BÁO cáo CHUYẾN THAM QUAN THỰC tế CHUYÊN môn – Tài liệu text

BÁO cáo CHUYẾN THAM QUAN THỰC tế CHUYÊN môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.09 KB, 12 trang )

BÁO CÁO CHUYẾN THAM QUAN THỰC TẾ CHUYÊN MÔN
KHOA THIẾT KẾ THỜI TRANG

Tour du lịch: Hà Nội – Huế – Đà Nẵng – Quảng Bình – Hà Nội
Độ dài tour: 6 ngày 5 đêm
Thời gian: 8-13/5/2016

Bài báo cáo gồm 3 phần:
Mô tả tổng quát về chuyến đi
Cảm nhận về chuyến đi
Đánh giá về chuyến đi

1. MÔ TẢ TỔNG QUẤT VỀ CHUYẾN ĐI
1.1.
Giới thiệu về đoàn:

Đoàn gồm 200 sinh viên của khoa Thiết kế thời trang, và các thầy cô giáo của
khoa thuộc trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương
1.2.

Mục đinh của chuyến đi:

Chuyển đi nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức thực tế, so sánh với
những lý thuyết đã được học trên giảng đường trong 3 năm học nhằm có cái
nhìn chi tiết hớn về mỹ thuật và con người ở nơi đây.
Chuyến tham quan thực tế cũng là cơ hội để củng cố tình đoàn kết của tập thể
lớp, là dịp để giao lưu tình cảm thầy trò, giúp cho sinh viên mở rộng tầm mắt
và khám phá được tài nguyên du lịch và vẻ đẹp, văn hóa của Việt Nam, đây
chính là cơ sở bước đầu cho hoạt động của sinh viên trong ngành thiết kế thời
trang khi ra trường.

1.3.

Lịch trình chuyến tham quan thực tế:

Ngày 1: Hà Nội – Tp Huế
Ngày 2: Tp Huế
Ngày 3-4: Huế – Đà Nẵng- Hội An
Ngày 5: Đà Nẵng – Quảng Bình
Ngày 6: Quảng Bình – Hà Nội

2. CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN ĐI:
Nhìn chung chuyến đi mang lại nhiều kiến thức bổ ích, rất thiết thực, hoạt
động tổ chức tốt, tuyến điểm hấp dẫn, hoạt động vui chơi ăn uống và nghỉ
ngơi tương đối hợp lý.
2.1 Hoạt động tổ chức
– Công tác chuẩn bị tốt: phương tiện vận chuyển đảm bảo sự an toàn, rộng
rãi, các đồ dung, thực phẩm đầy đủ

– Công tác điều hành tốt: khoa học, nhiệt tình, hào hứng trong chuyến tham
quan, thời gian được bố trí hợp lý.

2.2. Các điểm tham quan:

Huế – di sản văn hóa thế giới

Trong gần 400 năm (1558-1945), Huế đã từng là Thủ phủ của 9 đời chúa
Nguyễn ở Đàng Trong, là Kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến Kinh đô của
quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn. Cố đô Huế ngày nay vẫn còn

lưu giữ trong lòng những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể chứa đựng
nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt
mấy thế kỷ, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây hun
đúc cho một nền văn hóa đậm đà bản sắc để hoàn chỉnh cho một bức cảnh
thiên nhiên tuyệt vời sẵn bày sông núi hữu tình thơ mộng. Bởi vậy, nói đến
Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những
đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự
trầm tư u tịch, những thắng tích thiên nhiên thợ trời khéo tạc…

Ngọ Môn nhìn từ điện Thái Hòa

Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỷ
XIV (khi vua Chăm là Chế Mân dâng hai Châu Ô, Rí cho nhà Trần để làm sính
lễ cưới công chúa Huyền Trân), các chúa Nguyễn (thế kỷ XVI-XVIII), triều đại
Tây Sơn (cuối thế kỷ XVIII) và 13 đời vua Nguyễn (1802-1945) đã tiếp tục
phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hóa vô giá. Tiêu biểu nhất
là Quần thể di tích của Cố đô đã được sánh ngang hàng với các kỳ quan hằng

ngàn năm tuổi của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hóa thế giới của
UNESCO.
Nằm giữa lòng Huế, bên bờ Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy xuyên
qua từ Tây sang Đông, hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ
trung ương tập quyền Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của
thời gian. Đó là Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế, ba tòa
thành lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ
mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở
đây là một mẫu mực của sự kết hợp hài hòa
nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và
Tây, được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ tú với nhiều yếu tố biểu

tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận
của Kinh thành Huế – đó là núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Giã Viên,
cồn Bộc Thanh… Nhìn từ phía ngược lại, những công trình kiến trúc ở đây
như hòa lẫn vào thiên nhiên tạo nên những tiết tấu diệu kỳ khiến người ta
quên mất bàn tay con người đã tác động lên nó.
Hoàng thành giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông với
mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào mà độc đáo nhất thường
được lấy làm biểu tượng của Cố đô: Ngọ Môn, chính là khu vực hành
chính tối cao của triều đình Nguyễn. Bên trong Hoàng thành, hơi dịch
về phía sau, là Tử cấm thành – nơi ăn ở sinh hoạt của Hoàng gia.
Xuyên suốt cả ba tòa thành, khi thì lát đá cụ thể khi thì mang tính
ước lệ, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình
những công trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế: Nghinh
Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh,
điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung… Hai bên đường Thần đạo
này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen
cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu thiên nhiên, luôn tạo
cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.
Xa xa về phía Tây của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương,
lăng tẩm của các vua Nguyễn được xem là những thành tựu của nền
kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua đôi khi lại là một cõi thiên đường
tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mới
trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Hàm nghĩa
như vậy nên kiến trúc lăng tẩm ở đây mang một phong thái hoàn
toàn riêng biệt của Việt Nam.
Mỗi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân
đang yên nghỉ: lăng Gia Long mộc mạc nhưng hoành tráng giữa núi rừng
trùng điệp khiến người xem cảm nhận được hùng khí của một chiến tướng
từng trải trăm trận; lăng Minh Mạng uy nghi bình chỉnh đăng đối giữa rừng

núi hồ ao được tôn tạo khéo léo, hẳn có thể thấy được hùng tâm đại chí của
một chính trị gia có tài và tính cách trang nghiêm của một nhà thơ quy củ;
lăng Thiệu Trị thâm nghiêm, vừa thâm trầm u uẩn giữ chốn đồng không
quạnh quẽ, cũng thể hiện phần nào tâm sự của một nhà thơ siêu việt trên văn
đàn song không nối được chí tiền nhân trong chính sự; lăng Tự Đức thơ mộng
trữ tình được tạo nên chủ yếu bằng sự tinh tế của con người, phong cảnh nơi
đây gợi cho du khách hình ảnh của một tao nhân mang nặng nỗi niềm trắc ẩn
bởi tâm huyết của một nhà vua không thực hiện được qua tính cách yếu ớt
của một nhà thơ…

Phố cổ Hội An:

Hội An là một thị xã cổ của người Việt, nằm ở vùng hạ lưu ngã ba sông Thu
Bồn thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà
Nẵng khoảng 30km về phía nam. Hội An từng được biết đến trên thương
trường quốc tế với nhiều tên gọi khác nhau như Lâm Ấp, Faifo, Hoài Phố và
Hội An.
Là một kiểu cảng thị truyền thống Đông Nam Á duy nhất ở Việt Nam, hiếm có
trên thế giới, Hội An giữ được gần như nguyên vẹn hơn một nghìn di tích kiến
trúc như phố xá, nhà cửa, hội quán, đình, chùa, miếu, nhà thờ tộc, giếng cổ,
mộ cổ… Các kiến trúc vừa có sắc thái nghệ thuật truyền thống của Việt Nam,
vừa thể hiện sự giao lưu hội nhập văn hoá với các nước phương Đông và
phương Tây. Trải qua nhiều thế kỷ, những phong tục tập quán, nghi lễ, sinh
hoạt văn hoá, tín ngưỡng cũng như các món ăn truyền thống vẫn lưu giữ, bảo
tồn cùng với bao thế hệ người dân phố cổ. Hội An còn có một môi trường
thiên nhiên trong lành, êm ả với những làng nhỏ ngoại ô xinh xắn, có nghề
thủ công như mộc, làm đồ đồng, gốm…
Các nhà nghiên cứu cho rằng kiến trúc cổ ở Hội An hầu hết được làm lại mới

từ đầu thế kỷ 19, mặc dù năm khởi dựng có thể xưa hơn nhiều. Kiến trúc cổ
thể hiện rõ nhất ở khu phố cổ. Nằm trọn trong địa bàn của phường Minh An,
Khu phố cổ có diện tích khoảng 2km², tập trung phần lớn các di tích nổi tiếng
ở Hội An. Đường phố ở khu phố cổ ngắn và hẹp, có độ uốn lượn, chạy ngang
dọc theo kiểu bàn cờ. Địa hình khu phố cổ có dạng nghiêng dần từ bắc xuống
nam. Các công trình kiến trúc trong khu phố cổ được xây dựng hầu hết bằng
vật liệu truyền thống: gạch, gỗ và không có nhà quá hai tầng. Du khách dễ
nhận ra dấu vết thời gian không chỉ ở kiểu dáng kiến trúc của mỗi công trình
mà có ở mọi nơi: trên những mái nhà lợp ngói âm dương phủ kín rêu phong
và cây cỏ; những mảng tường xám mốc, xưa cũ; những bức chạm khắc về một
con vật lạ hay diễn tả một câu chuyện cổ… Nơi đây hẳn đã thu hút được các

