Boeing B-52 Stratofortress – Wikipedia tiếng Việt
Boeing B-52 Stratofortress (Pháo đài tầng bình lưu)[4][5] là máy bay ném bom hạng nặng phản lực được Không quân Hoa Kỳ (USAF) sử dụng từ năm Hàng không năm 1955, thay thế cho các kiểu Convair B-36 và Boeing B-47. Được chế tạo để mang vũ khí hạt nhân cho một cuộc Chiến tranh hạt nhân, nhưng nó chưa bao giờ thực hiện vai trò này trong thực tế, mà thay vào đó nó được dùng để thả các loại bom, tên lửa thông thường trong các cuộc chiến tranh. B-52 là chiếc máy bay ném bom có tầm bay xa không cần tiếp nhiên liệu dài nhất, và mang được đến 27 tới 33 tấn (60.000 – 73.000lb) vũ khí.
Không lực Mỹ khởi đầu đưa B-52 vào hoạt động giải trí năm 1955 trong những đơn vị chức năng thuộc Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược, sau được sáp nhập vào Bộ chỉ huy Không quân năm 1991. Tầm bay rất xa ở vận tốc cận âm và ngân sách quản lý và vận hành tương đối rẻ đã duy trì chiếc B-52 trong ship hàng mặc dầu từng có những đề xuất để sửa chữa thay thế nó bằng kiểu máy bay siêu âm XB-70 Valkyrie, kiểu siêu âm B-1B Lancer, và kiểu tàng hình B-2 Spirit. Đến tháng 1 năm 2005, nó trở thành kiểu máy bay thứ hai, sau chiếc English Electric Canberra, ghi lại 50 năm Giao hàng liên tục trong quân đội. Đến tháng 1 năm năm ngoái, B-52 trở thành loại máy bay duy nhất đạt thành tích ship hàng quân đội Mỹ trong suốt 60 năm .Tổng cộng đã có 744 chiếc B-52 được sản xuất. Tính đến năm 2018, chỉ còn 75 chiếc B-52 liên tục Giao hàng trong không quân Mỹ, số còn lại đã bị tàn phá trong chiến đấu, do tai nạn đáng tiếc hoặc do bị tháo dỡ, một số ít ít thì được đưa vào kho lưu trữ bảo tàng. Đã có 31 chiếc B-52 đã bị tàn phá và hàng chục chiếc khác bị hư hại trong cuộc chiến tranh Nước Ta, đại chiến duy nhất mà B-52 chịu tổn thất bởi hỏa lực đối phương. Tính đến năm 2018, trong số 744 chiếc B-52, có 94 chiếc bị rơi do tai nạn thương tâm, chiếm 12,6 % số B-52 được sản xuất [ 6 ]
Có thể được xem như “một đối trọng” với B-52 của Không lực Mỹ, máy bay ném bom chiến lược sử dụng động cơ tuốc bin cánh quạt Tu-95 vẫn tiếp tục hoạt động trong Không quân Nga kể từ năm 1956 tới nay, năm 2018 không quân Nga vẫn duy trì 60 chiếc Tu-95 trong tình trạng hoạt động tốt. Một phần lý do dẫn tới quãng thời gian hoạt động cao và sự hữu dụng này, giống như B-52, đó là Tu-95 thích hợp chuyển đổi sử dụng cho nhiều mục đích. Thậm chí xét về độ bền bỉ, Tu-95 còn vượt trội hơn B-52: tính đến năm 2018, trong số trên 500 chiếc Tu-95 được chế tạo, chỉ có 13 chiếc bị mất do tai nạn, tỷ lệ tai nạn chỉ là 2,6%[7]
Bạn đang đọc: Boeing B-52 Stratofortress – Wikipedia tiếng Việt
Mục Lục
Thiết kế và tăng trưởng[sửa|sửa mã nguồn]
Ngày 23 tháng 11 năm 1945, Không quân Hoa Kỳ công bố bản tiêu chuẩn tính năng kỹ thuật cho một chiếc máy bay ném bom kế hoạch mới. Nó sẽ có một đội bay năm người cộng thêm những xạ thủ tháp súng và một nhân viên cấp dưới phi hành bổ trợ. Nó phải đạt tốc độ bay đường trường 480 km / h ( 240 knot, 300 mph ) ở độ cao 10.365 m ( 34.000 ft ) và một nửa đường kính chiến đấu 8.050 km ( 4.340 hải lý, 5.000 dặm ). Vũ khí trang bị phải là một số ít ( không xác lập số lượng đúng chuẩn ) pháo 20 mm và 4.535 kg ( 10.000 lb ) bom. [ 2 ] Đến ngày 13 tháng 2 năm 1946, Không quân công bố việc mời thầu cho những tính năng này, và những hãng Boeing, Consolidated Aircraft, và Glenn L. Martin Company đã đưa ra những đề án .
Kiểu 462 đến 464 – 35
Ngày 5 tháng 6 năm 1946, chiếc Kiểu 462xem bên phải của Boeing, một máy bay cánh thẳng lắp sáu động cơ turbo cánh quạt Wright T-35, trọng lượng 163.295 kg (360.000 lb) và bán kính chiến đấu 5.010 km (2.700 hải lý, 3.110 dặm), được công bố là máy bay thắng thầu.[2] Ngày 28 tháng 6 năm 1946, Boeing được ký hợp đồng trị giá 1,7 triệu Đô la (giá trị năm 1946, tương đương 17,5 triệu Đô la 2006) để chế tạo một mô hình mẫu kích thước thật của chiếc máy bay mới XB-52 để thực hiện các giải pháp kỹ thuật và thử nghiệm ban đầu. Tuy nhiên, đến tháng 10 năm 1946, Không lực bắt đầu nêu lên sự lo ngại về kích thước tuyệt đối của chiếc máy bay mới và khả năng không đáp ứng được các tiêu chuẩn đã đề ra. Để đáp ứng, Boeing đưa ra Kiểu 464, một phiên bản 4-động cơ nhỏ hơn, trọng lượng 104.325 kg (230.000 lb), được tin tưởng trong một lúc ngắn là sẽ được chấp nhận.
Rồi đến tháng tháng 11 năm 1946, Curtis LeMay (lúc đó đang là Tham mưu phó Nghiên cứu và Phát triển Không lực) nhấn mạnh đến yêu cầu phải có tốc độ bay đường trường 645 km/h (345 knot, 400 mph), nên Boeing đã đáp ứng bằng một kiểu máy bay nặng 136.080 kg (300.000 lb) aircraft.[2] Tháng 12 năm 1946, Boeing được yêu cầu thay đổi thiết kế trở thành một máy bay ném bom 4-động cơ có tốc độ tối đa 400 mph, tầm bay xa 19.320 km (10.430 hải lý, 12.000 dặm), và có khả năng mang vũ khí hạt nhân. Chiếc máy bay có thể nặng đến 217.725 kg (480.000 lb).[2] Boeing đáp ứng bằng hai kiểu máy bay cùng gắn động cơ turbo cánh quạt T-35. Kiểu 464-16 là máy bay ném bom hạt nhân tải trọng bom 10.000 lb, trong khi Kiểu 464-17 là máy bay ném bom thông thường tải trọng bom được 40.825 kg (90.000 lb).
Do yếu tố ngân sách để trang bị hai kiểu máy bay chuyên biệt, Không lực chọn Kiểu 464 – 17 với thỏa thuận hợp tác rằng nó hoàn toàn có thể cải biến thành vai trò tiến công hạt nhân. [ 2 ] Khi những tính năng nhu yếu được update vào tháng 6 năm 1947, Kiểu 464 – 17 cung ứng toàn bộ những yên cầu ngoại trừ tầm bay xa. Hơn nữa, hàng loạt chương trình bị nhờ vào vào năng lực cung ứng động cơ T-35 của hãng Curtiss-Wright .
Đến lúc đó thì đã rõ là, cho dù với những tính năng đã được cập nhật, chiếc XB-52 cũng sẽ trở nên lạc hậu vào lúc được đưa ra sản xuất, mà tính năng cũng chỉ nhỉnh hơn chiếc Convair B-36 mà thôi. Kết quả là, toàn bộ chương trình bị tạm dừng trong sáu tháng. Trong thời gian này, Boeing tiếp tục hoàn thiện thiết kế được tích lũy qua chiếc Kiểu 464-29 có tốc độ tối đa 730 km/h (395 knots, 455 mph) và tầm bay 5.000 dặm.[2] Đến tháng 9 năm 1947, Ủy ban Ném bom Hạng nặng đã thu xếp để xác định các yêu cầu của một máy bay ném bom hạt nhân. Chính thức công bố ngày 8 tháng 12 năm 1947, nó yêu cầu một tốc độ tối đa 805 km/h (435 knot, 500 mph) và tầm bay 12.880 km (6.955 hải lý, 8.000 dặm), vượt xa những khả năng của 464-29. Đội bay được yêu cầu rút gọn còn 5 người và chỉ trang bị vũ khí tự vệ duy nhất là tháp súng đuôi.
Việc hủy bỏ hàng loạt hợp đồng với Boeing vào tháng 12 năm 1947 được tạm ngưng sau lời kêu nài của quản trị Boeing William McPherson Allen, và đến tháng 1 năm 1948 Boeing được lệnh khảo sát kỹ càng mọi văn minh kỹ thuật gần nhất, gồm có tiếp nguyên vật liệu trên không và cánh bay. Nhận thức được những yếu tố về độ không thay đổi và tinh chỉnh và điều khiển mà Northrop gặp phải với những kiểu cánh bay ném bom thử nghiệm YB-35 và YB-49, Boeing vẫn khăng khăng dựa trên cấu trúc một máy bay thường thì, và đến tháng 4 năm 1948 họ ý kiến đề nghị một kiểu phong cách thiết kế mới, trị giá hợp đồng 30 triệu Đô la ( năm 1948, tương tự với 250 triệu Đô la năm 2006 ) cho việc phong cách thiết kế, sản xuất và thử nghiệm hai chiếc nguyên mẫu Kiểu Model 464 – 35. Các hiệu chỉnh khác tính năng nhu yếu trong năm 1948 đưa đến tác dụng là một chiếc máy bay có vận tốc tối đa 825 km / h ( 445 knot, 513 mph ) ở 10.670 m ( 35.000 ft ), tầm bay 11.125 km ( 6.005 hải lý, 6.909 dặm ), và khối lượng 127.000 kg ( 280.000 lb ) gồm có 10.000 lb bom và 75.225 L ( 19.875 US gal ) nguyên vật liệu. [ 2 ]
Bước vào kỷ nguyên phản lực[sửa|sửa mã nguồn]
Kiểu 464 – 49 đến B-52A
Việc áp dụng động cơ phản lực có hiệu quả nhiên liệu tốt hơn cho phép Boeing phát triển thêm một phiên bản nữa vào tháng 7 năm 1948, Kiểu 464-40 thay động cơ turbo cánh quạt bằng động cơ turbo phản lực Westinghouse J40. Tuy nhiên, vào ngày 21 tháng 10 năm 1948, Boeing được yêu cầu chế tạo một kiểu máy bay hoàn toàn mới trang bị động cơ phản lực Pratt & Whitney J57. Đáng chú ý là vào ngày 25 tháng 10, các kỹ sư Boeing đưa ra đề nghị và một mô hình bằng tay thu nhỏ của kiểu 464-49. Thiết kế mới được xây dựng dựa trên kiểu sắp đặt của chiếc B-47 Stratojet với cánh chéo 35°, tám động cơ xếp thành bốn cặp gắn dưới cánh, bốn bộ bánh đáp 2-bánh kèm thêm bánh đỡ ngoài đầu mút cánh. Chiếc máy bay được dự định vượt qua mọi tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra.[2] Mặc dù việc khảo sát mô hình kích thước thật vào tháng 4 năm 1949 tỏ ra thuận lợi, vẫn còn sự quan ngại về tầm bay xa vì cả hai kiểu động cơ J40 và J57 đời đầu đều tiêu thụ nhiều nhiên liệu.
