Lê Văn Duyệt – Wikipedia tiếng Việt

Lê Văn Duyệt (1763 hoặc 1764[1] – 28 tháng 8 năm 1832) còn gọi là Tả Quân Duyệt, là một nhà chính trị, nhà quân sự lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một trong các chỉ huy chính của quân đội chúa Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với Tây Sơn. Khi chiến tranh kết thúc và nhà Nguyễn được thành lập, ông trở thành một đại thần, phục vụ hai triều vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) và Minh Mạng.

Ông nội ông là người gốc Tỉnh Quảng Ngãi, vào Tiền Giang lập nghiệp nên ông sinh ra tại Tiền Giang. Lê Văn Duyệt gia nhập quân đội Gia Định, cùng chúa Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn từ năm 1781. Ông cầm quân thắng nhiều trận lớn, nên nhanh gọn thăng quan tiến chức trong hàng ngũ của quân Gia Định tới chức chỉ huy Tả Quân vào thời gian đại chiến kết thúc. Sau khi nhà Nguyễn xây dựng, ông trở thành một vị quan, tướng quân giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều đình, nhiều lần công cán ở cả phía Bắc thành và hai lần được cử làm Tổng trấn Gia Định Thành .Việc quản lý của ông đã góp công lớn giúp không thay đổi và tăng trưởng khu vực Nam kỳ, khiến cho vùng này từ một khu vực chịu tác động ảnh hưởng nặng nề của cuộc chiến tranh thành một khu vực bình yên và giàu sang. [ 2 ] Thêm vào đó, Lê Văn Duyệt phản đối việc nối ngôi của Minh Mạng đồng thời bảo vệ những Fan Hâm mộ Công giáo khỏi chủ trương bế quan tỏa cảng và trọng Nho giáo của nhà vua. [ 3 ] Những việc này đã khiến ông tiếp tục xung đột với nhà vua và dẫn đến việc triều đình đã hạch tội và cho phá mộ sau khi Lê Văn Duyệt mất. Vì việc này, người con nuôi của ông là Lê Văn Khôi đã nổi dậy chống lại triều đình. Sau khi cuộc nổi dậy bị dập tắt, Lê Văn Duyệt liên tục bị truy tội đến mãi đời Thiệu Trị thì vụ án mới được xét lại, và ông mới được phục sinh danh dự .

Lê Văn Duyệt, còn gọi là Tả Quân Duyệt, sinh năm 1763 hoặc 1764 tại vàm Trà Lọt, thuộc làng Hòa Khánh, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường, về sau gọi là xã Hòa Khánh thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang).

Ông nội của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Hiếu từ làng Bồ Đề, huyện Mộ Đức, tỉnh Tỉnh Quảng Ngãi vào đây sinh sống. Sau khi Lê Văn Hiếu qua đời vì dịch bệnh thiên thời, [ 4 ] cha ông là Lê Văn Toại rời vùng Trà Lọt đến ngụ tại vùng Rạch Gầm, làng Long Hưng, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường, về sau gọi là xã Long Hưng thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho ( nay là tỉnh Tiền Giang ) .
Vàm Trà Lọt thời nayLê Văn Toại có toàn bộ bốn người con trai [ 5 ] Lê Văn Duyệt là con trưởng. Sử cũ diễn đạt ông là người thấp bé, nhưng lại có sức mạnh hơn người, [ 6 ] từng được coi là một trong ” ngũ hổ tướng ” ở Gia Định. [ 7 ]

Theo Chúa Nguyễn, chống Tây Sơn[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1781, một lần chúa Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn đánh đuổi chạy đến Trà Lọt, có ngụ tại nhà ông Lê Văn Toại. Cảm ơn nuôi nấng, Lê Văn Duyệt được Chúa Nguyễn tuyển dụng làm thái giám, lãnh trách nhiệm bảo vệ cung quyến. Lúc bấy giờ, ông vừa tròn 17 tuổi. [ 8 ]

Theo sách Quốc triều sử toát yếu thì trong trận đánh tại Đồng Văn, ông bị quân Tây Sơn bắt, nhưng sau đó trốn về được. Tháng 11 (âm lịch) năm 1784, ông gặp lại Nguyễn Phúc Ánh,[9] rồi gắn bó chặt chẽ với vị chúa này, trong đó có hai lần ông hộ giá sang Xiêm (Thái Lan).[10]

Tháng 11 ( âm lịch ) năm 1793, Lê Văn Duyệt được Nguyễn Ánh phong làm thuộc nội vệ úy, vì ” tuy sinh ra là người ( thái ) giám, ( nhưng là ) người mạnh dữ mà đánh giỏi, có công tùng chinh “. Kể từ đó, Chúa Nguyễn thường bàn việc binh với Lê Văn Duyệt. [ 11 ]