nghệ nhân tài hoa về nghề mộc, nề, gốm sứ của người Hoa, người Nhật,
người Việt, người Chăm… cho nên mỗi công trình để lại hôm nay còn in dấu
ấn văn hoá khá đa dạng, phong phú của nhiều dân tộc.
Trong nhiều thế kỷ, Hội An đã từng là nơi gặp gỡ, giao lưu của nhiều nền văn
hoá khác nhau trên thế giới. Bên cạnh những phong tục tập quán bản địa của
người Việt còn có thêm những tập tục của cộng đồng cư dân nước ngoài đến
định cư như tục thờ đá; thờ Cá Ông của cư dân ven biển Trung bộ; thờ các
hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, sấm, sét hay vật thiêng (cây cổ thụ),…
Cộng đồng người Hoa ở Hội An có tục thờ các vị thần bảo trợ như Thiên Hậu,
Quan Công, Bảo Sinh Đại Đế, Quan Âm Bồ Tát. Họ thường xuyên tổ chức các
kỳ lễ hội hay sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng khác trong các ngày vía thần như
tết Nguyên Tiêu (16/1 âm lịch), Thanh Minh (tháng 3 âm lịch), Đoan Ngọ
(5/5 âm lịch), Trung Thu (15/8), Trùng Cửu (9/9 âm lịch), Hạ Nguyên (15/10
âm lịch).
Những yếu tố về mặt xã hội cũng như văn hoá đa dạng này tạo nên nét riêng
cho cộng đồng cư dân ở Hội An.
Người Hội An vốn giàu truyền thống văn hoá lại sớm giao lưu với thế giới bên

ngoài, không biết tự bao giờ đã hình thành một bản sắc văn hoá độc đáo
riêng và được giữ gìn, bảo tồn qua bao thế hệ cho đến hôm nay. Cuộc sống
của con người nơi đây thiên về nội tâm, phảng phất nét trầm lắng. Với họ đô
thị Hội An như một mái nhà lớn cổ kính mà trong đó đang chung sống một
đại gia đình đông đúc con cháu với những người thị dân hiền hoà gần gũi và
hiếu khách; những chủ gia đình ân cần, thân thiện; những phụ nữ dịu dàng,
khéo tay, nhân hậu; những trẻ em lễ độ, ngoan ngoãn… tạo nên một cộng
đồng cư dân hoà thuận sống bình dị, êm đềm bên nhau qua bao thế hệ và cứ
như vậy tiếp nối.
Sự phong phú, đa dạng về tâm hồn giàu bản sắc văn hoá của người Hội An
còn được biểu hiện ở các món ăn truyền thống như cao lầu, hoành thánh,
bánh tổ, bánh ít gai… từ bao đời nay vẫn được lưu truyền để hôm nay thực
khách bốn phương vẫn có cơ may được thưởng thức. Cuộc sống đã bao đổi
thay qua năm tháng nhưng người Hội An không bị mất đi những điệu hò
quen thuộc, những lễ hội văn hoá đã có từ ngàn xưa, tất thảy vốn cổ ở đây
đều được trân trọng giữ gìn… Một đêm hội được tổ chức hằng tháng vào tối
14 âm lịch và đây cũng là dịp du khách khắp nơi được sống trong bầu không
khí mang đậm bản sắc truyền thống của Hội An.

Tại kỳ họp thứ 23 từ ngày 29/11 đến 4/12/1999 ở Marrakesh (Maroc), Tổ
chức Văn hoá – Khoa học – Giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ghi tên Hội
An vào danh mục các Di sản Văn hoá Thế giới.

Chùa Linh Ứng

Chùa Linh Ứng Sơn Trà được xem là cõi Phật giữa chốn trần gian. Chùa nằm
trên đỉnh núi thuộc Bãi Bụt, bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng (nhiều người gọi là

Chùa Linh Ứng Bãi Bụt hoặc là Chùa Linh Ứng Sơn Trà – vì Đà Nẵng có đến 3
Chùa Linh Ứng) hướng nhìn ra biển Đông, một bên là đảo Cù lao Chàm, phía
bên kia là ngọn Hải Vân phía còn lại là dòng sông Hàn yên ả đang đổ về cửa
biển.
Chùa Linh Ứng – Bãi Bụt sừng sững trên khu đất rộng 20 ha của núi Sơn Trà
với những hạng mục chánh điện, nhà tổ, giảng đường, tăng đường, thư viện,
nhà ăn, nhà cầu, vườn tượng các vị A-la-hán và hiện còn xây dựng công trình
chưa hoàn tất. Ngôi chùa mang một phong cách hiện đại kết hợp với tính
truyền thống vốn có của chùa chiền Việt Nam.
Ngôi chánh điện được lợp ngói mái uốn cong có hình rồng, những cột trụ to,
vững chắc bao quanh bởi những con rồng uốn lượn rất tinh xảo. Đây là một
biểu tượng truyền thống muôn đời nay của dân tộc ta. Điện chính có sức chứa
lớn, là nơi trang nghiêm và thanh tịnh nhất. Chính giữa thờ tượng Phật Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni, bên phải thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, và bên trái thờ Địa
Tạng Vương Bồ Tát, cả ba pho tượng đều được làm bằng đồng. Bốn vị Thần
Long Hộ pháp cùng 18 vị La Hán được sắp xếp thành hai hàng hai bên đường
theo một quy luật, bảo vệ cho chính điện. Mỗi vị là một hiện thân của những
cung bậc cảm xúc khác nhau “hỉ, nộ, ái, ố” của con người khiến khung cảnh ở
đây trở nên sinh động vô cùng. Đây là một trật tự mang tính quy củ và ý
nghĩa tâm linh. Du khách nào từng đặt chân đến chùa Linh Ứng đều không
khỏi trầm trồ khi chiêm ngưỡng những pho tượng La Hán được khắc họa
tinh tế, sắc cạnh nhưng không kém phần mềm mại này. Hoà thượng Thích
Thiện Nguyện cho biết sau lễ khánh thành sẽ tiếp tục xây dựng thêm tượng
Phật nhập Niết bàn dài 108m; “Tứ trọng tâm” (gồm “Vườn Lâm Tỳ Ni” khi
Phật đản sanh; “Bồ Đề đạo tràng” khi Phật thành chính quả; “Vườn Lộc uyển”
khi Phật thuyết pháp và Phật nhập Niết bàn) và giảng đường cho hàng ngàn
tăng chúng phật tử tu tập. Dự kiến sẽ kéo dài trong 4 năm nữa mới hoàn
nguyện. Đây là công trình in đậm dấu ấn phát triển của Phật giáo Việt Nam
thế kỷ 21. Điểm nổi bật của ngôi chùa này là tượng Phật Bà Quan Âm lộ thiên
tọa lạc trên ngọn đồi cao hơn 100 m, nhìn về Tổ đình Linh Ứng Ngũ Hành