Cho dù có những bàn luận về những sửa đổi trong tiêu chuẩn kỹ thuật, hay mở một gói thầu cho một thiết kế hoàn toàn mới, tướng LeMay, lúc này phụ trách Bộ Chỉ huy Không quân Chiến lược, nhấn mạnh rằng tính năng bay không thể thỏa hiệp vì sự chậm trễ trong việc phát triển động cơ.[2] Trong những cố gắng cuối cùng để gia tăng tầm bay xa, Boeing tạo ra kiểu 464-67 to hơn, tuyên bố rằng khi được sản xuất, tầm bay có thể gia tăng hơn nữa nhờ những cải tiến sau đó. Sau nhiều cuộc can thiệp trực tiếp bởi LeMay, ngày 14 tháng 2 năm 1951, Boeing giành được hợp đồng chế tạo 13 chiếc B-52A và 17 cụm trinh sát hình ảnh tháo rời được. Không lâu sau lại có thêm hợp đồng mua bốn chiếc B-52 và 43 chiếc phiên bản trinh sát RB-52. Thay đổi chủ yếu cuối cùng trong thiết kế, cũng do những yêu cầu của tướng LeMay, là thay đổi từ kiểu buồng lái ngồi theo hàng (trước-sau) kiểu B-47 thành kiểu ngang hàng cạnh nhau thông dụng hơn, sẽ làm cho công việc của phi công phụ hiệu quả hơn và giảm sự mệt mỏi của đội bay.[2]
Chiếc YB-52 (thực chất là chiếc XB-52 thứ hai với nhiều trang thiết bị hoạt động) cất cánh lần đầu ngày 15 tháng 4 năm 1952. Chuyến bay diễn ra bình yên. Chiếc XB-52 tiếp theo vào ngày 2 tháng 10 năm 1952. Công việc thử nghiệm và phát triển, bao gồm 670 ngày thử nghiệm trong hầm gió và 130 ngày thử nghiệm tính khí động học và độ chịu đựng diễn ra suôn sẽ. Bị thuyết phục, Không quân gia tăng số lượng đặt hàng lên 282 chiếc B-52.[2]
Chiếc được sản xuất đầu tiên B-52A khác những chiếc nguyên mẫu có mũi máy bay kéo dài thêm 53 cm (21 in) để chứa thêm các thiết bị điện tử, một tháp súng đuôi với bốn súng máy 12.7 mm (0.50 in), và một hệ thống phun nước vào buồng đốt để tăng công suất động cơ với thùng chứa 1.363 L (360 US gal) nước trong thân sau. Nó cũng được gắn ở mỗi bên chót cánh một thùng nhiên liệu bổ sung 3.785 L (1.000 US gal). Những thùng này có tác dụng làm đầm cánh chống rung động và cũng để giữ chót cánh thấp cho dễ bảo trì. Trong buổi lễ ra mắt chiếc sản xuất đầu tiên ngày 18 tháng 3 năm 1954, tướng Twining đã nói “…súng trường là vũ khí vĩ đại vào thời của nó… Hôm nay chiếc B-52 này là súng trường của thời đại hàng không.”[2]
Tên chính thức Stratofortress (Pháo đài tầng bình lưu) ít khi được dùng, trong khi đội bay và nhân viên có liên quan hay gọi nó là BUFF (Big Ugly Fat Fucker hay Big-Ugly-Fat-Fellow: tên xấu xí mập mạp ngu ngốc).[8][9][10][11]
Lịch sử hoạt động giải trí[sửa|sửa mã nguồn]
Ba chiếc B-52B thuộc Không đoàn Ném bom 93 chuẩn bị sẵn sàng cất cánh khỏi Căn cứ Không quân Castle, California, trong chuyến bay phá kỷ lục vòng quanh quốc tế năm 1957
Mặc dù B-52A là phiên bản được sản xuất đầu tiên, nó chỉ được dùng trong thử nghiệm. Phiên bản hoạt động đầu tiên là kiểu B-52B vốn được phát triển song song với kiểu nguyên mẫu từ năm 1951, bay lần đầu tiên vào tháng 12-1954. Chiếc B-52B ký hiệu 52-8711 được đưa vào sử dụng tại Phi Đội Ném bom Hạng nặng 93 tại Căn cứ không quân Castle, California ngày 29 tháng 6-1955. Phi đội sẵn sàng hoạt động vào ngày 12 tháng 3 năm 1956. Việc huấn luyện đội bay B-52 bao gồm năm tuần lớp học trên mặt đất và bốn tuần bay, tích lũy 35-50 giờ bay.[2] Chiếc B-52B mới thay thế cho những chiếc B-36 đang hoạt động theo kiểu một-đổi-một.
Những hoạt động đầu tiên gặp khó khăn do thiếu phụ tùng cũng như phương tiện phục vụ trên mặt đất, trong khi đường băng và đường chạy bị hư hỏng vì trọng lượng của máy bay. Hệ thống dẫn nhiên liệu thường hay rò rỉ hay đóng băng, máy tính điều khiển ném bom và vũ khí kém tin cậy. Buồng lái gồm hai tầng nảy sinh một vấn đề độc đáo: tầng trên buồng lái dành cho phi công bị đốt nóng bởi ánh nắng mặt trời, trong khi hoa tiêu và sĩ quan radar ngồi ở tầng dưới lạnh lẽo. Do đó, điều chỉnh nhiệt độ cho vừa một ai đó sẽ làm người kia quá nóng nực hay bị lạnh cóng. Động cơ J57 còn mới và chưa được bền. Sự cố hỏng máy phát điện đã gây ra vụ rớt máy bay chết người B-52 đầu tiên vào tháng 2 năm 1956[12], khiến loại máy bay này phải ngừng bay một thời gian ngắn. Sau đó B-52 còn bị ngưng bay vào tháng 7 vì những sự cố về hệ thống nhiên liệu và thủy lực. Để tránh những vấn đề về bảo trì, Không quân đã thành lập những nhóm Sky Speed hợp đồng thầu bảo trì tại mỗi căn cứ B-52. Ngoài việc bảo trì, những nhóm này thực hiện việc kiểm tra định kỳ tốn mất một tuần lễ cho mỗi máy bay.[2]
Chiến dịch Power Flite, trải qua 24.325 dặm (21.145 hải lý, 39.165 km) trong 45 giờ 19 phút năm 1957Lộ trình chuyến bay không nghỉ vòng quanh quốc tế trong, trải qua 24.325 dặm ( 21.145 hải lý, 39.165 km ) trong 45 giờ 19 phút năm 1957
Ngày 21 tháng 5 năm 1956, một chiếc B-52B (số hiệu 52-0013) đã ném thử nghiệm trái bom khinh khí (một trái Mk.15) trên đảo san hô Bikini.[13] Trong các ngày 24 và 25 tháng 11 năm 1956, bốn chiếc B-52B thuộc Không đoàn Ném bom 93 và bốn chiếc B-52C thuộc Không đoàn Ném bom 42 đã bay không nghỉ vòng quanh chu vi lục địa Bắc Mỹ trong Chiến dịch Quick Kick, trải qua 15.530 dặm (13.500 hải lý, 25.000 km) trong 31 giờ 30 phút. Không quân Chiến lược lưu ý rằng thời gian bay còn có thể rút ngắn thêm 5-6 giờ nếu như bốn lần tiếp nhiên liệu trong khi bay được thực hiện bằng những máy bay tiếp dầu phản lực thay cho những chiếc KC-97 Stratotanker động cơ cánh quạt. Để biểu diễn khả năng vươn tới toàn cầu của chiếc B-52, từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 1 năm 1957, ba chiếc B-52B thực hiện chuyến bay không nghỉ vòng quanh thế giới trong Chiến dịch Power Flite, trải qua 24.325 dặm (21.145 hải lý, 39.165 km) trong 45 giờ 19 phút với nhiều lần tiếp nhiên liệu trên không bởi máy bay KC-97.[12] Không đoàn Ném bom 93 nhận được Giải thưởng Mackay do thành tích này.
