Kinh tế học tân cổ điển – Wikipedia tiếng Việt

Kinh tế học tân cổ điển là một trường phái kinh tế học có trọng tâm nghiên cứu là cơ chế quyết định giá cả, sản lượng, phân phối thu nhập thông qua nguyên lý cung – cầu dựa trên các giả định về hành vi tối đa hóa thỏa dụng của người tiêu dùng trong điều kiện một ngân sách giới hạn hay tối đa hóa lợi nhuận của nhà sản xuất trong điều kiện chi phí bị giới hạn. Kinh tế học tân cổ điển khởi đầu bằng kinh tế học vi mô từ nửa cuối thế kỷ 19; và đến nay hầu hết các lý luận kinh tế học vi mô đều là do họ đóng góp. Kinh tế học tân cổ điển đóng góp vào kinh tế học vĩ mô chủ yếu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó phối hợp với kinh tế học Keynes để tạo ra cái gọi là Trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp.

Thorstein Veblen trong tác phẩm Preconceptions of Economic Science công bố năm 1900 đã dùng cụm từ tiếng Anh “Neoclassical economics” để gọi thứ kinh tế học về giá trị cận biên thời ấy khi phân biệt nó với kinh tế học cổ điển (hay kinh tế chính trị cổ điển) do Adam Smith khai sinh và thứ kinh tế học của trường phái kinh tế học Áo. “Neoclassical economics” được dịch ra tiếng Việt thành “Kinh tế học tân cổ điển“. Sau này, có một trường phái kinh tế học mới xuất hiện, đầu tiên ở Hoa Kỳ, tuy có gốc rễ từ kinh tế học tân cổ điển nhưng lại được xếp riêng thành một trường phái, gọi là “New classical economics“. Tên phái mới này hay được dịch ra tiếng Việt thành “Kinh tế học cổ điển mới“. Nhầm lẫn hay xảy ra khi gọi tên Neoclassical economicsNew classical economics, kinh tế học tân cổ điểnkinh tế học cổ điển mới.

Sở dĩ gọi là kinh tế tài chính học tân cổ điển là vì những học thuyết này tiếp thu, thừa kế những chủ đề chăm sóc của kinh tế tài chính học cổ điển, tuy nhiên sử dụng phương pháp tiếp cận ( phương pháp luận ) mới .

Kinh tế học cổ điển do Adam Smith khai sinh và được David Ricardo phát triển. Alfred Marshall tiếp thu các lý luận của Ricardo, bổ sung thêm bằng các lý luận về thỏa dụng và tính thỏa dụng cận biên được phát triển trước đó bởi John Stuart Mill, William Stanley Jevons, Carl Menger và Leon Walras. Marshall phê phán kinh tế học cổ điển rằng quá nhấn mạnh mặt cung cấp và lợi nhuận, còn các thuyết thỏa dụng và giá trị cận biên lại quá nhấn mạnh đến mặt nhu cầu và thỏa dụng. Marshall cho rằng cả hai mặt cung và cầu đều quan trọng như nhau. Ông đã viết cuốn Principles of Economics (1890) và tác phẩm này trở thành một trong những tác phẩm kinh điển của kinh tế học tân cổ điển. Trong tác phẩm này, Marshall đã giải thích cơ chế quyết định giá cả bởi sự giao nhau của hai đường cung cấp và đường nhu cầu. Ông đã đem kỹ thuật phân tích cân bằng bộ phận vào kinh tế học tân cổ điển.

Joan Robinson và Edward H. Chamberlin là những người đã tăng trưởng kinh tế tài chính học tân cổ điển bằng những lý luận về cạnh tranh đối đầu không tuyệt vời. Leon Walras và Vilfredo Pareto đã tăng trưởng kỹ thuật nghiên cứu và phân tích cân đối toàn diện và tổng thể và đưa nó vào kinh tế tài chính học tân cổ điển. John Hicks tăng trưởng kinh tế tài chính học tân cổ điển bằng lý luận về nhu yếu của người tiêu dùng. Francis Ysidro Edgeworth và Vilfredo Pareto tăng trưởng kinh tế tài chính học tân cổ điện bằng lý luận về đường bàng quan .

Càng ngày, phương pháp tiếp cận của kinh tế học tân cổ điển càng áp dụng nhiều toán học. Paul Samuelson với tác phẩm Foundations of Economic Analysis (1947) đã làm cho kinh tế học tân cổ điển trở nên giống như một ngành của toán học và được giảng dạy rộng rãi tại các khoa kinh tế học bậc đại học ở Hoa Kỳ.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một mặt kinh tế học tân cổ điển tiếp tục phát triển ở mảng kinh tế học vi mô với một loạt lý luận mà điển hình là mô hình Arrow-Debreu. Mặt khác, nó phát triển sang lĩnh vực kinh tế học vĩ mô với sự đóng góp nổi bật của Robert Solow và Samuelson.

Kinh tế học tân cổ điển bị phê phán bởi tính kim chỉ nan của nó, theo đó nó không tập trung chuyên sâu vào xử lý những nền kinh tế tài chính trong thực tiễn, và lại diễn đạt một thứ quá triết lý nơi vận dụng Tối ưu Pareto. Điều kiện giả sử là những cá thể hành vi theo kỳ vọng hài hòa và hợp lý bị phê phán, vì nó lờ đi những góc nhìn quan trọng của hành vi con người. ” Con người kinh tế tài chính ” khác với con người trong thực tiễn. Doanh nghiệp ngoài tiềm năng kinh tế tài chính còn có những tiềm năng xã hội. Nó cũng bị phê phán là dựa quá nhiều vào những quy mô toán phức tạp, ví dụ như những quy mô trong kim chỉ nan cân đối tổng thể và toàn diện. Nhìn chung, phê phán tập trung chuyên sâu vào những giả thuyết không trong thực tiễn của kim chỉ nan kinh tế tài chính học tân cổ điển .

Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn