Tây Tạng – Wikipedia tiếng Việt
Khu tự trị Tây Tạng tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | |||||||||
“Đại Tạng”; phạm vi Tây Tạng theo định nghĩa của các nhóm người Tạng lưu vong | |||||||||
Các khu vực người Tạng theo xác định của chính quyền Trung Quốc | |||||||||
Khu vực do Trung Quốc quản lý, Ấn Độ tuyên bố chủ quyền và xem như thuộc về Aksai Chin | |||||||||
Khu vực Ấn Độ quản lý, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền và xem như thuộc về Khu tự trị Tây Tạng | |||||||||
Các khu vực khác về mặt lịch sử nằm trong phạm vi của văn hóa Tạng |
Tây Tạng chữ Tạng: བོད་, tiếng Tạng tiêu chuẩn: /pʰøː˨˧˩/; tiếng Trung: 西藏; bính âm: Xīzàng (Tây Tạng) hay tiếng Trung: 藏區; bính âm: Zàngqū (Tạng khu), các ngôn ngữ khác còn gọi nơi này là Tibet) là một khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya. Đây là quê hương của người Tạng cũng như một số dân tộc khác như Môn Ba, Khương, và Lạc Ba, và hiện nay cũng có một lượng đáng kể người Hán và người Hồi sinh sống. Tây Tạng là khu vực có cao độ lớn nhất trên Trái Đất, với độ cao trung bình là 4.900 mét (16.000 ft).
Đến thế kỷ thứ 7, Tây Tạng trở thành một đế quốc thống nhất, tuy nhiên nhanh gọn phân liệt thành nhiều chủ quyền lãnh thổ. Phần lớn tây bộ và trung bộ Tây Tạng ( Ü-Tsang ) thường thống nhất ( tối thiểu là trên danh nghĩa ) dưới quyền những chính quyền sở tại tiếp nối đuôi nhau nhau ở Lhasa, Shigatse, hay những nơi lân cận ; những chính quyền sở tại này từng có lúc nằm dưới quyền bá chủ của Mông Cổ và Trung Quốc. Các khu vực Kham ( ཁམས ་ ) và Amdo ( ཨ ་ མད ོ ་ ) ở đông bộ thường duy trì cơ cấu tổ chức chính trị địa phương mang tính phân tán hơn, được chia thành một số ít tiểu quốc và nhóm bộ lạc, những khu vực này thường phải chịu sự trấn áp trực tiếp hơn từ Nước Trung Hoa ; và hầu hết chúng ở đầu cuối được hợp nhất vào những tỉnh Tứ Xuyên và Thanh Hải. Ranh giới lúc bấy giờ của Tây Tạng nhìn chung được thiết lập nên vào thế kỷ 18. [ 1 ] Sau khi triều Thanh sụp đổ vào năm 1912, những binh lính Thanh bị giải giáp và được hộ tống ra khỏi Tây Tạng địa phương ( Ü-Tsang ). Tây Tạng địa phương công bố độc lập vào năm 1913. Sau đó, cơ quan chính phủ Lhasa đoạt lấy quyền trấn áp phần phía tây của tỉnh Tây Khang. Khu vực duy trì thực trạng tự quản cho đến năm 1951, khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tiến vào Tây Tạng, Tây Tạng hợp nhất vào Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, và cơ quan chính phủ Tây Tạng bị bãi bỏ sau một cuộc nổi dậy thất bại vào năm 1959. [ 2 ] Ngày nay, chính phủ nước nhà Trung Quốc định ra Khu tự trị Tây Tạng ở tây bộ và trung bộ của Tây Tạng, còn những khu vực phía đông hầu hết thuộc về những tỉnh Tứ Xuyên và Thanh Hải. Có những stress tương quan đến thực trạng chính trị của Tây Tạng [ 3 ] trong khi có những nhóm người Tạng lưu vong đang hoạt động giải trí. [ 4 ]
Kinh tế Tây Tạng chủ yếu là nông nghiệp tự cấp, song du lịch cũng trở thành một ngành kinh tế nổi lên trong các thập niên gần đây. Tôn giáo chủ yếu ở Tây Tạng là Phật giáo Tây Tạng, cùng với đó là tôn giáo bản địa Bön (Bön ngày nay tương đồng với Phật giáo Tây Tạng[5]) cùng với các thiểu số Hồi giáo và Cơ Đốc giáo. Phật giáo Tây Tạng có ảnh hưởng mang tính chủ yếu đối với nghệ thuật, âm nhạc, lễ hội của khu vực. Kiến trúc Tạng phản ánh ảnh hưởng từ kiến trúc Hán và kiến trúc Ấn. Các loại lương thực chủ yếu tại Tây Tạng là đại mạch, thịt bò Tạng, và trà bơ.
Bạn đang đọc: Tây Tạng – Wikipedia tiếng Việt
Người Tạng gọi vùng đất của họ là Bod བོད་, mặc dù ban đầu nó chỉ có nghĩa là chỉ vùng trung bộ quanh Lhasa- nay được gọi là Ü trong tiếng Tạng. Cách phát âm trong tiếng Tạng tiêu chuẩn của từ Bod, [pʰøʔ˨˧˨], được chuyển tự thành Bhö theo phương pháp Tournadre, Bö theo phương pháp THL, và Poi theo bính âm tiếng Tạng. Một số học giả cho rằng các văn bản đầu tiên đề cập đến Bod “Tây Tạng” là những miêu tả về người Bautai trong các tác phẩm Chuyến đi vượt Hồng Hải (thế kỷ 1 CN) và Geographia (Ptolemy, thế kỷ 2 CN),[6] bản thân nó lại có nguồn gốc từ Bhauṭṭa trong tiếng Phạn.[7]
Từ “Tây Tạng”(西藏)trong tiếng Hán bắt nguồn từ việc hoán dụ tên gọi khu vực Tsang quanh Shigatse, cộng thêm tiền tố “Tây” (西).(Con người, ngôn ngữ, và văn hóa Tây Tạng đến từ bất cứ nơi đâu cũng đều được gọi là “Tạng”(tiếng Trung: 藏; bính âm: Zàng), song khái niệm địa lý của Tây Tạng tại Trung Quốc nay thường chỉ giới hạn trong Khu tự trị Tây Tạng. Thuật ngữ Tây Tạng được đặt ra dưới thời Gia Khánh Đế (1796–1820).