Sơn.

Điểm nhấn quan trọng của Chùa Linh Ứng Bãi Bụt là tượng Phật Quán Thế
Âm được xem là cao nhất Việt Nam (67m)Tượng đứng tựa lưng vào núi mặt
hướng ra biển, một tay bắt ấn tam muội, tay kia cầm bình nước cam lộ như
rưới an bình cho những ngư dân đang vươn khơi xa, mang theo bao lời cầu
mong về một vụ mùa sóng yên biển lặng và quốc thái dân an.

Phật Quan Thế Âm Bồ Tát

Công trình hoành tráng này do điêu khắc gia Thụy Lam và điêu khắc gia Châu
Viết Thạnh thi công. Trên mão tượng Quán Thế Âm có tượng Phật Tổ cao 2m.
Có đường kính tòa sen rộng 35m. Đường kính trong lòng tượng rộng 17m,
chiều cao có 17 tầng và mỗi tầng đều có bệ thờ tổng cộng 21 bức tượng Phật
với hình dáng vẻ mặt tư thế khác nhau gọi là “Phật trung hữu Phật”. Ngoài
các cửa thông gió, tầng 17 trên cùng có cầu thang thông lên đỉnh đầu tượng.
Dưới chân đài sen của bức tượng luôn thu hút rất đông du khách và phật tử
tới lễ Phật và thưởng ngoạn nét đẹp từ bi của bức tượng có một không hai
này. Cảnh quan gian chính điện kết hợp với bức tượng Phật Quan Thế Âm tạo
nên một bức tranh toàn cảnh linh thiêng, thanh tịnh mà tao nhã như chốn
bồng lai. Từ trên các toà tháp của tượng, du khách thập phương có thể nhìn
được toàn bộ cảnh thành phố, núi rừng và biển đảo Sơn Trà một cách hoàn
hảo nhất. Phóng tầm mắt ra xa hơn, núi Ngũ Hành Sơn cùng bãi biển bao
quanh bởi bờ cát dài trắng mịn đã hiện ra tỏ tường. Sáng sớm khi nắng lên
hay lúc chiều về, bầu trời xanh trong cùng gió trời mát mẻ sẽ mang lại cho du
khách một ấn tượng tuyết vời mà hiếm nơi nào có thể có được. Về đêm, đứng
từ cổng chùa nhìn xuống du khách còn nhìn thấy một vệt sáng dài của của
ánh đèn thành phố hệt như một vệt sao băng trên bầu trời đêm, đẹp tuyệt vời.
Đặc biệt, dù đứng bất cứ ở góc nào trên quần thể này cũng có thể chiêm bái

được tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát với phong cảnh sơn thủy hiển linh,

trong lúc đang thi công tôn tượng đã có nhiều lần nhận được ánh hào quang
chiếu rọi phía sau, trên đầu tôn tượng.
• Thành Cổ Quảng Trị
Thành Cổ Quảng Trị một tòa thành nằm bên dòng sông Thạch Hãn, được biết
đến qua cuộc chiến 81 ngày đêm giữ thành đầy khốc liệt trong lịch sử dân tộc.
Ngày nay Thành Cổ là một điểm tham quan gây nhiều xúc động, đây được coi
là nghĩa trang không nấm mồ, là ngôi mộ chung của những người lính Thành
Cổ đã ngã xuống vì quê hương vì sự hòa bình thống nhất đất nước.
Phía tây Thành Cổ, song song con đường từ cửa hữu của thành ra thẳng bờ
sông Thạch Hãn ngày nay là một công viên, quảng trường rộng lớn, nối liền
quần thể di tích Thành Cổ – sông Thạch Hãn; gồm các hạng mục chính như
tháp chuông, nhà thả hoa đăng hai bên bờ sông.