Chiếc B-52 lập thêm nhiều kỷ lục trong vài năm sau đó. Vào ngày 26 tháng 9 năm 1958, một chiếc B-52D lập kỷ lục quốc tế về vận tốc 560.705 mph ( 487 knot, 902 km / h ) trên một quãng đường bay vòng tròn khép kín dài 10.000 km ( 5.400 hải lý, 6.210 dặm ) không mang tải trọng. Cùng ngày hôm đó, một chiếc B-52D khác lập kỷ lục quốc tế về vận tốc 597.675 mph ( 519 knot, 962 km / h ) trên một quãng đường bay vòng tròn khép kín dài 5.000 km ( 2.700 hải lý, 3.105 dặm ) không mang tải trọng. [ 14 ] Vào ngày 14 tháng 12 năm 1960, một chiếc B-52G lập kỷ lục quốc tế bay không tiếp thêm nguyên vật liệu một quãng đường 10.078,84 dặm ( 8.762 hải lý, 16.227 km ). Chuyến bay lê dài 19 giờ 44 phút. Vào ngày 10 đến ngày 11 tháng 1 năm 1962, một chiếc B-52H lập kỷ lục quốc tế khi bay không tiếp thêm nguyên vật liệu từ Căn cứ Không quân Kadena, Okinawa, Nhật Bản, đến Căn cứ Không quân Torrejon, Tây Ban Nha, trải qua 12.532,28 dặm ( 10.895 hải lý, 20.177 km ). [ 2 ]Vào thời hạn này, Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược có lực lượng cao điểm nhất vào năm 1963, 650 chiếc B-52 hoạt động giải trí trong 42 phi đội và tại 38 địa thế căn cứ. [ 15 ]
Chiến tranh Nước Ta[sửa|sửa mã nguồn]
Khi tình hình xung đột tại Đông Nam Á leo thang, tháng 6 năm 1964, 28 chiếc B-52F được gắn thêm đế bên ngoài có khả năng mang 24 bom 340 kg (750 lb) trong kế hoạch South Bay. Sau đó thêm 46 máy bay nữa được cải tiến tương tự trong kế hoạch Sun Bath. Tháng 5 năm 1965, Hoa Kỳ đưa ra Chiến dịch Sấm Rền, và phi vụ chiến đấu đầu tiên của Chiến dịch Arc Light (đuốc sáng) do B-52F thực hiện ngày 18 tháng 6 năm 1965, khi 30 chiếc máy bay ném bom thuộc các phi đội ném bom 9 và 441 tấn công các vị trí đối phương tại Bến Cát, Bình Dương. Đợt máy bay ném bom đầu tiên đến điểm hẹn quá sớm, và trong khi cơ động để giữ nguyên đội hình, hai chiếc B-52 bị va chạm, làm tổn thất hai máy bay và tám nhân viên phi hành. Những chiếc còn lại, ngoại trừ một chiếc phải quay lại căn cứ xuất phát vì trục trặc kỹ thuật, tiếp tục bay đến mục tiêu và thực hiện ném bom.
Đến tháng 12 năm 1965, trong kế hoạch Big Belly, một số máy bay B-52D được cải tiến để tăng tải trọng bom cho nhiệm vụ ném bom rải thảm. Trong khi lượng bom mang bên ngoài không thay đổi là 24 trái 227 kg (500 lb) hoặc 340 kg (750 lb), lượng bom mang được ở khoang trong thân tăng lên đến 84 bom 500 lb hoặc 42 bom 750 lb. Các cải tiến của kế hoạch Belly đã tạo ra tải trọng bom lên đến 27.215 kg (60.000 lb) với 108 quả. Sau khi cải tiến, B-52D có thể chở nhiều hơn 9.980 kg (22.000 lb) so với B-52E. Thay thế cho B-52F, những chiếc B-52D cải tiến bắt đầu hoạt động từ tháng 4 năm 1966 cất cánh từ đảo Guam. Đến mùa Xuân năm 1967, nó bắt đầu hoạt động từ căn cứ không quân Utapao tại Thái Lan nhờ có ưu thế không phải tiếp thêm nhiên liệu trong khi bay. Ngày 15 tháng 4 năm 1968, một Đơn vị Huấn luyện Thay thế được thành lập tại căn cứ không quân Castle, nhằm chuyển loại các đội bay từ B-52E đến B-52H sang B-52D, cho phép họ tham gia chiến sự tại Đông Nam Á.[16]
Chỉ riêng chung quanh Sài Gòn – Gia Ðịnh, trong vòng chín ngày đầu tháng 6-1968, “máy bay B-52 đã thực hiện 166 phi vụ” (Hãng tin AP, ngày 21-6-1968). Ðể hiểu rõ hơn mức độ tàn phá của bom B-52 rải thảm, tờ Thời báo New York, ngày 26-8-1968 viết: “Mỗi chiếc B52 có đủ bom để trải xuống thành một hình chữ nhật dài 1.000 mét, ngang 100 mét. Thấy kết quả khả quan nên số phi vụ B-52 tại miền nam Việt Nam được thực hiện ngày một tăng, trong nửa cuối năm 1965, số phi vụ hàng tuần là 100; đầu năm 1967, mỗi tuần có 186 phi vụ và đến tháng 8-1968 thì mỗi tuần có 350 phi vụ”. Ngay từ tháng 6-1968, tướng Mỹ C. Abram – người thay William Westmoreland làm Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân Mỹ tại Sài Gòn, tuyên bố: “Sẽ cho B52 ném thật nhiều bom đến mức (…) chỉ cần phái một đội tuần tra không vũ trang đi xa với những quyển sổ tay để ghi kết quả”. Nhưng Tạp chí Tin Mỹ và Thế giới, ngày 1-4-1968 cho rằng, việc ném bom và pháo kích bừa bãi của Mỹ có thể sẽ làm người Việt Nam thêm căm phẫn, và “đẻ ra nhiều Việt cộng hơn là giết họ”[17].
Cao điểm của các cuộc tấn công của B-52 tại Việt Nam là trong Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không bao gồm nhiều đợt B-52 (đa số là kiểu D, nhưng cũng có một số kiểu G có tải trọng bom nhỏ hơn và không có thiết bị gây nhiễu) ném bom vào Hà Nội.
Không quân Mỹ công bố những xạ thủ súng đuôi trên những chiếc B-52D bắn hạ được hai máy bay MiG-21 ” Fishbeds ” ; một chiếc vào ngày 18 tháng 12 năm 1972 bởi trung sĩ Samuel O. Turner, và một chiếc vào ngày 24 tháng 12 năm 1972, bởi binh nhất Albert E. Moore. Turner được trao tặng huy chương Ngôi sao Bạc cho chiến công này. [ 18 ] ( 2 vụ bắn rơi này không được phía Nước Ta xác nhận và có lẽ rằng là không có thật ) .Số liệu thiệt hại của B-52 tại Nước Ta theo phía Mỹ công nhận : 31 chiếc B-52 đã bị tàn phá trọn vẹn tại Nước Ta. [ 19 ] Trong đó, 17 bị bắn rơi tại chỗ do tên lửa đất đối không, 2 chiếc khác bị tên lửa bắn hỏng nặng tới cả không hề thay thế sửa chữa được và bị tháo dỡ ( coi như là bị tàn phá ). Hai chiếc B-52F bị mất do va chạm trên không trong chiến dịch Arc Light tiên phong. Có bảy chiếc B-52G bị mất ( sáu chiếc do tên lửa SAM và một chiếc do lỗi kỹ thuật ) và 9 chiếc B-52 những phiên bản khác ( B-52D / H ) cũng bị mất trong Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không [ 2 ]Ngoài 31 chiếc bị tàn phá trọn vẹn, 1 số ít nguồn thống kê có 16 chiếc B-52 khác bị phòng không Nước Ta bắn hỏng ( nhưng không rơi mà quay về được trường bay ), trong đó có 9 chiếc bị bắn hỏng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không. Ngoài ra, còn có vài chiếc B-52 bị đặc công Nước Ta đột nhập vào trường bay ở Đất nước xinh đẹp Thái Lan để đánh hỏng tại kho chứa. Như vậy, ngoài 31 chiếc B-52 bị phá huỷ, tổng số B-52 bị đánh hỏng ( nhưng chưa bị hủy hoại trọn vẹn ) vào thời gian 25 chiếc, toàn bộ số B-52 bị tàn phá hoặc hư hại trong cuộc chiến tranh Nước Ta là khoảng chừng 66 chiếc .Trong số 25 chiếc bị hỏng, 1 số ít chiếc bị hỏng nặng đến mức không hề bay được nữa, nhưng Mỹ lại không tính là ” bị tàn phá trọn vẹn “, vì thế số B-52 bị diệt trong thực tiễn phải cao hơn số lượng 31 mà Mỹ thừa nhận. Khi tiêu hủy vũ khí hạt nhân kế hoạch theo hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân kế hoạch tiến trình 2 ( SALT-II ), những chuyên viên Liên Xô phát hiện nhiều máy bay B-52 được tiêu hủy tại sa mạc Nevada thực ra là những B-52 đã bị bắn hỏng nặng tại Nước Ta, chúng không còn bay được nữa nên bị tháo dỡ và được tập trung về đây để tiêu hủy .