Tên Thổ Phồn lần đầu tiên được viết bằng Hán tự bằng “土番” vào thế kỷ 7 (Lý Thái) và bằng 吐蕃 vào thế kỷ 10 (Đường thư mô tả sứ thần năm 608–609 do Tán phổ Nang Nhật Luân Tán phái đến chỗ Tùy Dạng Đế). Trong tiếng Hán Trung cổ, do William H. Baxter tái dựng, 土番 được đọc là thux-phjon và 吐蕃 được đọc là thux-pjon (với x thể hiện thanh điệu).[8] Các tên tiếng Hán khác dùng để chỉ Tây Tạng bao gồm:
Nhà Tây Tạng học người Mỹ Elliot Sperling đã lập luận ủng hộ xu hướng gần đây của một số tác giả người Trung phục dựng lại thuật ngữ Tubote (giản thể: 图伯特; phồn thể: 圖伯特; Hán-Việt: Đồ Bá Đặc; bính âm: Túbótè) ngoài việc cho sử dụng phiên âm quốc tế của Tibet mà còn để sử dụng thay cho Tây Tạng, với lý do Tubote rõ ràng bao gồm toàn bộ cao nguyên Tây Tạng không chỉ đơn giản là Khu tự trị Tây Tạng
Các nhà ngôn ngữ học thường xếp tiếng Tạng là một ngôn từ thuộc Ngữ hệ Hán-Tạng, mặc dầu ranh giới giữa ” tiếng Tạng ” với những ngôn từ Himalaya khác hoàn toàn có thể không rõ ràng. Theo Matthew Kapstein :
Theo quan điểm của ngôn ngữ học lịch sử dân tộc, tiếng Tạng tương đồng nhất với tiếng Miến Điện trong số những ngôn từ lớn tại châu Á. Nhóm hai ngôn từ này cùng với những ngôn từ khác có vẻ như có liên hệ ở vùng đất Himalaya, cũng như ở vùng cao của Khu vực Đông Nam Á và những khu vực ranh giới giữa Hán-Tạng, những nhà ngôn ngữ học nói chùng Tóm lại rằng có sự sống sót của một họ ngôn từ Tạng-Miến. Gây nhiều tranh cãi hơn là việc nhóm ngôn từ Tạng-Miến được cho là một phần của một họ ngôn từ lớn hơn là ngữ hệ Hán-Tạng, qua đó tiếng Tạng và tiếng Miến là họ hàng xa của tiếng Hán. [ 9 ]
Trẻ em người Tạng ở Kham, trong một liên hoan ngựaTiếng Tạng có nhiều phương ngữ địa phương thường không hiểu lẫn nhau. Nó được sử dụng trên khắp cao nguyên Tây Tạng và Bhutan, cũng được nói tại một số ít nơi ở Nepal và bắc Ấn Độ, như ở Sikkim. Nhìn chung, những phương ngữ ở trung bộ Tây Tạng ( gồm có Lhasa ), Kham, Amdo và 1 số ít khu vực nhỏ hơn được xem là những phương ngữ tiếng Tạng. Các dạng khác, đặc biệt quan trọng là Dzongkha, Sikkim, Sherpa, và Ladakh, được những người sử dụng chúng xem là những ngôn từ riêng không liên quan gì đến nhau, phần đông là vì nguyên do chính trị .Mặc dù khẩu ngữ tiếng Tạng biến hóa tùy theo khu vực, tuy nhiên văn viết tiếng Tạng dựa trên ngôn từ Tạng cổ xưa thì như nhau rộng khắp. Điều này hoàn toàn có thể là do tác động ảnh hưởng vĩnh viễn của Thổ Phồn. Tiếng Tạng có chữ viết riêng, chung với tiếng Ladakh và tiếng Dzongkha, có nguồn gốc từ chữ Brāhmī từ Ấn Độ cổ đại. [ 10 ]
Loài người định cư trên cao nguyên Tây Tạng tối thiểu là từ 21.000 năm trước [ 11 ] Các dân cư này hầu hết bị thay thế sửa chữa vào khoảng chừng năm 3000 TCN bởi những người nhập cư thời đại đồ đá mới đến từ miền Bắc Trung Quốc. Tuy nhiên, có một sự ” di truyền cục bộ liên tục giữa những dân cư thời đại đồ đá cũ và những dân cư Tạng văn minh “. [ 12 ]Bản văn tiếng Tạng truyền kiếp nhất xác lập văn hóa truyền thống Tượng Hùng ( Zhangzhung ) là của một nhóm người nhập cư từ khu vực Amdo đến nơi mà nay là Guge ở tây bộ Tây Tạng. [ 13 ] Tượng Hùng được nhìn nhận là khởi nguồn bắt đầu của tôn giáo Bön. [ 14 ] Vào thế kỷ 1 TCN, một vương quốc láng giềng nổi lên ở thung lũng Yarlung, và quốc vương Yarlung là Drigum Tsenpo ( Chỉ Cống Tán Phổ ) nỗ lực vô hiệu tác động ảnh hưởng của Tượng Hùng bằng việc trục xuất những giáo sĩ Bön khỏi Yarlung. [ 15 ] Ông bị ám sát và Tượng Hùng vẫn liên tục tống trị khu vực cho đến khi bị Songtsen Gampo ( Tùng Tán Cán Bố ) sáp nhập vào thế kỷ thứ 7 .Trước thời Tùng Tán Cán Bố, những quân chủ Tây Tạng mang tính truyền thuyết thần thoại hơn là trong thực tiễn, và không có đủ dẫn chứng về việc họ có thực sự sống sót hay không. [ 16 ]
Thổ Phồn những năm 780 – 790Bản đồ nhà NguyênBản đồ nhà Thanh
Lịch sử của một Tây Tạng thống nhất mở màn dưới triều đại của Tùng Tán Cán Bố, ông thống nhất những chủ quyền lãnh thổ ở thung lũng sông Yarlung và lập nên Đế quốc Thổ Phồn. Ông cũng triển khai nhiều cải cách và Thổ Phồn nhanh gọn khuếch trương thế lực rồi trở thành một đế quốc hùng mạnh. Tương truyền, phối ngẫu tiên phong của ông là Công chúa Bhrikuti của Nepal, và bà đóng một vai trò rất lớn trong việc hình thành đức tin Phật giáo tại Tây Tạng. Năm 640, Tùng Tán Cán Bố kết hôn với Văn Thành công chúa, cháu gái của Đường Thái Tông. [ 17 ]Dưới thời một số ít vị quân chủ tiếp theo, Phật giáo trở thành quốc giáo và thế lực của Thổ Phồn thậm chí còn còn bao trùm lên nhiều khu vực to lớn ở Trung Á, từng triển khai những cuộc xâm nhập lớn vào chủ quyền lãnh thổ Đại Đường, thậm chí còn từng tiến đến kinh sư Trường An vào cuối năm 763. [ 18 ] Tuy nhiên, Thổ Phồn chỉ cò thể chiếm được Trường An trong 15 ngày, sau đó họ bị liên minh Đường cùng Hồi Cốt vượt mặt .Vương quốc Nam Chiếu nằm dưới quyền trấn áp của Thổ Phồn từ năm 750 đến 794, người Nam Chiếu sau thoát khỏi quyền bá chủ của Thổ Phồn và giúp Đường vượt mặt Thổ Phồn. [ 19 ]Năm 747, uy thế của Thổ Phồn bị lung lay do chiến dịch của tướng Đường Cao Tiên Chi, người này muốn tái lập tuyến đường thông thương trực tiếp giữa Trung Á và Kashmir. Năm 750, Thổ Phồn mất hầu hết thuộc địa ở Trung Á vào tay Đường. Tuy nhiên, sau khi Cao Tiên Chi thất bại trước vương triều Abbas của người Ả Rập trong trận Talas ( 751 ) và Đường xảy ra nội loạn, ảnh hưởng tác động của Đường suy giảm nhanh gọn và tác động ảnh hưởng của Thổ Phồn được hồi sinh .Vào năm 821 / 822, Thổ Phồn và Đường ký kết hòa ước, trong đó xác lập chi tiết cụ thể biên giới giữa hai bên, chùng được khắc song ngữ trên một cột đá nằm bên ngoài chùa Đại Chiêu ( Jokhang ) ở Lhasa. [ 20 ] Thổ Phồn liên tục duy trì vị thế là một đế quốc Trung Á cho đến giữa thế kỷ thứ 9, khi một cuộc nội chiến tranh giành quyền kế vị dẫn đến sự sụp đổ của Thổ Phồn. Thời kỳ sau đó, Thổ Phồn bị phân liệt giữa những quân phiệt và bộ lạc, không có quyền lực tối cao tập trung chuyên sâu .