Tháp chuông Thành Cổ
Tháp chuông được khánh thành vào ngày 29-4-2007; chuông được đánh vào
các ngày lễ, ngày rằm… vọng tưởng linh hồn các liệt sĩ. Quả chuông đồng có
chiều cao 3,9 mét, đường kính 2,15 mét, trọng lượng gần 9 tấn, được treo
trên tháp có chiều cao gần 10 mét.
Nhà tưởng niệm, Bến hoa đăng

Quảng trường Thành Cổ nối liền không gian giữa thành cổ với sông Thạch
Hãn. Nơi đây có nhà tưởng niệm liệt sĩ nằm ven bờ hữu ngạn sông Thạch
Hãn.

bến hoa đăng bờ Nam Thạch Hãn

Bến hoa đăng bờ Bắc, đối diện với quảng trường Thành Cổ

Sông Thạch Hãn, cũng là nơi hy sinh của không biết bao nhiêu chiến sĩ từ phía
Nhan Biều, Ái Tử vượt sông để vào Thành Cổ để tiếp tế và chiến đấu. Vào các
ngày lễ lớn hàng năm, đặc biệt vào Ngày Thương binh – Liệt sĩ (27/7), chính
quyền địa phương tổ chức lễ thả đèn, thả hoa trên sông Thạch Hãn để tưởng
niệm liệt sĩ đồng thời ở hai bên bờ sông.
Thành cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước và là
điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế. Để
hiểu rõ và trực quan hơn đến với thành cổ quảng trị du khách sẽ được hướng
dẫn thăm nhà bảo tàng nơi đây trưng bày những di vật và tái hiện lại tất cả
lịch sử về Thành Cổ Quảng Trị từ khi xây dựng đến ngày đất nước thống nhất.

Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn

Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tọa lạc trên khu đồi Bến Tắt, cạnh đường
quốc lộ 15, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách trung tâm
tỉnh lỵ (thị xã Đông Hà) khoảng 38km về phía Tây bắc; cách quốc lộ 1A (ở
đoạn thị trấn huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20km về phía Tây bắc.

Nghĩa trang liệt sĩ
quốc gia Trường Sơn

Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tọa lạc trên khu đồi Bến Tắt, cạnh đường
quốc lộ 15, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách trung tâm
tỉnh lỵ (thị xã Đông Hà) khoảng 38km về phía Tây bắc; cách quốc lộ 1A (ở
đoạn thị trấn huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20km về phía Tây bắc.

Sau ngày đất nước thống nhất, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đã phê
chuẩn dự án xây dựng nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tại địa bàn tỉnh Quảng
Trị làm nơi tưởng niệm, tôn vinh những người con thân yêu của tổ quốc đã
anh dũng hy sinh xương máu của mình trên các nẻo đường Trường Sơn vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nghĩa trang được khởi công xây dựng vào
ngày 24/10/1975 và hoàn thành vào ngày 10/4/1977. Chỉ huy xây dựng là
Bộ tư lệnh sư đoàn 559 với sự tham gia của hơn 40 đơn vị bộ đội chủ lực và
bộ đội địa phương. Ngoài ra còn có tổ công nhân chuyên khắc chữ vào bia đá
xã Hoà Hải, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.
Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi quy tụ 10.333 phần mộ của các liệt sỹ;
có tổng diện tích 140.000m2; trong đó, diện tích đất mộ là 23.000m2, khu
tượng đài 7.000m2, khu trồng cây xanh 60.000m2, khu hồ cảnh 35.000m2 và
mạng đường ô tô rải nhựa trong khuôn viên nghĩa trang 15.000m 2. Phần đất
mộ được phân thành 10 khu vực chính.
Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi an nghỉ đời đời của các chiến sĩ đã hy
sinh trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trong thời kì chống Mỹ cứu nước.
Đây là một công trình đền ơn đáp nghĩa đồ sộ nhất, quy mô nhất có tính
nghệ thuật cao, thể hiện lòng thương nhớ sâu sắc, niềm biết ơn và sự tôn
vinh thầm kín của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đối với những người

con yêu quý trên mọi miền đất nước đã không tiếc máu xương cho sự nghiệp
đấu tranh giải phóng và thống nhất đất nước.
Nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập binh đoàn Trường Sơn (19/5/1959 –
19/5/1999), Đảng và Nhà nước đã quyết định cho nâng cấp, tôn tạo lại
nghĩa trang Trường Sơn bao gồm nhiều hạng mục: Cổng vào nghĩa trang
Trường Sơn, hệ thống đường và tường bao quanh, mô hình sở chỉ huy, biểu
tượng của các địa phương, các cụm tượng, hệ thống thoát nước, điện nội bộ,
trồng cây xanh xung quanh nghĩa trang và nhà khánh tiết, đài Tổ quốc ghi
công…Đến nay tất cả các hạng mục của các công trình về cơ bản đã được

hoàn tất.
Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn ngày nay không chỉ là nơi an nghỉ của các
anh hùng liệt sỹ mà còn là nơi suy tôn, là biểu tượng sáng ngời của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần, ý chí đấu tranh giành độc lập và
khát vọng hòa bình của nhân dân ta. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn không
chỉ là nơi để các gia đình liệt sỹ, các đoàn đại biểu của Đảng và Nhà nước,
chính quyền các địa phương đến viếng thăm và thực hiện công việc đền ơn
đáp nghĩa mà còn là nơi hành hương của nhân dân khắp mọi miền đất nước
và bạn bè quốc tế theo truyền thống đạo lý cao đẹp của dân tộc Việt Nam:
uống nước nhớ nguồn.
Hiện nay, nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn có 24 cán bộ, nhân viên thường
xuyên chăm lo việc coi sóc, tu bổ và tiếp đón các gia đình liệt sỹ, các đoàn
khách trong và ngoài nước đến thăm viếng

3.