Còn theo nguồn tin của phía Việt Nam, tổng số B-52 bị tiêu diệt là 68 chiếc (tính cả số bị phòng không – không quân bắn rơi và số bị đặc công phá hỏng tại sân bay). Riêng trong chiến dịch Linebacker II, số máy bay B-52 bị mất là 34 chiếc. Và cũng lần đầu tiên trên thế giới cho đến nay (năm 2018), B-52 bị bắn rơi bởi máy bay MiG-21 do phi công Phạm Tuân của Không quân Nhân dân Việt Nam. Con số này phù hợp với những bình luận đầy lo lắng trên AP: “Cứ theo tốc độ bị bắn rơi như thế này thì chỉ sau ba tháng, B-52 sẽ tuyệt chủng”
“Những thất bại trên là do lực lượng phòng không của Việt Nam đã biết khai thác triệt để các kẽ hở rất mờ nhạt trong hệ thống phòng thủ của B52. Ngược lại, việc triển khai ồ ạt B-52 trong khoảng thời gian ngắn không cho phép Mỹ khắc phục những điểm yếu, dẫn đến B-52 bị các tên lửa đất đối không của Việt Nam tiêu diệt”, hãng thông tấn AP bình luận.
Đây là thất bại nặng nề và duy nhất của loại máy bay này trên mặt trận, dẫn đến việc đổi khác trọn vẹn kế hoạch sử dụng B-52 trong những tiến trình sau. Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không cũng đã biến B-52 trở thành nguyên vật liệu làm xoong, thìa, … khai thác từ trên không cho quân dân Bắc Việt .
Chiến tranh Lạnh[sửa|sửa mã nguồn]
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, B-52 thực hiện các nhiệm vụ tuần tra cảnh giác trên không dưới các tên mã như Head Start, Chrome Dome, Hard Head, Round Robin, và Giant Lance. Những chiếc máy bay ném bom bay quanh quẩn tại các điểm bên ngoài lãnh thổ Liên Xô để sẵn sàng nhanh chóng tung ra đòn tấn công trước hoặc duy trì khả năng trả đũa trong một cuộc chiến tranh hạt nhân.[20][21]
Xem thêm: Việt Nam xác lập 3 kỷ lục thế giới mới
Ngày 17 tháng 1 năm 1966, xảy ra sự cố bom hạt nhân Palomares khi một chiếc B-52G đụng phải một chiếc máy bay tiếp nguyên vật liệu KC-135 Stratotanker bên trên vùng trời Palomares, Tây Ban Nha. Bốn trái bom hạt nhân cỡ megaton bị rơi xuống biển ( cả bốn sau này đều được tìm thấy ). Hai trong số bốn trái bom bị vỡ một phần do một vụ nổ nhỏ, gây phát tán nghiêm trọng những vật liệu phóng xạ plutonium và uranium. May mắn là những chốt bảo đảm an toàn đã giữ không gây ra vụ nổ dây chuyền sản xuất hạt nhân, nếu không đã là một thảm họa hạt nhân thật sự. Sau sự cố, 1.400 tấn đất bị nhiễm phóng xạ được gửi sang Hoa Kỳ. [ 2 ] Vụ tai nạn thương tâm và việc nhiễm phóng xạ tỏ ra vô cùng tốn kém đến nỗi phải chấm hết chương trình tuần tra cẩn trọng trên không. Năm 2006 một thỏa thuận hợp tác đã đạt được giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha trong việc tìm hiểu và giải quyết và xử lý ô nhiễm sau tai nạn đáng tiếc .Ngày 22 tháng 1 năm 1968, một chiếc máy bay B-52G khác đang chở bốn trái bom hạt nhân bị rơi trên tuyết tại vịnh North Star trong khi đang cố gắng nỗ lực hạ cánh khẩn cấp xuống Căn cứ không quân Thule, Greenland. Đám cháy sau đó cũng gây nhiễm xạ lan rộng mà việc giải quyết và xử lý lê dài cho đến tận tháng 9 năm đó. [ 2 ]Trong cuộc Chiến tranh Yom Kippur vào tháng 10 năm 1973, phía Liên Xô đã rình rập đe dọa sẽ can thiệp nhân danh Ai Cập và Syria. Để ngăn ngừa, Tổng thống Richard M. Nixon đã ra lệnh nâng thực trạng báo động quân sự chiến lược lên mức DEFCON 3. Bộ trưởng quốc phòng Melvin Laird đã ra lệnh cho máy bay B-52 sẵn sàng chuẩn bị tham chiến. Những chiếc máy bay B-52 mang đủ vũ khí và được đổ đầy nguyên vật liệu đã bay quanh Greenland. Liên Xô đã không can thiệp trực tiếp vào cuộc cuộc chiến tranh này .
Những chiếc B-52B kết thúc tuổi thọ cấu trúc thân máy bay vào giữa những năm 1960 và toàn bộ được cho nghỉ hưu vào tháng 6 năm 1966, sau đó đến lượt những chiếc B-52C vào ngày 29 tháng 9 năm 1971 ; ngoại trừ chiếc thử nghiệm của NASA B-52B ” 008 ” mà sau này nghỉ hưu năm 2004. [ 22 ] Một chiếc phiên bản B còn lại, chiếc ” 005 “, được tọa lạc tại Bảo tàng Hàng không và Không gian Wings Over the Rockies tại Denver, Colorado .