Triều Nguyên quản trị Tây Tạng trải qua Tuyên Chính Viện – cơ quan hành chính cao nhất tại Tây Tạng. Một trong số những mục tiêu của cơ quan này là chọn ra một ” dpon-chen ” ( bản thiền ), thường do Lạt-ma chỉ định và được nhà vua Nguyên ở Bắc Kinh xác nhận. [ 21 ] Lạt ma của Tát-ca phái duy trì quyền tự chủ ở một mức độ nhất định, nắm thẩm quyền về mặt chính trị của khu vực, còn Bản thiền thì nắm giữ quyền hành pháp và quân sự chiến lược. Sự quản lý của người Mông Cổ so với Tây Tạng là riêng không liên quan gì đến nhau so với những tỉnh khác tại Trung Quốc bản thổ. Nếu Lạt-ma của Tát-ca phái xảy ra xung đột với Bản thiền, Bản thiền có quyền đem quân đến khu vực. [ 21 ]Người Tây Tạng duy trì thẩm quyền hư danh so với những yếu tố tôn giáo và chính trị khu vực, trong khi người Mông Cổ quản trị cấu trúc và hành chính [ 22 ] tại khu vực, được củng cố bằng những can thiệp quân sự chiến lược tuy nhiên việc này hiếm khi xảy ra. Đây là thực trạng ” cấu trúc hai chính quyền sở tại ” dưới trướng nhà vua Nguyên, trong đó quyền lực tối cao chính thuộc về người Mông Cổ. [ 21 ] Vương tử Khoát Đoan ( Khuden ) giành được quyền lực tối cao thế tục tại Tây Tạng vào thập niên 1240 và ủng hộ Tát Ca Ban Chí Đạt ( Sakya Pandita ), nơi người này tu hành trở thành thủ phủ của Tây Tạng .Quyền trấn áp của triều Nguyên so với Tây Tạng kết thúc khi họ bị triều Minh lật đổ ở Cafe Trung Nguyên, và Đại Tư Đồ Giáng Khúc Kiên Tán ( Tai Situ Changchub Gyaltsen ) nổi dậy chống lại người Mông Cổ. [ 23 ] Sau cuộc nổi dậy, Đại Tư Đồ Giáng Khúc Kiên Tán thành lập nên triều đại Phách Mộc Trúc Ba ( Phagmodrupa ), và tìm cách giảm bớt ảnh hưởng tác động của Nguyên so với văn hóa truyền thống và chính trị Tạng. [ 24 ]
Mục Lục
Phác Mộc Trúc Ba và Đạt Lai Lạt Ma[sửa|sửa mã nguồn]
Từ năm 1346 đến 1354, Đại Tư Đồ Giáng Khúc Kiên Tán lật đổ Tát-ca phái và lập ra triều Phách Mộc Trúc Ba. Trong 80 năm sau đó, Tông-khách-ba xây dựng nên Cách-lỗ phái, những tu viện Phật giáo quan trọng như Ganden ( Cam Đan ), Drepung ( Triết Bạng ), và Sera ( Sắc Lạp ) được hình thành gần Lhasa .