Tháng 11 (âm lịch) năm 1800, ông được cử theo Tiết chế Nguyễn Văn Thành. Hai ông hợp quân đánh thắng một trận lớn, nhưng sau đó nảy sinh hiềm khích. Cũng sách trên chép: …Thành hay uống rượu, lúc gần ra trận, cầm hồ rót rượu, rót cho Duyệt một chén và nói rằng: “Uống rượu để thêm sức mạnh”. Ông Duyệt nói: “Ai tánh hay sợ mới uống rượu để cho thêm sức mạnh, còn như tôi thời trước mắt không coi (đó là) trận dữ, cần chi phải uống rượu”. Thành có ý thẹn, từ đó giận Duyệt.[12]

Tháng Giêng ( âm lịch ) năm 1801, Lê Văn Duyệt cùng chúa Nguyễn và những tướng là Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại ( trận Thị Nại năm 1801 ) ). Khi lâm trận, tướng Võ Di Nguy bị trúng đạn chết, ông Duyệt càng gắng sức đánh, đốt phá gần hết binh thuyền Tây Sơn. Trận ấy được khen là ” võ thuật đệ nhất ” của nhà Nguyễn [ 12 ] và là ” võ thuật lớn nhất ” của Lê Văn Duyệt [ 13 ] .Tháng 4 ( âm lịch ) cùng năm, ông theo chúa Nguyễn ra đánh Phú Xuân. Tháng sau, đại binh vào cửa Tư Hiền, ông và Lê Chất phá được đồn quân Tây Sơn ở Quy sơn ( tức núi Linh Thái ), bắt sống được Phò mã Nguyễn Văn Trị và Đô đốc Phan Văn Sách. Đến ngày 3 tháng 5 ( tức ngày 15 tháng 6 năm 1801 ), ông cùng chúa Nguyễn tiến vào nội thành của thành phố Phú Xuân sau khi đánh tan đội thủy quân của nhà Tây Sơn, khiến Vua Cảnh Thịnh phải tháo chạy ra Bắc .Sau đó, chúa Nguyễn sai Tiết chế Lê Văn Duyệt ( có Lê Chất đi theo ) đem quân bộ vào Quảng Nam, Tống Viết Phước ( hay Phúc ) đem quân thủy, chia đường vào cứu thành Tỉnh Bình Định. Dọc đường, Lê Văn Duyệt đánh thắng nhiều trận, nhưng không kịp cứu quận công Võ Tánh và Lễ bộ Ngô Tùng Châu. Vì lương hết, hai ông đều đã tuẫn tiết vào cuối tháng 5 ( âm lịch ) năm 1801. Xét công, chúa Nguyễn phong Lê Văn Duyệt làm ” Thần sách quân Chưởng tả dinh Đô thống chế quận công “. Lại cho Lê Chất làm tướng dưới quyền, để cùng mang quân đi thu phục những nơi .Ngày mồng 1 tháng 5 năm Nhâm Tuất ( tức 31 tháng 5 năm 1802 ), chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi tại Phú Xuân, đặt niên hiệu là Gia Long. Lê Văn Duyệt được phong làm ” Khâm sai Chưởng Tả Quân dinh Bình Tây tướng quân, tước quận công ” để cùng với Lê Chất đem bộ binh ra Bắc truy diệt vua quan nhà Tây Sơn. Theo phối hợp còn có binh thuyền do tướng Nguyễn Văn Trương chỉ huy. Đến tháng 6 ( âm lịch ), thì quân bộ sang Linh giang ( tức sông Gianh ở Quảng Bình ) rồi hiệp với quân thủy đánh lấy Nghệ An, Thanh Hóa, và Thăng Long. Đến lúc ấy, nhà Tây Sơn kể như bị diệt .

Làm đại thần nhà Nguyễn[sửa|sửa mã nguồn]

Dưới triều Gia Long[sửa|sửa mã nguồn]

