Minh Vương – Wikipedia tiếng Việt

Minh Vương (sinh ngày 1 tháng 7 năm 1949) là nghệ sĩ cải lương nổi tiếng người Việt Nam. Ông kết hợp cùng với NSND Lệ Thủy tạo thành cặp đào kép ăn ý qua nhiều vở cải lương nổi tiếng.[1] Ông còn nhiều năm liền tham gia làm Giám khảo chuyên môn của cuộc thi Chuông vàng vọng cổ truyền hình do HTV tổ chức.

Ngày 26/7/2018, ông được Hội đồng chuyên ngành cấp Nhà nước xét khuyến mãi ngay thương hiệu NSND, NSƯT nghành nghề dịch vụ sân khấu .Ngày 29/8/2019, ông vinh dự được Nhà nước phong tặng thương hiệu Nghệ sĩ Nhân dân năm đợt IX – 2019 cùng với những nghệ sĩ cải lương gạo cội : NSND Thanh Tuấn, NSND Giang Châu, NSND Thoại Miêu, NSND Thanh Nam, NSND Thanh Ngân, …

Ông tên khai sinh là Nguyễn Văn Vưng, được cho là sinh ngày 1 tháng 7 (sau cuộc phẫu thuật ghép thận thành công vào ngày 1 tháng 7 năm 2012, ông quyết định chọn ngày này làm ngày sinh chính thức) năm 1949 tại Cần Giuộc, Long An. Gia đình ông có 7 anh em, đều sinh ra và lớn lên tại Long An. Năm 10 tuổi, ông theo cha mẹ lên Sài Gòn lập nghiệp. Ông theo học trung học, nhưng lại mê hát cải lương, nên tìm đến thầy Bảy Trạch. Ông từng đi làm em nuôi của những đào kép chính, phải khuân vác, xách đồ khi đoàn di chuyển, biểu diễn.[2]

Bắt đầu đi hát năm 14 tuổi ( 1964 ) và sau khi đoạt giải Khôi nguyên vọng cổ, được bầu Long ở đoàn Kim Chung mời ký hợp đồng. Đi hát chưa được 1 năm thì Minh Vương bị bệnh nên phải nghỉ ở nhà chữa bệnh. 1 năm sau, Minh Vương trở lại đoàn hát. Ông nhận bất kể vai diễn nào với tâm niệm : ” Có công mài sắt có ngày nên kim “. [ 3 ]

Năm 1967, Minh Vương được hát kép chính, lúc đó 18 tuổi và thực sự năm đó đánh dấu sự trở lại đầy ấn tượng. Năm 1971, tên tuổi của Minh Vương thực sự bắt đầu tỏa sáng, được nhiều hãng băng đĩa chú ý, mời thu thanh. Đồng thời, Minh Vương được mời đóng phim Sám hối dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Minh Đức Hoài Trinh.[4]

Đến năm 1972, thì Minh Vương cùng vợ thành lập đoàn cải lương Việt Nam lưu diễn khắp nơi cho đến sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Minh Vương từng là diễn viên của Đoàn Sài Gòn, Đoàn Văn công Thành phố Hồ Chí Minh. Anh cũng đã từng đi sang biểu diễn ở Tây Âu cùng với các nghệ sĩ tài danh khác.[5]

Các nam nữ nghệ sĩ ông có dịp hát, diễn chung : Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Tuấn, Thanh Sang, Minh Phụng, Minh Cảnh, Thanh Kim Huệ, Mỹ Châu, Út Bạch Lan, …

Danh hiệu, phần thưởng[sửa|sửa mã nguồn]

  • Khôi nguyên vọng cổ (1964).
  • Diễn viên sân khấu được yêu thích nhất sau 10 năm giải phóng do báo Tuổi Trẻ bình chọn (1985).
  • Huy chương vàng Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc (1990).
  • Danh ca vọng cổ được yêu thích nhất do báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức (1990).
  • Giải nam – nữ diễn viên cải lương đóng chung được yêu thích nhất (cùng với Lệ Thủy) do báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức (1992).
  • Danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 2007.
  • Kỷ lục Guinness Việt Nam 2008 cho cặp đào – kép đóng chung lâu năm và ăn ý nhất (cùng với Lệ Thủy).
  • Giải Mai vàng 2008 do báo Người lao động tổ chức.
  • Danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, ngày 29/8/2019.

Các vai diễn điển hình nổi bật[sửa|sửa mã nguồn]

Các bài tân cổ, vọng cổ[sửa|sửa mã nguồn]

Trung tâm Thúy Nga[sửa|sửa mã nguồn]

Paris By Night[sửa|sửa mã nguồn]

STT Tiết mục Thể hiện với Chương trình Năm
1 Tân cổ: Tiếng Hò Miền Nam (Phạm Duy, Viễn Châu) Hương Lan Paris By Night 91 2008

Source: https://evbn.org
Category: Bao Nhiêu