Năm 1578, Yêm Đáp Hãn (Altan Khan) của Thổ Mặc Đặc bộ Mông Cổ trao cho Sách Nam Gia Thố (Sonam Gyatso)- một Lạt-ma có địa vị cao của Cách-lỗ phái, danh hiệu Đạt-lai Lạt-ma (Dalai Lama); Dalai là từ dịch sang tiếng Mông Cổ của “Gyatso”, nghĩa là “đại dương”.[25]
Những người Âu tiên phong đến Tây Tạng là những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha António de Andrade và Manuel Marques vào năm 1624. Họ được Quốc vương và vương hậu nước Cổ Cách ( Guge ) nghênh đón, và được phép kiến thiết xây dựng một nhà thời thánh và trình làng đức tin Cơ Đốc giáo. Quốc vương Cổ Cách nhiệt huyết đồng ý Cơ Đốc giáo để đối phó với ảnh hưởng tác động tôn giáo của Cách-lỗ phái đang tăng trưởng mạnh và để làm đối trọng với những đối thủ cạnh tranh tiềm năng của mình cũng như củng cố vị thế. Toàn bộ những nhà truyền giáo bị trục xuất vào năm 1745. [ 26 ] [ 27 ] [ 28 ] [ 29 ]
Triều Thanh đưa Amdo vào quyền kiểm soát của họ vào năm 1724, hợp nhất đông bộ của Kham vào các tỉnh lân cận vào năm 1728.[30] Triều đình Thanh phái một đặc ủy viên cư dân, gọi là một Amban (ngang bang), đến Lhasa. Năm 1750, Ngang bang và phần lớn người Hán cùng người Mãn sống tại Lhasa bị sát hại trong một cuộc nổi loạn, và quân Thanh nhanh chóng tiến đến và đàn áp quân nổi dậy vào năm sau. Giống như triều Nguyên, triều Thanh kiểm soát hành chính và quân sự của khu vực, và trao cho Tây Tạng sự tự trị nhất định về mặt chính trị. Tướng quân Thanh hành hình thị chúng một số người ủng hộ quân nổi dậy, và vào năm 1723 và 1728, tiến hành các thay đổi trong cấu trúc chính trị và dự tính về tổ chức chính thức. Triều Thanh nay cho Đạt-lai Lạt-ma lãnh đạo chính quyền được gọi là Cát hạ (Kashag)[31] song nâng cao vai trò của Ngang bang bao gồm cả việc tham gia vào các vấn đề nội bộ của Tây Tạng. Đồng thời triều Thanh cũng cho các giáo sĩ nắm những vị trí chủ chốt trong chính quyền địa phương để làm đối trọng với quyền lực của tầng lớp quý tộc.[32]
Trong nhiều thập niên, Tây Tạng có được thực trạng độc lập, tuy nhiên vào năm 1792, nhà vua Thanh khiển một đội quân lớn đến Tây Tạng nhằm mục đích đánh đuổi quân Nepal xâm lược. Triều Thanh lại tái tổ chức triển khai chính quyền sở tại Tây Tạng, lần này là trải qua một bản kế hoạch gọi là ” Tân đính Tây Tạng chương trình nhị thập cửu điều “. Các đơn vị chức năng quân Thanh đồn trú cũng được thiết lập gần biên giới với Nepal. [ 33 ] Tây Tạng do người Mãn thống trị trong những quá trình khác nhau vào thế kỷ 18, và những năm ngay sau những chỉnh lý 1792 là thời kỳ đỉnh điểm của quyền lực tối cao của đại diện thay mặt triều đình Thanh ; tuy nhiên không có nỗ lực nào nhằm mục đích biến Tây Tạng thành một tỉnh của Đại Thanh. [ 34 ]Năm 1834, Đế quốc Sikh xâm lược và thôn tính Ladakh, một khu vực thuộc văn hóa truyền thống Tây Tạng mà khi đó là một vương quốc độc lập. Bảy năm sau đó, một đội quân Sikh do tướng Zorawar Singh chỉ huy tiến vào lấn chiếm tây bộ Tây Tạng từ Ladakh, khởi đầu Chiến tranh Thanh-Sikh. Một đội quân Thanh-Tạng đẩy lui quân xâm lược tuy nhiên sau đó bị vượt mặt khi truy kích quân Sikh đến Ladakh. Chiến tranh kết thúc với việc ký kết hòa ước giữa Thanh và Sikh. [ 35 ]Do triều Thanh suy yếu, thẩm quyền của họ so với Tây Tạng cũng dần suy yếu theo ; đến cuối thế kỷ 19, ảnh hưởng tác động của triều Thanh còn lại khá ít ( vì Thanh Triều bại trận sau Trung – Nhật cuộc chiến tranh 1895 ). Thẩm quyền của triều Thanh đa số mang tính hình tượng thay vì thực ra vào cuối thế kỷ 19, [ 36 ] [ 37 ] [ 38 ] [ 39 ] mặc dầu trong thập niên 1890 người Tạng vì những nguyên do riêng vẫn liên tục lựa chọn việc nhấn mạnh vấn đề thẩm quyền mang tính hình tượng của triều Thanh và bộc lộ rằng điều này có vẻ như đáng kể. [ 40 ]Thời kỳ này, Tây Tạng cũng Open 1 số ít liên hệ với Dòng Tên và Dòng Phanxicô từ châu Âu, và vào năm 1774 một nhà quý tộc người Scotland là George Bogle đến Shigatse để dò xét tiềm năng thương mại cho Công ty Đông Ấn Anh. [ 41 ] Thế kỷ 19, Đế quốc Anh xâm lấn từ miền Bắc Ấn Độ vào khu vực dãy Himalaya, Vương quốc Afghanistan và Đế quốc Nga khuếch trương ra Trung Á và họ hoài nghi dự tính của nhau so với Tây Tạng .Năm 1904, Anh xâm lược Tây Tạng do lo ngại rằng người Nga sẽ khuếch trương thế lực đến khu vực này, Anh kỳ vọng rằng việc đàm phán với Đạt-lại Lạt-ma thứ 13 sẽ có hiện quả hơn là với những đại diện thay mặt của triều đình Bắc Kinh. [ 42 ] Khi quân Anh tiến đến Tây Tạng, một cuộc cạnh tranh đối đầu vũ trang giữa hai bên dẫn đến vụ thảm sát Chumik Shenko, [ 43 ] sau đó Francis Younghusband áp đặt một hiệp định mà sau đó bị bãi bỏ, và được thay thế sửa chữa bởi Hiệp ước giữa Anh Quốc và Đại Thanh vào năm 1906 .Năm 1910, triều đình Thanh khiển Triệu Nhĩ Phong đem quân đến Tây Tạng để thiết lập quyền quản lý trực tiếp của triều đình và hạ chiếu phế bỏ Đạt-lại Lạt-ma 13 – người chạy trốn sang Ấn Độ thuộc Anh. Triệu Nhĩ Phong đánh bại quân Tây Tạng và trục xuất lực lượng của Đạt-lại Lạt-ma khỏi Tây Tạng .