Tháng 3 ( âm lịch ) năm 1803, Lê Văn Duyệt phá vỡ cuộc nổi dậy của người dân thiểu số ở Đá Vách ( Quảng Nghĩa, nay là Tỉnh Quảng Ngãi ), được vua khen thưởng. Tháng 8 ( âm lịch ) năm đó, cha ông – Lê Văn Toại được vua cho mời ra Huế ban khăn áo .Năm 1808, lại sai Lê Văn Duyệt mang quân đến Đá Vách. Thấy Phó quản cơ Lê Quốc Huy, vì nhiễu hại quá, nên dân mới nổi dậy. Lê Văn Duyệt bèn xin lệnh chém chết viên quan này, từ đó Quảng Nghĩa lại được yên .Tháng 6 ( âm lịch ) năm 1812, vua cho triệu tổng trấn Gia Định thành Nguyễn Văn Nhơn về, cử Lê Văn Duyệt vào thay và cho Trương Tấn Bửu làm phó tổng trấn, Ngô Nhân Tịnh làm hiệp ( tổng ) trấn .Tháng 2 ( âm lịch ) năm 1813, nhận lệnh vua, Lê Văn Duyệt và hiệp trấn Ngô Nhân Tĩnh đem 13.000 quân thủy đưa Nặc Chân về nước Chân Lạp ( Campuchia ngày này ). Tại đây, ông thấy quân Xiêm cứ dòm ngó Chân Lạp, bèn xin Gia Long cho đắp thành Nam Vang cho vua nước này ở ( trước đó ở thành La Bích ), đắp thành Lô Yêm để trữ lương, đồng thời lưu binh ở lại bảo lãnh ( Nguyễn Văn Thoại được cử ở lại ). Tất cả đều được vua nghe theo [ 14 ] .Năm 1815, Lê Văn Duyệt được chỉ triệu về kinh để bàn nghị về ngôi thái tử. Khi ấy, Nguyễn Huỳnh Đức thay ông làm tổng trấn và Trịnh Hoài Đức làm hiệp trấn .Tháng 4 ( âm lịch ) năm 1816, vua ra lệnh thâu ấn của Nguyễn Văn Thành, giam Nguyễn Văn Tuyên ( con ông Thành ) vào ngục, vì ông Tuyên có làm một bài thơ bị Lê Văn Duyệt ( vốn có hiềm khích với ông Thành từ trước ) cho là có ý mưu phản [ 15 ] .Sang tháng 5 ( âm lịch ) năm đó, dân thiểu số ở Đá Vách lại nổi dậy, Trấn thủ Phan Tấn Hoàng đánh bị thua. Gia Long lại sai Lê Văn Duyệt đem quân tới đàn áp [ 16 ] .Tháng Giêng ( âm lịch ) năm 1819, Lê Văn Duyệt nhận mệnh đi kinh lược những vùng : Thanh Hóa, Nghệ An và Thanh Bình ( nay đổi là Tỉnh Ninh Bình ). Vì những nơi ấy thường mất mùa, sinh ra nhiều trộm cướp, quan thường trực không kiềm chế được. Đến nơi, ông dâng sớ về triều ” nói việc khổ của dân, xin tha thuế cho dân, lại phải lựa quan trấn để an tập dân “, được vua y cho [ 17 ]. Ở Thanh Hóa, ông nhận Lê Văn Khôi làm con nuôi. Ông Khôi nguyên là người ở Cao Bằng, vì khởi binh chống Nguyễn, bị quan quân đuổi đánh, phải chạy vào Thanh Hóa, gặp ông Duyệt đang làm Kinh lược ở đấy, bèn xin ra đầu thú [ 18 ] .Tháng 9 ( âm lịch ), vua triệu Lê Văn Duyệt về triều. Sang tháng 12 ( âm lịch ), Gia Long cho đòi ông và Phạm Đăng Hưng vào cung lãnh di chiếu, tôn Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi ( tức vua Minh Mạng ) đồng thời cho ông Duyệt quản lý quân 5 dinh Thần sách .

Cũng trong năm này, theo Vũ Man tạp lục của tướng Nguyễn Tấn và Viêm Giao trưng cổ ký của Cao Xuân Dục, thuận theo lời tâu của Lê Văn Duyệt, Vua cho xây Trường lũy [19](Tĩnh Man trường lũy), dài xấp xỉ 200 km, bắt đầu từ huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) đến huyện An Lão (Bình Định), để phòng ngự các cuộc nổi dậy của người thiểu số ở đây [20].