Một vài chiếc phiên bản E hết hạn sử dụng được cho nghỉ hưu trong những năm 1967 và 1968, nhưng đa số (82) được nghỉ hưu từ tháng 5-1969 đến tháng 3-1970. Đa số phiên bản F cũng được cho nghỉ hưu giữa năm 1967 và năm 1973, nhưng có 23 chiếc tiếp tục hoạt động như máy bay huấn luyện cho đến năm 1978. Đội bay phiên bản D phục vụ được lâu hơn. 80 chiếc phiên bản D được nâng cấp trong chương trình Pacer Plank (ECP 1581) tại xưởng Wichita của Boeing. Vỏ bọc phần dưới cánh và thân được thay mới, cũng như nhiều thành phần cấu trúc khác. Công việc hoàn tất năm 1977 với phí tổn 219 triệu Đô la. Đội bay D tồn tại đến năm 1978, khi 37 chiếc được nghỉ hưu, và số còn lại cũng được nghỉ hưu giữa các năm 1982 và 1983.
Những chiếc phiên bản G và H còn lại được sử dụng cho trách nhiệm sẵn sàng chuẩn bị ( ” cẩn trọng ” ) hạt nhân như thể một trong ba thế chân vạc hạt nhân của Hoa Kỳ. Chiến lược này gồm có tên lửa liên lục địa phóng từ mặt đất, tên lửa phóng từ tàu ngầm và máy bay ném bom. Chiếc B-1B Lancer vốn được dự tính để thay thế sửa chữa B-52, chỉ sửa chữa thay thế những phiên bản cũ và thay cho kiểu máy bay ném bom siêu âm FB-111. Sau khi Liên Xô tan rã, những chiếc B-52G được tàn phá theo những lao lý của Hiệp ước Cắt giảm vũ khí kế hoạch ( START ). Theo đó có 365 chiếc máy bay B-52 sẽ bị tàn phá, và tiến trình này được phía Nga giám sát trực tiếp hay trải qua hình ảnh vệ tinh. Ngày nay chỉ còn phiên bản H hoạt động giải trí. B-52 đã chấm hết việc tuần tra liên tục 24 – giờ vào năm 1991 .
Chiến tranh Vùng Vịnh và sau đó[sửa|sửa mã nguồn]
Năm 1991 những chiếc B-52G xuất phát từ những địa thế căn cứ tại Anh Quốc và tại hòn đảo Diego Garcia đã bay những phi vụ ném bom tầm thấp cho đến khi những lực lượng Liên quân chiếm được lợi thế trên không trọn vẹn và có năng lực khống chế mọi mạng lưới hệ thống phòng không hoàn toàn có thể bắn tới những máy bay ném bom tầm cao. B-52 có vai trò quan trọng trong quy trình chiến dịch Bão táp Sa mạc ( Desert Storm ) vì chúng hoàn toàn có thể được sử dụng mà tránh khỏi bị trừng phạt. Mặc dù tính tàn phá không cao so với những vũ khí tân tiến hơn như bom chùm hay đầu đạn dẫn đường đúng mực, những kiểu tiến công thường thì được dùng vì chúng có ngân sách rẻ hơn ; và vì được kỳ vọng sẽ làm mất niềm tin những lực lượng Iraq phòng thủ, khiến họ lúng túng mà đầu hàng hơn là bị hủy hoại. Trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh, B-52 chỉ bị thiệt hại một chiếc bị rơi do tai nạn đáng tiếc, 1 chiếc B-52 bị bắn hỏng nặng bởi tiêm kích MiG-29 của Iraq, và nhiều chiếc khác bị hư hại nhẹ do những hoạt động giải trí đối phương .Vào năm 1991 một chuyến bay B-52G xuất phát và kết thúc từ Căn cứ Không quân Barksdale, Louisiana, để tiến công tiềm năng tại Iraq. Đây là phi vụ chiến đấu dài nhất từng được triển khai trong lịch sử dân tộc vào lúc đó : Chuyến bay lê dài 35 giờ và trải qua 14.000 dặm. Đến ngày 2 và 3 tháng 9 năm 1996, hai chiếc B-52H đã tiến công những tiềm năng tại Iraq với 13 tên lửa hành trình dài mang đầu đạn thường thì trong một phần của Chiến dịch Tấn công Sa mạc, một phi vụ lê dài 34 giờ, trải qua 16.000 dặm từ Căn cứ Không quân Andersen, tại Guam. Chuyến bay này là một phi vụ chiến đấu dài nhất từng được triển khai trong lịch sử vẻ vang. Chỉ hai ngày trước đó, đội bay đã hoàn tất chuyến bay lê dài 17 giờ từ Louisiana đến Guam .B-52 cũng góp thêm phần vào thắng lợi của lực lượng Mỹ trong Chiến dịch Thực thi Tự do ( Enduring Freedom ) tại Afghanistan năm 2001, nhờ năng lực bay lâu bên trên mặt trận và tương hỗ tiến công mặt đất qua việc sử dụng những vũ khí dẫn đường đúng mực, một trách nhiệm trước đây chỉ được giao cho máy bay tiêm kích và máy bay cường kích. B-52 cũng giữ vai trò chủ chốt trong Chiến dịch Iraq Tự do ( Iraqi Freedom ) năm 2003, khi nó tương hỗ mặt đất và ném bom .
Các nâng cấp cải tiến trong Giao hàng[sửa|sửa mã nguồn]
Tháng 11 năm 1959, Bộ chỉ huy Không quân Chiến lược khởi sự chương trình cải tiến Big Four (còn được biết đến dưới tên Modification 1000) cho mọi chiếc B-52 đang hoạt động trừ những phiên bản B đời đầu. Bốn cải tiến đưa ra là:
- Có khả năng hoạt động can thiệp trong mọi thời tiết ở độ cao thấp (dưới 500 ft/150 m) như là đáp ứng lại những sự tiến bộ về tên lửa phòng thủ của Liên Xô. Những phi vụ bay tầm thấp được ước tính gia tốc sự hư hại khung máy bay ít nhất theo hệ số tám lần, đòi hỏi những chi phí sửa chữa tốn kém để kéo dài thời gian hoạt động.