Thời Hậu Thanh[sửa|sửa mã nguồn]
Sau Cách mạng Tân Hợi ( 1911 – 1912 ) lật đổ triều Thanh và những binh sĩ Thanh ở đầu cuối bị áp giải ra khỏi Tây Tạng, Trung Hoa Dân Quốc xin lỗi về những hành vi của triều Thanh và quyết định hành động Phục hồi tước hiệu cho Đạt-lai Lạt-ma. [ 44 ] Đạt-lai Lạt-ma phủ nhận bất kể tước hiệu nào của Trung Quốc, và ông công bố quản lý một Tây Tạng độc lập. [ 45 ] Năm 1913, Tây Tạng và Mông Cổ ký hiệp định công nhận lẫn nhau. [ 46 ] Trong 36 năm sau đó, Đạt-lai Lạt-ma thứ 13 và những nhiếp chính sau đó ông quản lý Tây Tạng. Trong thời hạn này, Tây Tạng giao chiến với những quân phiệt Trung Quốc để tranh quyền trấn áp so với những khu vực người Tạng tại Tây Khang và Thanh Hải ( một phần của Kham và Amdo ) dọc theo thượng du Trường Giang. [ 47 ] Năm 1914, cơ quan chính phủ Tây Tạng ký kết điều ước Simla với Anh Quốc, nhượng Nam Tây Tạng cho Ấn Độ thuộc Anh. nhà nước Trung Quốc công bố điều ước là phạm pháp. [ 48 ] [ 49 ]Khi những nhiếp chính mắc những sơ suất trong việc quản lý vào thập niên 1930 và 1940, chính phủ nước nhà Quốc dân của Trung Quốc nhân thời cơ này để khuếch trương khoanh vùng phạm vi thế lực vào chủ quyền lãnh thổ Tây Tạng. [ 50 ]
Từ năm 1950 đến nay[sửa|sửa mã nguồn]
Sau Nội chiến Trung Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc triển khai ” giải phóng độc lập Tây Tạng ” vào năm 1950 và dàn xếp ” Thập thất điều hiệp nghị ” với chính phủ nước nhà của Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 mới đăng cơ, khẳng định chắc chắn chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc tuy nhiên trao cho Tây Tạng quyền tự trị khu vực. Năm 1959, Trung Quốc triển khai cuộc Cải cách Dân chủ Tây Tạng nhằm mục đích xóa bỏ chính sách nông nô cùng sự phân loại đẳng cấp và sang trọng phong kiến tại Tây Tạng dẫn đến cuộc Nổi dậy Tây Tạng 1959 của giới chủ nô và lãnh đạo Phật giáo tại đây. Cuộc nổi dậy bị dập tắt, Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 Tenzin Gyatso lưu vong sang Ấn Độ, nhà nước Tây Tạng bị giải tán, chính sách nông nô bị xóa bỏ, nông nô được giải phóng và trở thành xã viên của những công xã nhân dân, đất đai của chủ nô và tu viện bị quốc hữu hóa. Sau đó, trên hành trình dài đi lưu vong, Đạt-lai Lạt-ma thứ 14 trọn vẹn bác bỏ những hiệp nghị ký với Trung Quốc. [ 51 ] [ 52 ]Sau khi cơ quan chính phủ của Đạt-lai Lạt-ma chạy đến Dharamsala, Ấn Độ, trong Nổi dậy Tây Tạng 1959, họ xây dựng một chính phủ nước nhà lưu vong đối nghịch. Sau đó, cơ quan chính phủ Bắc Kinh từ bỏ hiệp nghị và khởi đầu thực thi những cải cách xã hội và chính trị từng bị tạm dừng. [ 53 ] .Trong thảm họa Nạn đói lớn gây ra bởi những chủ trương sai lầm đáng tiếc của chính quyền sở tại Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, có khoảng chừng 200.000 đến một triệu người Tây Tạng thiệt mạng, [ 54 ] và xê dịch 6.000 tu viện ở Tây Tạng bị hủy hoại trong Cách mạng Văn hóa. [ 55 ] Năm 1962, Trung Quốc và Ấn Độ giao chiến trong đại chiến ngắn ngủi do tranh chấp chủ quyền lãnh thổ. Mặc dù giành thắng lợi tuy nhiên những binh sĩ Trung Quốc vẫn rút về phía bắc của đường McMahon, Nam Tây Tạng vẫn thuộc quyền quản trị của Ấn Độ. [ 49 ]Năm 1980, Tổng bí thư Hồ Diệu Bang thăm Tây Tạng, và mở ra một quá trình tự do hóa xã hội, chính trị và kinh tế tài chính. [ 56 ] Đến cuối thập niên, những tăng ni tại tu viện Drepung và Sera mở màn kháng nghị và nhu yếu độc lập, do vậy cơ quan chính phủ Trung ương dừng việc cải cách lại và mở màn một chiến dịch chống ly khai. [ 56 ]
Nạn đói lớn[sửa|sửa mã nguồn]
Trung Quốc phải hứng chịu nạn đói trên diện rộng từ những năm 1959 đến 1961. Nguyên nhân của nạn đói vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi. Hạn hán và thời tiết xấu đóng một phần và những chủ trương sai lầm đáng tiếc của Đại nhảy vọt cũng đã góp thêm phần gây ra nạn đói. Ước tính về số người chết khác nhau ; Theo thống kê chính thức của chính phủ nước nhà Trung Quốc, đã có 15 triệu người chết trong nạn đói. Các ước tính không chính thức của nhiều học giả đã ước tính số nạn nhân của nạn đói trên toàn chủ quyền lãnh thổ Trung Quốc trong vòng hai năm 1959 – 1961 là từ 20 đến 43 triệu người [ 57 ] .
Vào tháng 5 năm 1962, Ban Thiền Lạt Ma thứ mười (khi ấy là chủ tịch Ủy ban trù bị của Khu tự trị Tây Tạng) đã gửi cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai một bản báo cáo mật [58][59] miêu tả chi tiết về nỗi thống khổ của nhân dân Tây Tạng khi phải đối mặt với nạn đói, bản báo cáo này còn được gọi là Đơn thỉnh cầu 70.000 ký tự: “Ở nhiều vùng của Tây Tạng, người dân đã chết đói… Ở một số nơi, cả gia đình đã thiệt mạng và tỷ lệ tử vong là rất cao. Đây là điều rất bất thường, khủng khiếp và nghiêm trọng… Trước đây Tây Tạng sống trong một chế độ phong kiến man rợ đen tối nhưng không bao giờ thiếu lương thực như vậy, đặc biệt là từ khi Phật giáo được truyền bá vào đây…. Ở Tây Tạng từ năm 1959 đến năm 1961, trong vòng hai năm hầu hết các hoạt động chăn nuôi và trồng trọt đều phải ngừng lại. Những người du mục không có ngũ cốc để ăn và nông dân không có thịt, bơ hoặc muối“, báo cáo tiếp tục. Theo ý kiến của Ban Thiền Lạt Ma thì những cái chết này là hậu quả của các chính sách sai lầm do chính phủ ban hành, không phải do bất kỳ thảm họa thiên nhiên nào [60]. Ban Thiền Lạt Ma cũng mô tả sự kinh hoàng của nạn đói mà người dân Tây Tạng phải chịu đựng: “Chưa bao giờ có một sự kiện như vậy trong lịch sử của Tây Tạng. Mọi người thậm chí không thể tưởng tượng được cảnh đói khủng khiếp như vậy ngay cả trong những cơn ác mộng của họ…” [60].
Cách mạng văn hóa truyền thống[sửa|sửa mã nguồn]
Cuộc Cách mạng Văn hóa được khởi xướng vào năm 1966 là một thảm họa so với Tây Tạng, cũng như so với phần còn lại của Trung Quốc. Một số lượng lớn người Tây Tạng đã thiệt mạng trong quy trình tiến độ này, và số lượng những tu viện còn nguyên vẹn ở Tây Tạng đã giảm từ hàng nghìn xuống còn dưới 10. Sự phẫn nộ của người Tây Tạng so với người Hán ngày càng trở nên thâm thúy [ 55 ] .