ĐÁNH GIÁ CHUYẾN ĐI DỰA VÀO KIẾN THỨC ĐÃ HỌC:

Lý thuyết học tại trường giúp cho sinh viên có cái nhìn tổng quang, cơ bản
về văn hóa, con người, các phong tục tập quán của con người nơi đây.
Chuyến tham quan thực tế giúp cho sinh viên có cái sát thực hơn.
Đánh giá tổng quan về chuyến đi
Chuyến đi nhìn chung là tốt, an toàn, các hoạt động ăn uống, tham quan
tốt, sinh viên đều được giữ sức khỏe, vui vẻ và thu được nhiều kiến thức và
thông tin thực tế bổ ích. Chuyến đi dù thời gian ngắn nhưng đã tham quan
được nhiều nơi, đem đến cảm giác thú vị và nhiều kỉ niệm đẹp.

1.3. Lịch trình chuyến tham quan thực tế : Ngày 1 : Thành Phố Hà Nội – Tp HuếNgày 2 : Tp HuếNgày 3-4 : Huế – Thành Phố Đà Nẵng – Hội AnNgày 5 : TP. Đà Nẵng – Quảng BìnhNgày 6 : Quảng Bình – Hà Nội2. CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN ĐI : Nhìn chung chuyến đi mang lại nhiều kiến thức và kỹ năng có ích, rất thiết thực, hoạtđộng tổ chức triển khai tốt, tuyến điểm mê hoặc, hoạt động giải trí đi dạo nhà hàng siêu thị và nghỉngơi tương đối hợp lý. 2.1 Hoạt động tổ chức triển khai – Công tác chuẩn bị sẵn sàng tốt : phương tiện đi lại luân chuyển bảo vệ sự bảo đảm an toàn, rộngrãi, những đồ dung, thực phẩm khá đầy đủ – Công tác quản lý và điều hành tốt : khoa học, nhiệt tình, hào hứng trong chuyến thamquan, thời hạn được sắp xếp hài hòa và hợp lý. 2.2. Các điểm tham quan : Huế – di sản văn hóa truyền thống thế giớiTrong gần 400 năm ( 1558 – 1945 ), Huế đã từng là Thủ phủ của 9 đời chúaNguyễn ở Đàng Trong, là Kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến Kinh đô củaquốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn. Cố đô Huế thời nay vẫn cònlưu giữ trong lòng những di sản văn hóa truyền thống vật thể và phi vật thể chứa đựngnhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc bản địa Nước Ta. Suốtmấy thế kỷ, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc quy tụ về đây hunđúc cho một nền văn hóa truyền thống đậm đà truyền thống để hoàn hảo cho một bức cảnhthiên nhiên tuyệt vời sẵn bày sông núi hữu tình thơ mộng. Bởi vậy, nói đếnHuế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, hoàng cung vàng son, nhữngđền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tựtrầm tư u tịch, những thắng tích vạn vật thiên nhiên thợ trời khéo tạc … Ngọ Môn nhìn từ điện Thái HòaTrên nền tảng vật chất và niềm tin đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỷXIV ( khi vua Chăm là Chế Mân dâng hai Châu Ô, Rí cho nhà Trần để làm sínhlễ cưới công chúa Huyền Trân ), những chúa Nguyễn ( thế kỷ XVI-XVIII ), triều đạiTây Sơn ( cuối thế kỷ XVIII ) và 13 đời vua Nguyễn ( 1802 – 1945 ) đã tiếp tụcphát huy và kiến thiết xây dựng ở vùng Huế một gia tài văn hóa truyền thống vô giá. Tiêu biểu nhấtlà Quần thể di tích lịch sử của Cố đô đã được sánh ngang hàng với những kỳ quan hằngngàn năm tuổi của trái đất trong hạng mục Di sản Văn hóa quốc tế củaUNESCO. Nằm giữa lòng Huế, bên bờ Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy xuyênqua từ Tây sang Đông, mạng lưới hệ thống kiến trúc biểu lộ cho quyền uy của chế độtrung ương tập quyền Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao dịch chuyển củathời gian. Đó là Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế, ba tòathành lồng vào nhau được sắp xếp đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từmặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ởđây là một mẫu mực của sự tích hợp hài hòanhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông vàTây, được đặt trong một khung cảnh vạn vật thiên nhiên kỳ tú với nhiều yếu tố biểutượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phậncủa Kinh thành Huế – đó là núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh … Nhìn từ phía ngược lại, những khu công trình kiến trúc ở đâynhư hòa lẫn vào vạn vật thiên nhiên tạo nên những tiết tấu diệu kỳ khiến người taquên mất bàn tay con người đã tác động ảnh hưởng lên nó. Hoàng thành số lượng giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông vớimỗi chiều giao động 600 m với 4 cổng ra vào mà độc lạ nhất thườngđược lấy làm