Dưới triều Minh Mạng[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1820, Minh Mạng cử Lê Văn Duyệt vào Nam làm tổng trấn Gia Định thành lần thứ hai, thay cho Nguyễn Huỳnh Đức vừa mất hồi tháng 9 ( âm lịch ) năm 1819 .Lúc bấy giờ, ở nước Chân Lạp có thầy tu tên Kế ( sư Kế ) hoạt động dân nổi dậy, cướp phá nhiều nơi thuộc trấn Phiên An. Quan trấn là Đào Văn Lý cản ngăn không được. Khi ông Duyệt đến, bèn cử phó tổng trấn Huỳnh Công Lý đem quân đi đánh, đuổi quân sư Kế chạy về Chân Lạp. Tháng 9 ( âm lịch ) năm ấy, sư Kế xua quân vây hãm thành Nam Vang, làm vua nước ấy phải đưa thư sang cáo cấp. Xem thư, Lê Văn Duyệt liền sai thống chế Nguyễn Văn Trí đem quân sang cứu viện, đến tháng 10 ( âm lịch ) thì giết được sư Kế và đánh tan quân nổi dậy .Cũng vào tháng 9 ( âm lịch ) năm đó, phó tổng trấn Huỳnh Công Lý tham lam trái phép, bị quân nhân tố cáo hơn mười việc. Lê Văn Duyệt đem việc ấy tâu lên. Sau khi tra án, Huỳnh Công Lý bị khép vào tội chết ( 1821 ) [ 21 ]. Khâm sai chưởng dinh lĩnh Trung quân phó tướng thự lý ấn vụ là Trương Tiến Bửu lĩnh chức Phó tổng trấn thành Gia Định. [ 22 ]Tháng 10 ( âm lịch ) năm 1822, vua sai Lê Văn Duyệt điều động quân và dân ( được hơn 39.000 người ) để liên tục đào kênh Vĩnh Tế ( đến tháng 5 âm lịch năm 1824 thì xong ) .Tháng 8 ( âm lịch ) năm 1823, ông về kinh [ Huế ] chầu, Phó tổng trấn Trương Tiến Bửu quyền lĩnh ấn vụ Tổng trấn, nhưng Tiến Bửu ốm nên Tiền quân Trần Văn Năng làm Phó tổng trấn thay. Sau đó, Lê Văn Duyệt về ở luôn Gia Định cho đến cuối đời .Tháng 11 ( âm lịch ), Thị đốc học sĩ Trần Văn Tuân bị án giảo giam hậu, vì lời tâu của ông. Trước đây, ông Tuân đi công cán ở Chân Lạp, được người Chân Lạp tin yêu ; đến khi về lại Gia Định, người Chân Lạp vẫn thường qua lại đưa đồ và hỏi thăm. Sau, nhân bắt được lá thư của vua Chân Lạp gửi cho ông Tuân, Lê Văn Duyệt bèn đem việc ấy chiểu theo luật ” Giao thông ngoại cảnh ” ( tức luật ngoại giao với quốc tế ) mà tâu lên [ 23 ] .Đêm 30 tháng 7 năm Nhâm Thìn ( tức 28 tháng 8 năm 1832 ) [ 24 ], Chưởng Tả Quân lãnh Gia Định Tổng trấn Lê Văn Duyệt mất tại chức, thọ 69 tuổi. Sau đó, Triều đình truy tặng ông chức ” Tá vận công thần đặc tấn Tráng võ tướng quân – Tả Quân đô thống phủ chưởng phủ sự, Thái bảo Quận Công “, thụy là ” Oai Nghị ” .

Vụ án Lê Văn Duyệt[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi Lê Văn Duyệt mất, Minh Mạng cho bãi chức tổng trấn Gia Định thành, và đổi 5 trấn ra thành 6 tỉnh, là : Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên [ 25 ]. Lại đặt những chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát, lãnh binh như những tỉnh ở ngoài Bắc. Đến khi Bạch Xuân Nguyên đến làm bố chính tại Phiên An ( tức tỉnh Gia Định ), nói rằng phụng mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi yên cầu chứng cứ, đồng thời trị tội những tôi tớ của ông Duyệt. Vì bị bức, con nuôi ông Duyệt là Lê Văn Khôi bèn khởi binh chống lại ( xem cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi ) .Nhận được tin cáo cấp, Minh Mạng liền sai quân đi đánh dẹp, đồng thời ban trách Lê Văn Duyệt đã ” che chở quân phỉ đảng, để gây nên bọn loạn ” [ 26 ]. Tuy nhiên, theo một số ít tài liệu thì Minh Mạng vốn có thù hằn lâu ngày với Tả Quân Lê Văn Duyệt [ 27 ], rất hoàn toàn có thể vì :

  • Ông Duyệt không ủng hộ việc Minh Mạng lên ngôi mà ủng hộ con của Hoàng tử Cảnh khi Gia Long băng hà[28].
  • Lê Văn Duyệt nhiều lần lạm quyền, hoặc làm sai ý triều đình [29], đặc biệt là sau khi Gia Long qua đời.
  • Lê Văn Duyệt ít học, bản chất quan võ nóng nảy, nói năng cộc lốc, chẳng biết chiều đón ý Vua, khi tấu đối thường không vừa ý Minh Mạng[30]
  • Ông Duyệt tỏ ý ủng hộ các nhà truyền đạo Thiên Chúa châu Âu làm nghịch ý Minh Mạng[28].
  • Ông Duyệt được hưởng quyền “nhập triều bất bái” (vào triều không phải lạy) từ thời Gia Long, nên sau này ông không lạy Minh Mạng. Điều này đã làm vua khó chịu [31].

Dù không ưa nhưng Minh Mạng chưa thể làm gì Lê Văn Duyệt, vì công lao và uy quyền của ông quá lớn [32]. Cho nên sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi (1835), nhân Phan Bá Đạt ở Đô sát Viện dâng sớ kể tội Tả Quân, Minh Mạng liền dụ cho đình thần nghị xử. Nội các là Hà Văn Quyền, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Quỳnh dâng sớ tội trạng của Lê Văn Duyệt. Đến khi nghị án xong, có bảy tội nên trảm (chém), hai tội nên giảo (thắt cổ), một tội phải sung quân (tự tiện bắt biền binh đóng thuyền).[33]

Bảy điều đáng làm tội xử trảm ( chém ) :

  1. Sai người riêng đi Miến Điện kết ngoại giao.
  2. Xin tống thuyền Anh Cát Lợi đến thành để tỏ có
  3. Xin giết thị vệ Trần Văn Tình để khóa miệng người.
  4. Kháng sớ giữ lại người được tuyên triệu điệu bổ quan viên.
  5. Cậy bè đảng xin tăng thọ cho Lê Chất.
  6. Chứa riêng giấy đóng ấn vua sẵn.
  7. Gọi mả cha là lăng, nói với người xưng là “cô”.

