạm 4 con rồng, dưới có 5 con kỳ lân. “ Ngũ đại thành xương – Tường lân ống hiện ” ( Năm đời Gianh Giá tốt đẹp – Điềm lành kỳ lân hiện ra ) .
Vòng quanh mộ ông Phạm Đăng Hưng có một số ít phù điêu trang trí như búp sen, cá hóa long … lại mang phong thái điêu khắc phương Tây. Những bức phù điêu trang trí trên mộ được thiết kế xây dựng thêm vào thời vua Khải Định. Có lẽ ông Vua Khải Định đã có một “ tư vấn viên ” người phương Tây nào chăng ?
Cùng nằm trên khuôn viên Lăng còn có mạng lưới hệ thống mộ dòng họ Phạm Đăng được chôn theo một trục dài, hàng loạt đều làm bằng hồ ô dước, bảo phủ chung quanh bằng một lớp tường dày và cao 90 cm, những ngôi mộ tổ bố cục đơn thuần theo hình vuông vắn hoặc chử nhật ) .
Trong khuôn viên lăng còn có giếng nước cổ xây bằng gạch vồ. Qua hàng trăm năm, nước trong giếng luôn đầy và trong vắt .

Ly kỳ tấm bia ngự ban

Đến thăm mộ ông Phạm Đăng Hưng, từ ngoài bước vào, hành khách sẽ phát hiện bên trái có một nhà bia. Bên dưới là tấm bia bằng đá trắng Quảng Nam, đã mòn theo thời hạn, nhưng thật kỳ lạ : phía trên có hình cây thánh giá màu đen, bên dưới là dòng chữ Pháp ghi “ Đây là nơi an nghỉ của Trung úy Barbé ”. Nhìn sâu vào trong là một bài văn bia chi chít chữ Hán ?

Bia đá này do Phan Thanh Giản và Trương Quốc Dụng soạn vào năm Tự Đức thứ 10 ( 1857 ) nhằm mục đích ca tụng công đức của Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng. Vua Tự Đức sai chở bằng thuyền từ Huế vô Gò Công. Nhưng cái bia đá mất tích một cách bí hiểm. Đến lúc trùng tu lăng Hoàng gia, năm 1899, vua Thành Thái cho dựng nhà bia bên phải ( từ ngoài nhìn vào ) bằng đá hoa cương. Nội dung tấm bia này giống y tấm bia Tự Đức ban cho ông ngoại .
Chuyện kể rằng, lúc giải tỏa nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ( Q. 1 – TP Hồ Chí Minh ) để kiến thiết xây dựng Công viên Lê Văn Tám ( khoảng chừng 1983 – 1986 ), người ta thấy còn sót lại một tấm bia đá bỏ chỏng chơ. Có người phát hiện hàng chữ Nho sau hàng chữ Pháp mới báo với Bảo tàng Thành phố. Khi những nhà nghiên cứu giám định mới té ngửa là tấm bia ấy là của vua Tự Đức ban tặng cho ông ngoại Phạm Đăng Hưng .
Trong tác phẩm “ Scènes de la vie Annamite ” ( NXB P.Ollendorff Paris 1884 ) của 2 tác giả Le Vardier và De Maubryan có kể lại chuyện tình éo le của viên Trung úy Barbé với cô gái Bến Nghé tên Thị Ba, người của nghĩa quân Trương Định .

 Cô gái hẹn Trung úy Barbé ở đồn chùa Khải Tường (nay là Bảo tàng Cách mạng) đến đồn chùa Ô Ma (Pagode des Mares – Thị Nghè) vào đêm 7/12/1860. Trên đường đi, Barbé đã bị nghĩa quân Trương Định phục kích bất ngờ giết chết. Câu chuyện tình này đời nay được tái hiện trong vở cải lương nổi tiếng ở Nam Bộ có tên “Nàng Hai Bến Nghé” với diễn xuất tài năng của nữ nghệ sĩ Mỹ Châu.

Liên kết những sự kiện, chính Barbé cướp tấm bia vào năm 1858 về đồn và 2 năm sau y chết, người ta lấy tấm bia ấy làm bia mộ cho y. Đến khi nghĩa trang giải tỏa mới phát hiện ra và năm 1998, Bảo tàng TP Hồ Chí Minh mới khuyến mãi lại Khu di tích Lăng Hoàng gia. Đúng 140 năm sau tấm bia mới được đặt đúng vị trí của nó. Nhìn tấm bia hàng chữ Pháp trên nền chữ Hán, hành khách ai cũng vướng mắc. Ngờ đâu, trong đó là một chuyện sử ly kỳ như tiểu thuyết .
Đối diện tấm bia này, phía bên tay phải, lại có một tấm bia khác, bằng đá hoa cương, do Vua Thành Thái ngự ban vào năm 1899 sau khi tấm bia tiên phong bị chiếm đoạt, nội dung không khác nhau là mấy .
Có thể nói đây là một quần thể kiến trúc xưa và lạ, bởi đây là nơi yên nghỉ của dòng họ làm quan nhiều đời và là họ ngoại của vua Nguyễn. Khách du lịch Tiền Giang, đến đây hoàn toàn có thể tìm thấy được những di tích của một quy trình tiến độ lịch sử đã qua ẩn hiện đâu đó trong từng phần của khu lăng mộ .

Source: https://evbn.org
Category: Địa Danh