hình tượng của Cố đô : Ngọ Môn, chính là khu vực hànhchính tối cao của triều đình Nguyễn. Bên trong Hoàng thành, hơi dịchvề phía sau, là Tử cấm thành – nơi ăn ở hoạt động và sinh hoạt của Hoàng gia. Xuyên suốt cả ba tòa thành, khi thì lát đá đơn cử khi thì mang tínhước lệ, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mìnhnhững khu công trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế : NghinhLương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung … Hai bên đường Thần đạonày là hàng trăm khu công trình kiến trúc lớn nhỏ sắp xếp cân đối đều đặn, đan xencây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu vạn vật thiên nhiên, luôn tạocho con người một cảm xúc nhẹ nhàng thanh thản. Xa xa về phía Tây của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm của những vua Nguyễn được xem là những thành tựu của nềnkiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua nhiều lúc lại là một cõi thiên đườngtạo ra cho gia chủ hưởng thú tiêu dao lúc còn sống, rồi sau đó mớitrở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào quốc tế bên kia. Hàm nghĩanhư vậy nên kiến trúc lăng tẩm ở đây mang một phong thái hoàntoàn riêng không liên quan gì đến nhau của Nước Ta. Mỗi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc sống và tính cách của vị chủ nhânđang yên nghỉ : lăng Gia Long mộc mạc nhưng hoành tráng giữa núi rừngtrùng điệp khiến người xem cảm nhận được hùng khí của một chiến tướngtừng trải trăm trận ; lăng Minh Mạng uy nghi bình chỉnh đăng đối giữa rừngnúi hồ ao được tôn tạo khôn khéo, hẳn hoàn toàn có thể thấy được hùng tâm đại chí củamột chính trị gia có tài và tính cách trang nghiêm của một nhà thơ quy củ ; lăng Thiệu Trị thâm nghiêm, vừa thâm trầm u uẩn giữ chốn đồng khôngquạnh quẽ, cũng bộc lộ phần nào tâm sự của một nhà thơ siêu việt trên vănđàn tuy nhiên không nối được chí tiền nhân trong chính sự ; lăng Tự Đức thơ mộngtrữ tình được tạo nên hầu hết bằng sự tinh xảo của con người, cảnh sắc nơiđây gợi cho hành khách hình ảnh của một tao nhân mang nặng nỗi niềm trắc ẩnbởi tận tâm của một nhà vua không thực thi được qua tính cách yếu ớtcủa một nhà thơ … Phố cổ Hội An : Hội An là một thị xã cổ của người Việt, nằm ở vùng hạ lưu ngã ba sông ThuBồn thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, cách thành phố ĐàNẵng khoảng chừng 30 km về phía nam. Hội An từng được biết đến trên thươngtrường quốc tế với nhiều tên gọi khác nhau như Lâm Ấp, Faifo, Hoài Phố vàHội An. Là một kiểu cảng thị truyền thống cuội nguồn Khu vực Đông Nam Á duy nhất ở Nước Ta, hiếm cótrên quốc tế, Hội An giữ được gần như nguyên vẹn hơn một nghìn di tích lịch sử kiếntrúc như phố xá, nhà cửa, hội quán, đình, chùa, miếu, nhà thời thánh tộc, giếng cổ, mộ cổ … Các kiến trúc vừa có sắc thái nghệ thuật và thẩm mỹ truyền thống lịch sử của Nước Ta, vừa bộc lộ sự giao lưu hội nhập văn hoá với những nước phương Đông vàphương Tây. Trải qua nhiều thế kỷ, những phong tục tập quán, nghi lễ, sinhhoạt văn hoá, tín ngưỡng cũng như những món ăn truyền thống lịch sử vẫn lưu giữ, bảotồn cùng với bao thế hệ người dân phố cổ. Hội An còn có một môi trườngthiên nhiên trong lành, êm ả dịu dàng với những làng nhỏ ngoại ô xinh xắn, có nghềthủ công như mộc, làm đồ đồng, gốm … Các nhà nghiên cứu cho rằng kiến trúc cổ ở Hội An hầu hết được làm lại mớitừ đầu thế kỷ 19, mặc dầu năm khởi dựng hoàn toàn có thể xưa hơn nhiều. Kiến trúc cổthể hiện rõ nhất ở thành phố cổ. Nằm trọn trong địa phận của phường Minh An, Khu phố cổ có diện tích quy hoạnh khoảng chừng 2 km², tập trung chuyên sâu phần nhiều những di tích lịch sử nổi tiếngở Hội An. Đường phố ở thành phố cổ ngắn và hẹp, có độ uốn lượn, chạy ngangdọc theo kiểu bàn cờ. Địa hình thành phố cổ có dạng nghiêng dần từ bắc xuốngnam. Các khu công trình kiến trúc trong thành phố cổ được thiết kế xây dựng hầu hết bằngvật liệu truyền thống cuội nguồn : gạch, gỗ và không có nhà quá hai tầng. Du khách dễnhận ra dấu vết thời hạn không chỉ ở mẫu mã kiến trúc của mỗi công trìnhmà có ở mọi nơi : trên những mái nhà lợp ngói âm khí và dương khí phủ kín rêu phongvà cây cối ; những