Hai điều đáng xử tội giảo ( thắt cổ ) :

  1. Cố xin dung nạp Miến Điện để thỏa việc làm bậy.
  2. Nói với người rằng xin được thơ phụ tiên có câu “Trần Kiều hoàng bào”.

Án dâng lên, những người nguyên nghị trảm quyết đều đổi làm trảm giam hậu, những đứa trẻ dưới 15 tuổi tạm giam lại. Những trẻ bé không biết gì thì tha không bắt. Phát nô 13 đứa đàn bà, đều tha cả. Việc chém xác cũng không thi hành. Lạng Bình hộ phủ Trần Huy Phác xin những thê thiếp con cháu Duyệt đều xử trảm quyết. Quảng Yên hộ phủ Lê Dục Đức tâu xin những đứa phạm 16 tuổi trở lên, đều xin đem giết đi. Bình Phú Tổng đốc Vũ Xuân Cẩn, Ninh Thái Tổng đốc Hoàng Văn Trạm cũng xin y đình nghị, lại nói rằng hoặc nên lấy công bù tội, châm chước quyết định hành động thế nào ra tự ơn trời. [ 33 ]Sau đó, Minh Mạng ra dụ có đoạn rằng :

Tội Lê Văn Duyệt nhổ từng cái tóc mà kể cũng không hết, nói ra đau lòng, dù có bửa quan quách mà giết thây cũng là đáng tội. Song nghĩ hắn chết đã lâu và đã truy đoạt quan tước, xương khô trong mả, chẳng cần gia hình chi cho uổng công[34]. Vậy cho Tổng đốc Gia Định đến chỗ mả hắn cuốc bỏ núm mộ san bằng mặt đất và khắc đá dựng bia ở trên viết to mấy chữ: “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (Chỗ này là nơi hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu hình phạt)[35]…

Sau đó, lệnh được triển khai theo như lời dụ. Ngoài ra, mộ cha mẹ ông ở Long Hưng ( nay thuộc Châu Thành, Tiền Giang ) cũng bị đục bỏ tước hiệu khắc trên bia [ 30 ] .

Được phục sinh danh dự[sửa|sửa mã nguồn]

Năm Tân Sửu ( 1841 ) Vua Thiệu Trị lên ngôi, ban lệnh tha tội những quen thuộc của Lê Chất và Lê Văn Duyệt [ 36 ] .Tháng 2 ( âm lịch ) năm đầu Tự Đức ( 1848 ), Đông Các đại học sĩ Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin lục dụng những con cháu của Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất. Lời tâu làm Vua cảm động, bèn cho con cháu ông Thành làm Chánh đội, [ 37 ], cho cháu Văn Duyệt là Điển làm chư quân Cai đội [ 33 ] .Tự Đức năm thứ 2 ( 1849 ), đình thần xin rửa tội cho Lê Văn Duyệt. Cấp trả khu vực mộ của Lê Văn Duyệt cho người cháu ( gọi Văn Duyệt bằng ông chú bác ) là Lê Văn Niên trông coi. Mộ cha mẹ Lê Văn Duyệt ở thôn Long Thịnh cũng đều cho tu sửa. [ 33 ]

Tuy nhiên, mãi đến năm tháng 4 (âm lịch) năm 1868, nhà vua mới chính thức ban lệnh truy phục chức hàm cho Nguyễn Văn Thành (là Chưởng trung quân Đại tướng quân Quận công) và Lê Văn Duyệt (là Chưởng Tả Quân Đại tướng quân), đồng thời cho thờ trong miếu Trung hưng công thần ở Huế [38].

Nhận xét khái quát[sửa|sửa mã nguồn]

Không chỉ có tài quân sự chiến lược, Lê Văn Duyệt còn là một nhà chính trị. Làm tổng trấn Gia Định Thành hai lần ( lần 1 : 1812 – 1816, lần 2 : 1820 – 1832 ), ông đã triển khai chủ trương trị an tốt, và có công lớn trong việc giữ gìn bảo mật an ninh cho xứ sở. Ông cho đắp đường, đào kênh, củng cố thành lũy, lập hai cơ quan từ thiện là ” Anh hài ” và Giáo dưỡng [ 39 ] … Đồng thời ông cũng có cách ứng xử khôn khéo, thoáng đãng so với những người phương Tây đến kinh doanh ở TP HCM. Bấy giờ, nhiều người kính phục, gọi ông là ” Ông Lớn Thượng “, hay ” Đức Thượng Công ” … Một vài nước lân cận cũng tỏ ra kiêng nể ông [ 40 ] .