- Có khả năng phóng tên lửa AGM-28 Hound Dog đầu đạn hạt nhân
- Có khả năng phóng pháo sáng ADM-20 Quail
- Một bộ phản công điện tử (ECM) tiên tiến
Chương trình được hoàn tất vào năm 1963 với ngân sách tổng số 265 triệu Đô la Mỹ. [ 2 ]Khả năng hoàn toàn có thể mang cho đến 20 tên lửa AGM-69 SRAM đầu đạn hạt nhân được bổ trợ cho những phiên bản G và H vào năm 1971 với ngân sách tổng số 400 triệu Đô la Mỹ. [ 2 ]
Sự rò rỉ nhiên liệu do hỏng hóc đai siết Marman (Marman clamp) tiếp tục ảnh hưởng đến tất cả các phiên bản của B-52. Nhằm mục đích này, chiếc máy bay trải qua các chương trình Blue Band (1957), Hard Shell (1958), và cuối cùng QuickClip (1958). Chương trình cuối gắn những đai an toàn nhằm ngăn ngừa sự mất nhiên liệu tai hại trong trường hợp hỏng đai.[2]
Những vấn đề tiếp tục với hệ thống điện tử tiên tiến được xử lý trong chương trình Jolly Well, hoàn tất năm 1964, đã cải tiến những thành phần của máy tính dẫn đường ném bom AN/ASQ-38 và máy tính theo dõi địa hình. Nâng cấp MADREC (phát hiện và ghi nhận hỏng hóc) được trang bị cho hầu hết máy bay vào năm 1965 có thể phát hiện các hỏng hóc trong hệ thống máy tính hành trình và vũ khí, và cần thiết để theo dõi tên lửa Hound Dog. Khả năng phản công điện tử của B-52 được tăng cường bởi các chương trình Rivet Rambler (1971) và Rivet Ace (1973).[2]
Hiện tượng giảm sức chịu đựng kim loại, bị làm trầm trọng hơn do thay đổi nhiệm vụ hoạt động ở tầm thấp, được xử lý lần đầu tiên vào những năm 1960 bởi chương trình High Stress gồm ba giai đoạn thu nạp những máy bay có 2.000 giờ bay. Nó được tiếp nối bởi một chương trình kéo dài tuổi thọ phục vụ 2.000 giờ cho một số khung máy bay chọn lọc trong giai đoạn 1966 – 1968, và chương trình Pacer Plank bọc lại vỏ máy bay rộng rãi hoàn tất vào năm 1977.[2] Kiểu cánh ướt dùng trên phiên bản G và H càng dễ bị ảnh hưởng hơn nữa đối với hiện tượng giảm sức chịu đựng kim loại do phải chịu 60% nhiều áp lực hơn khi bay hơn kiểu cánh cũ. Cánh được cải tiến vào năm 1964 trong chương trình ECP 1050 với chi phí 219 triệu Đô la Mỹ. Nó được tiếp nối bởi việc thay thế lớp vỏ phủ thân và thay khung (ECP 1185) chi phí 50 triệu Đô la Mỹ vào năm 1966, và chương trình Gia tăng ổn định và Kiểm soát bay B-52 (ECP 1195) chi phí 69 triệu Đô la Mỹ vào năm 1967.[2]
Nền tảng thử nghiệm nguyên vật liệu sửa chữa thay thế[sửa|sửa mã nguồn]
Vào tháng 9 năm 2006, B-52 trở thành một trong những máy bay quân sự chiến lược Hoa Kỳ tiên phong sử dụng một loại nguyên vật liệu ‘ thay thế sửa chữa ’. Syntroleum, một hãng đứng vị trí số 1 về kỹ thuật Fischer-Tropsch ( FT ), công bố rằng loại nguyên vật liệu phản lực Ultra-Clean của họ đã được thử nghiệm thành công xuất sắc trên một chiếc B-52. Nó cất cánh từ Căn cứ Không quân Edwards với một hỗn hợp gồm phân nửa FT và phân nửa nguyên vật liệu phản lực thường thì JP-8 được đốt trên hai trong số tám động cơ của chiếc máy bay. Việc này đã lưu lại lần tiên phong loại nguyên vật liệu phản lực FT được thử nghiệm trên một chuyến bay quân sự chiến lược trình diễn, và là chuyến bay tiên phong trong một loạt những chuyến bay thử nghiệm được vạch kế hoạch. [ 23 ]
Vào ngày 15 tháng 12 năm 2006, máy bay Wise Guy số hiệu 61-0034 cất cánh từ Căn cứ Edwards với hỗn hợp nhiên liệu tổng hợp được dùng cho tất cả tám động cơ, lần đầu tiên mà một máy bay của Không quân hoàn toàn bay bằng hỗn hợp này. Chuyến bay thử nghiệm được điều khiển bởi Đại tướng Curtis Bedke, chỉ huy trưởng Trung tâm Bay thử nghiệm Edwards, lần đầu tiên trong vòng 36 năm mà chỉ huy của cơ sở thực hiện chuyến bay đầu tiên của một chương trình bay thử nghiệm. Chuyến bay kéo dài bảy giờ và đạt đến độ cao 48.000 ft, và được xem là một thành công.[23]
Vào ngày 8 tháng 8 năm Hàng không năm 2007, người đứng đầu Bộ Không quân Hoa Kỳ là Michael Wynne ghi nhận rằng kiểu máy bay B-52H trọn vẹn được đồng ý để sử dụng hỗn hợp FT, ghi lại việc Tóm lại chính thức của chương trình thử nghiệm. [ 24 ]Chương trình này là một phần của Sáng kiến Đảm bảo Nhiên liệu Bộ Quốc phòng Mỹ, một nỗ lực nhằm mục đích đạt được những nguồn trong nước cho những nhu yếu về nguồn năng lượng cho quân sự chiến lược. Lầu Năm Góc kỳ vọng giảm thiểu được việc sử dụng dầu thô từ những đơn vị sản xuất quốc tế và sẽ đạt được khoảng chừng phân nửa nguyên vật liệu máy bay từ những nguồn sửa chữa thay thế vào năm năm nay. [ 23 ] Với chiếc B-52 giờ đây được gật đầu để sử dụng hỗn hợp FT, Không quân Mỹ sẽ dùng những quy trình tiến độ thử nghiệm được tăng trưởng trong chương trình để ghi nhận chiếc C-17 Globemaster III rồi sau đó là chiếc B-1B để sử dụng loại nguyên vật liệu này. Không quân dự tính thử nghiện và ghi nhận mỗi loại máy bay đang có của họ để sử dụng loại nguyên vật liệu này vào năm 2011. [ 24 ]
Tương lai của B-52[sửa|sửa mã nguồn]