Cáo buộc diệt chủng[sửa|sửa mã nguồn]
Theo Thỏa thuận Mười bảy Điểm năm 1951, nhà nước Cộng hòa Nhân dân Nước Trung Hoa đã đưa ra một số ít chủ trương, trong số đó : hứa duy trì mạng lưới hệ thống chính trị hiện có của Tây Tạng, duy trì vị thế và công dụng của Đức Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma, bảo vệ quyền tự do tôn giáo và những tu viện, đồng thời không thúc ép việc thực thi cải cách ở Tây Tạng. ICJ nhận thấy rằng những cam kết này và nhiều cam kết khác đã bị Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc vi phạm và chính quyền sở tại Tây Tạng trọn vẹn có quyền khước từ Hiệp định như đã làm vào ngày 11 tháng 3 năm 1959 [ 61 ] .
Năm 1960, Ủy ban luật gia quốc tế phi chính phủ (ICJ) đã đưa ra một báo cáo có tiêu đề Tây Tạng và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho Liên Hợp Quốc. Báo cáo được chuẩn bị bởi Ủy ban Điều tra Pháp lý của ICJ, bao gồm mười một luật sư quốc tế từ khắp nơi trên thế giới. Báo cáo này đã cáo buộc người Trung Quốc đang thực hiện tội ác diệt chủng ở Tây Tạng, sau chín năm chiếm đóng hoàn toàn, sáu năm trước khi cuộc cách mạng văn hóa bắt đầu [61]. ICJ cũng ghi lại các tài liệu về các vụ thảm sát, tra tấn và sát hại, đập phá các tu viện và xóa sổ các trại du mục. Các tài liệu lưu trữ của Liên Xô cung cấp bằng chứng cho thấy chính quyền cộng sản Trung Quốc, những người nhận được sự hỗ trợ lớn về thiết bị quân sự từ Liên Xô, đã sử dụng các máy bay quân sự của Liên Xô để ném bom các tu viện và thực thi một loạt các hoạt động trừng phạt khác ở Tây Tạng [62].
Ủy ban Luật gia Quốc tế đã Kết luận trong những báo cáo giải trình của mình vào những năm 1959 và 1960 rằng có một loạt những dẫn chứng về tội ác diệt chủng do cơ quan chính phủ Trung Quốc thực thi tại Tây Tạng. Một số nguồn tin ước tính có tới 260.000 người đã chết trong những nhà tù và những trại lao động ở Tây Tạng từ năm 1950 đến năm 1984. Các tài liệu cụ thể cho thấy cơ quan chính phủ Trung Quốc đã triển khai một chiến dịch tra tấn so với những người sự không tương đồng chính kiến Tây Tạng trong tù từ tháng 3 năm 1989 đến tháng 5 năm 1990. Tuy nhiên, thời nay, tra tấn vẫn được sử dụng tiếp tục so với những người bị giam giữ chính trị. Những tù nhân như vậy bị giam giữ trong những điều kiện kèm theo dưới tiêu chuẩn, được cung ứng thức ăn không đủ, bị cấm trò chuyện, tiếp tục bị biệt giam và bị khước từ những giải pháp điều trị y tế thích hợp. Đánh đập và tra tấn bằng dùi cui điện là thông dụng ; nhiều tù nhân đã chết vì bị đối xử như vậy. Vào năm 1992, một nhà sư đã bị người Trung Quốc tra tấn hơn 30 năm, đã hối lộ cai ngục để giao nộp những dụng cụ tra tấn. Các loại vũ khí này, được nhập lậu ra khỏi Tây Tạng, đã được tọa lạc ở phương Tây vào năm 1994 và 1995. [ 63 ]
- Bài chính: Địa lý Tây Tạng
Tây Tạng nằm trên cao nguyên Tây Tạng, cao trung bình trên 4200 m. Phần lớn dãy Himalaya nằm trong địa phận Tây Tạng. Đỉnh cao nhất của dãy núi này, đỉnh Everest, nằm trên biên giới với Nepal .Khí hậu ở đây rất khô suốt 9 tháng trong năm. Có những dãy núi tuyết vĩnh cửu cao 5.000 – 7.000 m. Các hẻm núi phía tây nhận được một lượng nhỏ tuyết mỗi năm nhưng vẫn hoàn toàn có thể dùng được quanh năm. Nhiệt độ thấp là chủ yếu trong khu vực này, trong đó sự hoang vắng lạnh lẽo đến tẻ nhạt bởi không có một loài cây nào ngoài một vài bụi cây rậm và thấp, và gió thổi ngang qua đồng bằng khô cằn bát ngát không hề bị cản trở. Gió mùa từ Ấn Độ Dương gây ra một số ít tác động ảnh hưởng ở phía đông Tây Tạng. Phía bắc Tây Tạng có nhiệt độ cao trong mùa hè và lạnh kinh khủng về mùa đông .
Tây Tạng trong lịch sử bao gồm các khu vực sau:
Xem thêm: Tân An – Wikipedia tiếng Việt
- Amdo (a’mdo) ở phía đông bắc, được sáp nhập vào các tỉnh Thanh Hải, Cam Túc và Tứ Xuyên của Trung Quốc.
- Kham (khams) ở phía đông, một phần của Tứ Xuyên, bắc Vân Nam và một phần của Thanh Hải.
- Tây Kham, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
- U (dbus), ở trung tâm, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
- Tsang (gtsang) ở phía tây, một phần của Khu tự trị Tây Tạng.
Văn hóa của người Tây Tạng ảnh hưởng tác động to lớn tới những vương quốc láng giềng như Bhutan, Nepal, những khu vực kề sát của Ấn Độ như Sikkim và Ladakh, và những tỉnh kề bên của Trung Quốc mà ở đó Phật giáo Tây Tạng là tôn giáo đa phần .
Bản đồ Lhasa đầu thế kỷ 19 .Một số con sông chính có đầu nguồn ở Tây Tạng gồm có :
Kinh tế của Tây Tạng đa phần là nông nghiệp tự cung tự túc tự cấp. Vì hạn chế trong đất trồng trọt, chăn nuôi đã tăng trưởng như ngành nghề chính. Trong những năm gần đây, du lịch đã trở thành một ngành quan trọng, và nó được triển khai một cách tích cực từ phía chính quyền sở tại. Tuyến đường tàu Thanh-Tạng ( 青藏铁路 ) được thiết kế xây dựng để liên kết khu vực này với phần còn lại của Trung Quốc dài 1956 km nối tỉnh Thanh Hải với Tây Tạng được nhà nước Trung Quốc công bố hoàn thành xong vào ngày 15 tháng 10 năm 2005 .