tin tức tương quan[sửa|sửa mã nguồn]

[41]) trong lăng Ông Bà Chiểu.Toàn thân tượng đồng Lê Văn Duyệt ( đúc vào năm 2008 ) trong lăng Ông Bà Chiểu . Mộ Lê Văn Duyệt ( phải ) và vợ ( trái ) .Đến năm 17 tuổi thì ông mới hoạn để chính thức làm thái giám. Thuở trẻ, ông thích đá gà, nuôi gà chọi. Ngoài ra, ông cũng là người sành chiêm ngưỡng và thưởng thức hát bội và thường tự tay cầm chầu. Có thể tư chất yếu ớt có phần hơi êm ả dịu dàng khiến ông bị Minh Mạng đặt chữ chửi bới trên mộ rằng ” lại cái ” ( quyền yêm ) .Sau này, do ông lập được nhiều công lao, khi lên ngôi, Gia Long đã gả một người cung nhân tên là Đỗ Thị Phẫn ( hay Phận ) [ 42 ] về làm vợ ông, dù ông là thái giám .

Với vụ án oan Tống Thị Quyên[sửa|sửa mã nguồn]

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, Quyển 2) chép:

Năm Minh Mạng thứ năm (1824), có người bí mật tố cáo rằng Mỹ Đường thông dâm với mẹ ruột là Tống thị (Quyên). Tống thị vì thế thị dìm nước cho chết, còn Mỹ Đường thì phải giao trả hết ấn tín và dây thao, đồng thời bị giáng xuống làm thứ dân, con trai con gái chỉ được biên chép phụ ở phía sau sổ tôn thất

Lúc bấy giờ có tin đồn thổi người mật tâu là Lê Văn Duyệt. Tuy nhiên, có người lại cho rằng đây là mưu sâu của nhà vua nhằm mục đích làm mất uy tín ông, đồng thời ly gián ông với phe ủng hộ ” dòng trưởng ” nối ngôi ( tức ủng hộ Hoàng tôn Đán, tên thật là Nguyễn Phúc Mỹ Đường, con Hoàng tử Cảnh ) [ 43 ] .

Ngôi mộ của Tả Quân[sửa|sửa mã nguồn]

Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh, trong sách Gia Định xưa cho biết: “Theo lời các cố lão, ngôi mộ tại Gia Định Bình Hòa xã là ngôi mộ chôn bằng hình sáp, còn hài cốt thật thì về an táng tại làng Long Hưng, thuộc tỉnh Định Tường. (Tiền Giang ngày nay)”[44] Tuy nhiên, tháng 4 năm 2006, sau một cuộc khảo sát ông Lý Việt Dũng đã đưa ra kết quả ngược lại[30].

Ngày 4 tháng 2 năm 2008, tượng Tả Quân Lê Văn Duyệt đã được đặt trang trọng tại điện thờ tại Lăng Ông (số 1 đường Vũ Tùng, có cổng Tây tại số 126 đường Lê Văn Duyệt, phường 1, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh). Tượng được đúc bằng đồng nguyên chất, cao 2,65 m, nặng 3 tấn do nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng thực hiện. Đây là ý tưởng của tạp chí Xưa & nayHội Khoa học lịch sử Việt Nam trong chương trình Đúc tượng đồng cho lăng Ông.

Giao thiệp với ngoại bang[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1822, đại sứ nước Anh John Crawfurd trên hành trình dài đi sứ Xiêm và Cochin China [ Nước Ta ] đã ghé Hồ Chí Minh và có cuộc gặp với quan Tổng trấn thành Gia Định. [ 45 ]