Hai động cơ của máy bay B-52 đang được bảo dưỡng tại xưởng của hãng BoeingKhông quân Hoa Kỳ dự tính giữ lại những chiếc B-52 trong ship hàng cho đến tối thiểu là năm 2040, một khoảng chừng thời hạn hoạt động giải trí dài chưa từng có trong lịch sử vẻ vang so với một máy bay quân sự chiến lược. [ 25 ] Đây là một điều đặc biệt quan trọng đáng kể khi biết rằng chiếc B-52 ở đầu cuối được sản xuất là vào năm 1962. Những chiếc B-52 được định kỳ tân trang tại những kho bảo dưỡng của Không quân Hoa Kỳ như tại Căn cứ Không quân Tinker, Oklahoma. Do đó, mặc dầu có tuổi thời hạn cao, tuổi Giao hàng hiệu suất cao của chúng khá ” trẻ ” .Không quân Hoa Kỳ liên tục sử dụng chiếc B-52 vì nó vẫn là kiểu máy bay ném bom hạng nặng có hiệu suất cao kinh tế tài chính, đặc biệt quan trọng là cho kiểu những xung đột xảy ra sau thời kỳ Chiến tranh Lạnh chống lại những nước có năng lực phòng không hạn chế. Khả năng của chiếc B-52 hoàn toàn có thể bay lâu trên mặt trận để ném những loại bom mưu trí và đầu đạn bắn trực tiếp có giá trị rất lớn trong những cuộc xung đột, như trong Chiến dịch Thực thi Tự Do tại Afghanistan. Tốc độ và năng lực tàng hình của những chiếc B-1 Lancer và B-2 Spirit chỉ thực sự có ích cho đến khi mạng lưới hệ thống phòng không đối phương bị tàn phá, một trách nhiệm thường đạt được một cánh nhanh gọn trong những cuộc xung đột gần đây. Chiếc B-52 cũng đạt được tỉ lệ thời hạn sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu cao nhất trong số ba kiểu máy bay ném bom hạng nặng đang được Không quân Hoa Kỳ sử dụng. Trong khi chiếc B-1 đạt được tỉ lệ thời hạn trung bình là 53 % [ 26 ] và chiếc B-2 đạt được 26 % [ 27 ], chiếc B-52 đạt trung bình đến 80 %. [ 28 ]Boeing đã đề xuất tái trang bị đội máy bay B-52H với kiểu động cơ mới Rolls-Royce RB211 534E-4, theo đó tám động cơ Pratt và Whitney TF33 ( lực đẩy tổng số 8 × 17.000 lbf hoặc 75,6 kN ) sẽ được sửa chữa thay thế bằng bốn động cơ RB211 ( lực đẩy tổng số 4 × 37.400 lbf hoặc 166,4 kN ). Các động cơ Rolls-Royce sẽ giúp nâng tầm bay và tải trọng của đội máy bay đồng thời giảm lượng nguyên vật liệu tiêu thụ. Tuy nhiên, ngân sách của dự án Bất Động Sản sẽ rất đáng kể. Sẽ phải ngân sách khoảng chừng 2,56 tỷ đô la Mỹ ( 36 triệu × 71 máy bay ). Một điều tra và nghiên cứu của Văn phòng Tổng kiểm toán Quốc gia về đề xuất kiến nghị này Tóm lại rằng những khoảng chừng tiết kiệm chi phí do Boeing ước tính trị giá 4,7 tỷ đô la Mỹ là không thực tiễn. Ho mày mò ra rằng Không quân sẽ phải ngân sách 1,3 tỷ đô la Mỹ để duy trì những động cơ hiện tại. [ 29 ] Điều này đã đưa đến những tranh luận sau đó trong một báo cáo giải trình của Ủy ban Khoa học Quốc phòng năm 2003 và được sửa đổi năm 2004 tìm thấy nhiều sai lầm đáng tiếc trong sự nhìn nhận trước đây so với ý kiến đề nghị của Boeing, và thôi thúc Không quân nên biến hóa động cơ không nên trì hoãn. Hơn nữa, báo cáo giải trình của Ủy ban nhấn mạnh vấn đề rằng chương trình sẽ giúp tiết kiệm ngân sách và chi phí ngân quỹ đáng kể, giảm thải khí gây hiệu ứng nhà kính, ngày càng tăng tầm bay của và sức chịu đựng của chiếc máy bay, lặp lại những Tóm lại của một chương trình nghiên cứu và điều tra chính thức từ ngân quỹ của Quốc hội Mỹ trị giá 3 triệu Đô la Mỹ thực thi vào năm 2003. [ 30 ]
Các phiên bản[sửa|sửa mã nguồn]
Balls 8 của NASA (dưới thấp) và chiếc thay thế cho nó B-52H tại Chiếc NB-52Bcủa NASA ( dưới thấp ) và chiếc sửa chữa thay thế cho nó B-52H tại Căn cứ Không quân Edwards Boeing B-52H triển lãm cùng vũ khí, Căn cứ Không quân Barksdale, 2006Nguồn : [ 2 ]
Có tổng số 744 chiếc B-52 được sản xuất. Chiếc sau cuối, một chiếc B-52H số hiệu 61-0040, rời nhà máy sản xuất vào ngày 26 tháng 10 năm 1962 .
Đặc điểm kỹ thuật ( B-52H )[sửa|sửa mã nguồn]
Tham khảo: Quest for Performance[2][33]
Đặc tính chung[sửa|sửa mã nguồn]
Đặc tính bay[sửa|sửa mã nguồn]
- Tốc độ lớn nhất: 1.000 km/h (560 knot, 650 mph)
- Bán kính chiến đấu: 14.720 km (3.890 nm, 4.480 mi)
- Tầm bay tối đa: 16.000 km (9.560 nm, 11.000 mi)
- Trần bay: 17.000 m (55.773 ft)
- Tốc độ lên cao: 31,85 m/s (6.270 ft/min)[34]
- Tỉ lệ lực đẩy/khối lượng: 0,51
- 1 pháo M61 Vulcan 20 mm trong tháp pháo đuôi điều khiển từ xa, đã được gỡ bỏ trên tất cả các chiếc đang hoạt động
- Chở đến 33.200 kg (60.000 lb) bom, tên lửa, mìn các loại
- Ngày 21 tháng 7 năm 2008, khi đang trên đường tham gia buổi biểu diễn chào mừng Lễ kỷ niệm Ngày Tự do tại đảo Guam một chiếc B-52 đã bị rơi cách Apra Harbor, Guam 50 km khiến toàn bộ phi hành đoàn 6 người trên máy bay bị thiệt mạng[35].
- Davis, Larry. B-52 Stratofortress in action. Carollton, Texas: Squadron/Signal Publications, 1992. ISBN 0-89747-289-6.
- Drendel, Lou. B-52 Stratofortress in action. Carollton, Texas: Squadron/Signal Publications, 1975. No ISBN.
- Ethell, Jeffrey L. B-52 Stratofortress. London: Arms and Armour Press, 1989. ISBN 0-85368-937-7.
- Futrell, R.F, Greenhalgh, W.H, Grubb, C., Hasselwander, G.E., Jakob, R.F. and Ravenstein, C.A. The United States Air Force in Southeast Asia – Aces and Aerial victories, 1965-1973. Washington, DC: Office of Air Force History, 1976. ISBN 0-89875-884-X.
- Hobson, Chris. Vietnam Air Losses, USAF, USN, USMC, Fixed-Wing Aircraft Losses in Southeast Asia 1961–1973. North Branch, Minnesota: Specialty Press, 2001. ISBN 1-85780-115-6.
- Knaack, Marcelle Size. Post-World War II Bombers, 1945-1973. Washington, DC: Office of Air Force History, 1988. ISBN 0-16-002260-6.
- Lloyd, Alwyn T. B-52 Stratofortress in Detail and Scale Vol. 27. Blue Ridge Summit, Pennsylvania: Tab Books Inc., 1988. ISBN 0-8306-8037-3.
- Marshall, L. Michel. The Eleven Days of Christmas: America’s Last Vietnam Battle. San Francisco: Encounter Books, 2002. ISBN 1-893554-24-4.
- Winchester, Jim, ed. “Boeing B-52 Stratofortress (SAC) “. Military Aircraft of the Cold War (The Aviation Factfile). London: Grange Books plc, 2006. ISBN 1-84013-929-3.
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Nội dung tương quan[sửa|sửa mã nguồn]
Máy bay tương quan[sửa|sửa mã nguồn]
Máy bay tương tự như[sửa|sửa mã nguồn]
Trình tự phong cách thiết kế[sửa|sửa mã nguồn]
Danh sách tương quan[sửa|sửa mã nguồn]
Source: https://evbn.org
Category: Kỷ Lục Guinness