Tuyến đường tàu Thanh-Tạng[sửa|sửa mã nguồn]
Từ ngày 1/7/2006, Trung Quốc chính thức đưa vào quản lý và vận hành tuyến đường tàu cao nhất quốc tế, nối thành phố Thanh Hải với vùng Tây Tạng hùng vĩ .Tuyến đường sắt lên Tây Tạng là khu công trình kiến thiết xây dựng mang công nghệ tiên tiến phức tạp, với đường ray đặc biệt quan trọng có năng lực không thay đổi trong điều kiện kèm theo thời tiết vô cùng khắc nghiệt. Ga đầu của tuyến đường tàu nổi tiếng này là thành phố Golmud thuộc tỉnh Thanh Hải và ga cuối là thủ phủ Lhasa của Tây Tạng .Các toa tàu được phong cách thiết kế như khoang máy bay để bảo vệ hành khách trước độ cao quá lớn, với điểm cao nhất của khu công trình lên tới 5.072 mét so với mặt nước biển. Không khí bên trong được điều hòa tự động hóa để cân đối tại những nơi thiếu dưỡng khí mà tàu chạy qua .Trung Quốc công bố tuyến đường tàu Thanh-Tạng có tổng ngân sách thiết kế xây dựng 4,2 tỷ USD và dài 1.140 km này là một kỳ tích vĩ đại về công nghệ tiên tiến, đem lại thời cơ tăng trưởng to lớn cho một khu vực bát ngát hùng vĩ .nhà nước Trung Quốc đang có kế hoạch lan rộng ra tuyến đường tàu cao nhất quốc tế vừa được khánh thành, nhằm mục đích đưa khu công trình được coi là kỳ tích thiết kế xây dựng này vươn tới thành phố lớn thứ hai ở Tây Tạng sau Lhasa là Xigaze .Thành phố Xigaze cao hơn mực nước biển 3.800 mét và nằm gần biên giới với Ấn Độ. Đây là nơi ngự trị truyền thống lịch sử của Ban Thiền Lạt Ma, một trong những chỉ huy niềm tin quan trọng của Phật giáo Tây Tạng .Xigaze còn có cách viết khác là Shigatse có dân số 80.000 người. Vùng đất này tọa lạc tại nơi hợp lưu của hai dòng sông nổi tiếng về tâm linh là Yarlong Tsangpo và Nuangchu, ở phía tây của Khu tự trị Tây Tạng .Theo Tân Hoa xã, tuyến đường sắt sẽ được lê dài thêm 270 km từ Lhasa tới Xigaze và hoàn thành xong trong vòng 3 năm. Một quan chức địa phương là Yu Yungui nhấn mạnh vấn đề : ” Đường sắt sẽ tạo ra thời cơ lớn cho sự tăng trưởng kinh tế tài chính xã hội của Xigaze ” .Tình trạng cách ly đặc biệt quan trọng của Tây Tạng về địa lý khiến kinh tế tài chính vùng đất này nghèo nàn. Hệ thống giáo dục và tuổi thọ trung bình của người dân tại đây thấp hơn nhiều so với phần còn lại của Trung Quốc. Nhưng chính sự cách ly đó giúp bảo tồn nền văn hoá đặc trưng và lối sống không giống đâu trên quốc tế này của Tây Tạng .Sự Open của mạng lưới hệ thống đường tàu sẽ đem đến biến hóa kinh hoàng mà Bắc Kinh nhìn nhận là sẽ tìm hiểu và khám phá Tây Tạng, mang đến sự phồn vinh cho người dân địa phương. Nhưng những người chỉ trích khu công trình này thì cho rằng, nó sẽ là hồi chuông báo tử cho nền văn hoá đặc hữu của Tây Tạng .Trước khi có đường tàu, chỉ có hai cách đến được với thủ phủ Lhasa. Đó là đáp một chuyến bay rất hao tiền để rồi dựng tóc gáy mỗi khi nó hạ cánh xuống Tây Tạng. Cách thứ hai là đi trên những chuyến xe buýt nêm chặt người và mất 3 ngày 3 đêm ròng rã trên những con đường núi nguy khốn và tổn sức .Nhưng rất nhiều chiếc xe như vậy cùng hành khách của nó đã kết thúc cuộc hành trình dài dưới một khe núi sâu nào đó có vô số trên đường .Có nhiều quan điểm khác nhau về ảnh hưởng tác động của tuyến đường sắt so với Tây Tạng. Nhiều người địa phương cho rằng : ” Đó là một sáng tạo độc đáo tốt. Nó sẽ giúp chúng tôi mang len ra thị trường thuận tiện hơn. Hiện chúng tôi phải thuê xe tải để chuyên chở, nhưng với tàu hoả nó sẽ rẻ và dễ hơn nhiều ” .Tuy nhiên, những nhà môi trường học lại lo lắng về những ảnh hưởng tác động của tuyến đường sắt đến con đường di trú của loài linh dương Tây Tạng quý và hiếm. Họ cũng lo ngại cho một hệ sinh thái rất mong manh, mà một khi bị phá hỏng sẽ phải mất cả một thế hệ để sửa sai .
(Xem toàn bộ bản đồ, có bao gồm các chú dẫn)Các nhóm sắc tộc ở Tây Tạng năm 1967Theo dòng lịch sử vẻ vang, dân cư Tây Tạng đa phần là tộc người Tạng. Các tộc người khác ở Tây Tạng gồm có người Menba ( Monpa ), người Lhoba, người Mông Cổ và người Hồi .Việc đưa ra tỷ suất người Trung Quốc gốc Hán ở Tây Tạng là một yếu tố chính trị nhạy cảm. Trong những năm từ thập niên 1960 đến thập niên 1980, nhiều tù nhân ( trên 1 triệu, theo Harry Wu ) đã được đưa vào những trại tái tạo ở Amdo ( Thanh Hải ) và họ đã ở lại sau khi được trả tự do. Từ những năm 1980, sự tự do hóa kinh tế tài chính ngày càng tăng và những đổi khác bên trong khu vực đã tạo ra một luồng di cư của nhiều người Hán tới Tây Tạng để tìm kiếm việc làm hay định cư, mặc dầu con số thực của việc di cư dân số này vẫn là điều gây tranh cãi. Chính quyền Tây Tạng lưu vong ước tính số lượng này là 7,5 triệu ( đối lại chỉ có 6 triệu người Tạng ), coi điều này như thể hiệu quả của chủ trương tích cực trong việc làm mất truyền thống dân tộc bản địa của người Tạng và thu nhỏ bất kể thời cơ nào của về độc lập chính trị của Tây Tạng, và như vậy đã vi phạm Công ước Geneva năm 1946 là ngăn cấm việc định cư của những lực lượng chiếm đóng. Chính quyền Tây Tạng lưu vong đặt dấu hỏi trên mọi số lượng thống kê được đưa ra bởi CHNDTH, chính bới họ đã không tính đến những thành viên của Giải phóng quân nhân dân đồn trú ở Tây Tạng ( hoặc mái ấm gia đình họ ), hoặc một lượng lớn dân di cư không ĐK. Tuyến đường tàu Thanh-Tạng ( Tây Ninh tới Lhasa ) cũng là sự quan ngại lớn, vì họ cho rằng nó sẽ làm thuận tiện hơn cho việc di dân .