Crawfurd được biết rằng vua nước Cochin China hiện đang ở Huế, còn Chao-Kun [ Tả Quân ? ] [ 46 ], vị Thống đốc Lower Cochin China [ Nam Kỳ ], thì đang ở Saigun. Crawfurd nóng lòng được gặp vị quan ở Saigun đó, bởi ngoại trừ Kachao [ Kẻ Chợ ] ở Tonquin [ Đông Kinh ], thì [ TP HCM ] là nơi giàu sang nhất vương quốc này. [ 45 ]Ngày 2 tháng 9 năm 1822, đoàn hơn 30 người của Crawfurd được dẫn đi gặp Tổng trấn Lê Văn Duyệt, Crawfurd và một số ít người được chở bằng năm con voi. Nơi tiếp khách trong thành Phiên An quá đơn sơ nếu so với chỗ của người Hoa. Người Nước Ta có tục tiếp khách trên mấy cái bàn thấp ( bộ ván ngựa ), trải chiếu hoa lên trên, quan lớn thì ngồi số 1, quan nhỏ ngồi lần lượt phía sau. Ở giữa sảnh đường là một bộ bàn hơi cao hơn mấy cái khác, dành cho quan Tổng trấn. Đoàn của Crawfurd được mời ngồi ghế, bên phải quan Tổng trấn. Ngồi bên trái quan Tổng trấn là vị Phó tổng trấn [ Trương Tấn Bửu ], vị quan già khoảng chừng 70 tuổi trông đáng kính và đẹp lão. [ 47 ] Quan Tổng trấn nghe đồn là một thái giám, nhưng không công khai minh bạch, ông ta không có râu ; tuy nhiên, người Việt dù có thích để râu thì không quá rậm rạp. Tiếng nói của quan Tổng trấn nhỏ nhẹ và khá giống giọng nữ nhưng không dễ nhận ra. Lúc này, vị Tổng trấn đã 58 tuổi, vẻ mặt sôi sục và mưu trí, ông ta hơi thấp bé và gầy, nhưng linh động và không thấy khung hình bị khuyết tật gì. Có điều, ông ta đã rụng khá nhiều răng. Ông ấy cũng ăn mặc đơn giản và giản dị với bộ đồ lụa và chiếc khăn quấn đầu màu đen. Crawfurd Tặng quà cho Tổng trấn, ông ấy phủ nhận, rất độc lạ với những vị quan tham lam ở Xiêm. Một lần nữa, vị Tổng trấn lại yên cầu phải có thư của vua Anh gửi cho vua Việt, chính do chỉ có vua mới gửi thư cho vua. Nếu chỉ có thư của Toàn quyền Ấn Độ [ một vị quan ] thì ông ấy chỉ giúp chuyển nó cho vị quan Tượng binh [ Mandarin of Elephants ], người kiêm nhiệm Ngoại giao ở Huế. Vị quan Tượng binh này hoàn toàn có thể là Chưởng Tượng quân kiêm quản trị Thương bạc sự vụ Nguyễn Đức Xuyên. [ 48 ] [ 49 ] [ 50 ] [ 51 ] Quan Tổng trấn thậm chí còn còn không mở thư của Toàn quyền Hastings ra xem mà chỉ nhờ sơ qua phong bì rồi trả lại Crawfurd. Ngoài ra, vị Tổng trấn còn mời đoàn Crawfurd xem một buổi trình diễn đấu nhau giữa voi và cọp. Crawfurd được Tặng Ngay trâu, heo, gà vịt, heo quay .. đổi lại, Crawfurd bí hiểm khuyến mãi ngay quan Tổng trấn thuốc súng. [ 45 ]Người Cochin China rất mê đá gà ( chọi gà ). Ông Tổng trấn, chơi đá gà hai lần một tháng và mời nhiều quan chức tham gia. [ 45 ]

Tại Huế, ngày 12 tháng 10 năm 1822, không có cuộc gặp mặt nhà vua nào được tổ chức cho đoàn của Crawfurd. Ông được cho phép quay lại Đà Nẵng bằng đường bộ để tham quan. Trước khi rời Huế, Crawfurd đến phủ của vị quan Tượng binh (kiêm Ngoại giao) để thương thảo lần cuối. Quan Tượng binh đã chất vấn Crawfurd một số điều về cuộc ghé thăm Sài Gòn như: Crawfurd tự nguyện dâng thư của Toàn quyền Anh cho Tổng trấn [Lê Văn Duyệt] hay là ông ta [Lê Văn Duyệt] ép? Và rằng: Không ai được phép xem thư của nhà vua trước khi nó được trình lên ngài ấy cả. Crawfurd nhận ra sự ghen ghét của triều đình đối với quan Tổng trấn thành Gia Định. Theo tìm hiểu của Crawfurd, Lê Văn Duyệt không chỉ là nhân vật đứng đầu cả nước về đẳng cấp và quyền lực, mà còn ở sự cứng rắn, tài năng và liêm chính của ông ta. Việc Lê Văn Duyệt phải rời kinh đô để đi trấn thủ Gia Định là một mất mát lớn, khiến những quan chức tham lam không còn bị ai kiềm chế. Minh Mạng cố nhiên đố kị với uy danh của quan Tổng trấn.[52]

Việc tiếp xúc với Miến Điện ( hoặc Diến Điện, vương quốc Ava ) là một trong những bằng cớ tiên phong mà nhà Nguyễn dùng để kết tội chém và thắt cổ Lê Văn Duyệt .
Đại Nam Thực lục và Liệt truyện chép : [ 33 ] [ 53 ]

Quý mùi, năm Minh Mệnh thứ 4 [ 1823 ], ngày đông, quốc vương nước Diến Điện sai sứ đến thông hiếu .Khi trước Tổng trấn Gia Định là Lê Văn Duyệt sai thuộc hạ là Nguyễn Văn Độ đi thuyền buôn sang những nước bên ngoài nước Hồng Mao tìm mua đồ binh dụng, bị gió bạt đến trấn Đào Quai nước Diến Điện. Vua Miến Điện sai bồi thần là Hợp Thời Thông Thụ Nhĩ Miêu Ty Chỉ-Tu-Giá Tha đem quốc thư và phẩm vật đến dâng, xin nước ta tuyệt giao với nước Xiêm. Sứ giả đến Gia Định, Duyệt cho dịch thư ấy ra tâu lên, việc giao cho đình thần bàn, khước lời xin ấy trả cả lễ cống .Sai Quản cơ Nguyễn Văn Uẩn và Chánh tuần hải đô dinh Hoàng Trung Đồng đem binh thuyền và mang lương tiền 6 tháng, đưa sứ giả đến địa đầu Diến Điện thì về. Lại sai bộ Lễ đem việc ấy báo cho nước Xiêm. Người Xiêm gửi thư đến tạ .

Trong quyển sách của mình, John Crawfurd cũng ghi lại tường trình của sứ giả Miến Điện khi đến Nước Ta. Sứ giả Miến Điện là Gibson, có cha là người Anh, đã tường thuật khá chi tiết cụ thể về hành trình dài và những sự kiện ở Gia Định Thành lúc ấy .

Từ thời Pháp thuộc, ở thị xã Vĩnh Yên thuộc tỉnh Vĩnh Yên cũ (ngày nay là thành phố Vĩnh Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc) có một tuyến phố mang tên là phố Lê Văn Duyệt.[cần dẫn nguồn] Sau khi tiếp quản Vĩnh Yên vào năm 1954, chính quyền mới đã cho đổi tên phố này thành tên mới là phố Tân Lập, nay gọi là phố Lê Xoay.

Từ năm 1929, tại Hồ Chí Minh, chính quyền sở tại thuộc địa cũng cho đặt tên đường Lê Văn Duyệt cho một con đường nhỏ ở phía sau chợ Tân Định. Đến năm 1955 thì đổi tên thành đường Mã Lộ cho đến nay .Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 ( lúc đó gọi là TP HCM và Gia Định ) có tới 2 quốc lộ mang tên Lê Văn Duyệt. Đại lộ Lê Văn Duyệt của Đô thành Hồ Chí Minh cũ lúc bấy giờ là đường Cách mạng Tháng Tám, còn quốc lộ Lê Văn Duyệt của tỉnh Gia Định cũ ( nay thuộc địa phận Q. Quận Bình Thạnh ) sau đó cũng bị đổi tên và nhập chung với đường Đinh Tiên Hoàng ( đoạn từ cầu Bông đến Lăng Ông Bà Chiểu ), tuy nhiên đã được hồi sinh tên đường Lê Văn Duyệt như cũ từ ngày 11 tháng 7 năm 2020 sau 45 năm bị đổi khác tên. Điều đặc biệt quan trọng là cả hai con đường mang tên Lê Văn Duyệt này đều bị đổi tên vào cùng ngày 14 tháng 8 năm 1975. Ngoài ra trước năm 1976, Q. 3 còn có phường Lê Văn Duyệt, thời nay là địa phận những phường 10 và 11 của Q. 3 .Tên đường Lê Văn Duyệt vốn có từ trước năm 1975 nhưng vẫn được giữ nguyên, không bị đổi khác thành tên khác cho đến thời nay tại một số ít thành phố, thị xã, thị xã ở miền Nam và miền Trung như Bạc Liêu, Mỹ Tho, Trà Ôn ( thuộc Vĩnh Long ), Lái Thiêu ( thuộc Tỉnh Bình Dương ), TP. Đà Nẵng, Phước Long ( thuộc Bình Phước ) .Hiện nay, tại Bạc Liêu có một con đường mang tên ông tại phường 3, thành phố Bạc Liêu. Tại thị xã La Gi, Phan Thiết, từ năm 2009 có đường Lê Văn Duyệt, từ đường Tôn Đức Thắng đến đường Kinh tế mới Tân An, dài 2200 m x rộng 8 m. [ 54 ]

Hiện tại Đà Nẵng có con đường tên Lê Văn Duyệt dọc con sông Hàn.

Ngày 11 tháng 7 năm 2020, Hội đồng Nhân Dân Thành phố Hồ Chí Minh đã nhất trí trải qua Nghị quyết về việc đổi tên một đoạn đường Đinh Tiên Hoàng thuộc địa phận Q. Quận Bình Thạnh ( từ Cầu Bông đến ngã ba giao với đường Phan Đăng Lưu, giáp với Lăng Ông Bà Chiểu ) với chiều dài 947 m thành đường Lê Văn Duyệt. Đây chính là quốc lộ Lê Văn Duyệt đi ngang qua địa phận tỉnh lỵ Gia Định cũ từ sau năm 1945 cho đến năm 1975. Đến ngày 16 tháng 9 năm 2020 ( nhằm mục đích ngày 29 tháng 7 năm Canh Tý ), sau 45 năm bị biến hóa tên, đoạn đường này được hồi sinh tên cũ là đường Lê Văn Duyệt nhân ngày giỗ lần thứ 188 của Tả Quân .

Sách tìm hiểu thêm[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://evbn.org
Category: Sao Nam