Các hình thái tự trị của người Tạng-theo CHNDTH. Quyền tự trị thực sự của họ là đang tranh cãi .Tuy nhiên, chính phủ nước nhà CHNDTH không nhận mình là lực lượng chiếm đóng và đã kịch liệt phản đối những vấn đề về mất truyền thống dân tộc bản địa. CHNDTH cũng không thừa nhận những biên giới của Tây Tạng như Chính quyền Tây Tạng lưu vong đã phát ngôn, cho rằng đó là thủ đoạn có thống kê giám sát nhằm mục đích tính cả những khu vực phi-Tạng mà những người không là người Tạng đã sống nhiều thế hệ ( ví dụ điển hình như khu vực Tây Ninh và thung lũng Chaidam ) để ngày càng tăng nhận thức của người Tạng rằng chủ quyền lãnh thổ của người Tạng là lớn hơn Khu tự trị Tây Tạng lúc bấy giờ. Thống kê chính thức của CHNDTH thông tin rằng 92 % dân số ở Khu tự trị Tây Tạng là tộc người Tạng, mặc dầu tỷ suất này thấp hơn một cách đáng kể so với những tài liệu so với Amdo và đông Kham, chính bới người Trung Quốc gốc Hán không phân chia đều trên hàng loạt Tây Tạng lịch sử dân tộc. Trong khu tự trị Tây Tạng, hầu hết người Hán sống ở Lhasa. Các chủ trương trấn áp dân số như ” mỗi mái ấm gia đình chỉ có một con ” chỉ vận dụng so với người Hán, mà không vận dụng với những dân tộc thiểu số như người Tạng. CHNDTH nói rằng chính quyền sở tại đang cố gắng nỗ lực bảo vệ những văn hóa truyền thống truyền thống lịch sử Tây Tạng ; họ cũng thiết kế xây dựng tuyến đường sắt Thanh-Tạng, phục sinh hoàng cung Potala và nhiều dự án Bất Động Sản khác như thể một phần của kế hoạch Phát triển miền tây Trung Quốc, là một cố gắng nỗ lực to lớn và đắt tiền của phần miền đông giàu sang hơn của Trung Quốc so với Tây Tạng nhằm mục đích tăng trưởng những khu vực miền tây nghèo hơn .
Tượng những con sư tử tuyết lớn bảo vệ lối vào hoàng cung Potala Đại tu viện Samye, tu viện Phật giáo tiên phong ở Tây Tạng
Bài chính: Văn hóa Tây Tạng
Tôn giáo tại Tây Tạng ( 2012 ) [ 64 ]
Phật giáo Tây Tạng (78.5%)
Bon giáo (12.5%)
Tôn giáo truyền thống Trung Hoa (8.58%)
Hồi giáo[65] (0.4%)Hồi giáo ( 0.4 % )
Công giáo (0.02%)
Tây Tạng là trung tâm truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, một dạng đặc biệt của Mật Tông (Vajrayana). Phật giáo đứng đầu trong các tôn giáo và mang đậm dấu ấn trong văn hóa ở Tây Tạng. Đây là nơi sinh ra Mật Tông. Một tông phái của Phật giáo với văn hóa và phong cách đa dạng như Quán Đỉnh, Trì Chú cùng với các vị Đạt-Lai-Lạt-Ma (Phật sống) được nhiều người tôn thờ. Hiện nay, khu tự trị Tây Tạng tổng cộng có hơn 1700 chùa chiền tổ chức hoạt động Phật giáo Tây Tạng, có khoảng 46 nghìn tăng ni.[66]
Phật giáo Tây Tạng không những chỉ được phổ biến ở Tây Tạng; nó còn là tôn giáo thịnh hành ở Mông Cổ và phổ biến mạnh trong tộc người Buryat ở miền nam Siberia. Tây Tạng cũng là quê hương của một tôn giáo nguyên thủy gọi là Bön (Bon). Hàng loạt các tiếng địa phương của tiếng Tạng được nói trên cả khu vực. Người Tạng viết bằng chữ Tạng.
Trong các thành phố Tây Tạng có các cộng đồng nhỏ người Hồi giáo, được biết đến như là Kachee (Kache), mà tổ tiên họ là những người di cư từ ba khu vực chính: Kashmir (đối với người Tây Tạng cổ là Kachee Yul), Ladakh và các nước của người Turk ở Trung Á. Ảnh hưởng của Hồi giáo ở Tây Tạng cũng đến từ Ba Tư. Ở đây cũng có các cộng đồng Hồi giáo Trung Quốc (gya kachee) mà tổ tiên của họ là dân tộc Hồi Trung Quốc. Người ta cho rằng những người Hồi giáo di cư từ Kashmir và Ladakh đã đến Tây Tạng vào khoảng thế kỷ 12. Dần dần các cuộc hôn nhân và các mối quan hệ xã hội đã dẫn đến sự tăng dân số thành cộng đồng đáng kể xung quanh Lhasa. Hiện Hồi giáo ở đây có 4 Thánh đường với số tín đồ theo đạo khoảng 3000 người.[66]
Thiên Chúa giáo có 1 nhà thờ Thiên Chúa giáo với người theo đạo hơn 700 người.[66]
Mạn đà la – Một nghệ thuật và thẩm mỹ đặc trưng của Phật giáo Tây TạngTây Tạng có nhiều danh lam thắng cảnh và 1 số ít phong tục tập quán lạ. Điển hình trong những phong tục là làm Mạn Đà La, tức là những vòng tròn bằng cát nhuộm màu để làm ra đủ loại hình thù hay và đẹp. Cung điện Potala, trước kia là nơi ở của những Đạt Lai Lạt Ma, là di sản quốc tế .
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://evbn.org
Category: Ở Đâu?