mảng tường xám mốc, xưa cũ ; những bức chạm khắc về mộtcon vật lạ hay diễn đạt một câu truyện cổ … Nơi đây hẳn đã lôi cuốn được cácnghệ nhân tài hoa về nghề mộc, nề, gốm sứ của người Hoa, người Nhật, người Việt, người Chăm … cho nên vì thế mỗi khu công trình để lại ngày hôm nay còn in dấuấn văn hoá khá phong phú, đa dạng và phong phú của nhiều dân tộc bản địa. Trong nhiều thế kỷ, Hội An đã từng là nơi gặp gỡ, giao lưu của nhiều nền vănhoá khác nhau trên quốc tế. Bên cạnh những phong tục tập quán địa phương củangười Việt còn có thêm những tập tục của cộng đồng cư dân quốc tế đếnđịnh cư như tục thờ đá ; thờ Cá Ông của dân cư ven biển Trung bộ ; thờ cáchiện tượng tự nhiên như mưa, gió, sấm, sét hay vật thiêng ( cây cổ thụ ), … Cộng đồng người Hoa ở Hội An có tục thờ những vị thần bảo trợ như Thiên Hậu, Quan Công, Bảo Sinh Đại Đế, Quan Âm Bồ Tát. Họ liên tục tổ chức triển khai cáckỳ tiệc tùng hay hoạt động và sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng khác trong những ngày vía thần nhưtết Nguyên Tiêu ( 16/1 âm lịch ), Thanh Minh ( tháng 3 âm lịch ), Đoan Ngọ ( 5/5 âm lịch ), Trung Thu ( 15/8 ), Trùng Cửu ( 9/9 âm lịch ), Hạ Nguyên ( 15/10 âm lịch ). Những yếu tố về mặt xã hội cũng như văn hoá phong phú này tạo nên nét riêngcho cộng đồng cư dân ở Hội An. Người Hội An vốn giàu truyền thống lịch sử văn hoá lại sớm giao lưu với quốc tế bênngoài, không biết tự khi nào đã hình thành một truyền thống văn hoá độc đáoriêng và được giữ gìn, bảo tồn qua bao thế hệ cho đến thời điểm ngày hôm nay. Cuộc sốngcủa con người nơi đây thiên về nội tâm, phảng phất nét ngưng trệ. Với họ đôthị Hội An như một mái nhà lớn cổ kính mà trong đó đang chung sống mộtđại mái ấm gia đình đông đúc con cháu với những người thị dân hiền hoà thân mật vàhiếu khách ; những chủ mái ấm gia đình ân cần, thân thiện ; những phụ nữ êm ả dịu dàng, khéo tay, nhân hậu ; những trẻ nhỏ lễ độ, ngoan ngoãn … tạo nên một cộngđồng dân cư hoà thuận sống bình dị, êm đềm bên nhau qua bao thế hệ và cứnhư vậy tiếp nối. Sự nhiều mẫu mã, phong phú về tâm hồn giàu truyền thống văn hoá của người Hội Ancòn được bộc lộ ở những món ăn truyền thống lịch sử như cao lầu, hoành thánh, bánh tổ, bánh ít gai … từ bao đời nay vẫn được lưu truyền để thời điểm ngày hôm nay thựckhách bốn phương vẫn có cơ may được chiêm ngưỡng và thưởng thức. Cuộc sống đã bao đổithay qua năm tháng nhưng người Hội An không bị mất đi những điệu hòquen thuộc, những tiệc tùng văn hoá đã có từ ngàn xưa, tất thảy vốn cổ ở đâyđều được trân trọng giữ gìn … Một đêm hội được tổ chức triển khai hằng tháng vào tối14 âm lịch và đây cũng là dịp hành khách khắp nơi được sống trong bầu khôngkhí mang đậm truyền thống truyền thống lịch sử của Hội An. Tại kỳ họp thứ 23 từ ngày 29/11 đến 4/12/1999 ở Marrakesh ( Maroc ), Tổchức Văn hoá – Khoa học – Giáo dục Liên hiệp quốc ( UNESCO ) đã ghi tên HộiAn vào hạng mục những Di sản Văn hoá Thế giới. Chùa Linh ỨngChùa Linh Ứng Sơn Trà được xem là cõi Phật giữa chốn trần gian. Chùa nằmtrên đỉnh núi thuộc Bãi Bụt, bán đảo Sơn Trà, TP. Đà Nẵng ( nhiều người gọi làChùa Linh Ứng Bãi Bụt hoặc là Chùa Linh Ứng Sơn Trà – vì TP. Đà Nẵng có đến 3C hùa Linh Ứng ) hướng nhìn ra biển Đông, một bên là hòn đảo Cù lao Chàm, phíabên kia là ngọn Hải Vân phía còn lại là dòng sông Hàn yên ả đang đổ về cửabiển. Chùa Linh Ứng – Bãi Bụt sừng sững trên khu đất rộng 20 ha của núi Sơn Tràvới những khuôn khổ chánh điện, nhà tổ, giảng đường, tăng đường, thư viện, nhà ăn, nhà cầu, vườn tượng những vị A-la-hán và hiện còn kiến thiết xây dựng công trìnhchưa hoàn tất. Ngôi chùa mang một phong thái tân tiến tích hợp với tínhtruyền thống vốn có của chùa chiền Nước Ta. Ngôi chánh điện được lợp ngói mái uốn cong có hình rồng, những cột trụ to, vững chãi bao quanh bởi những con rồng uốn lượn rất tinh xảo. Đây là mộtbiểu tượng truyền thống cuội nguồn muôn đời nay của dân tộc bản địa ta. Điện chính có sức chứalớn, là nơi trang nghiêm và thanh tịnh nhất. Chính giữa thờ tượng Phật BổnSư Thích Ca Mâu Ni, bên phải thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, và bên trái thờ ĐịaTạng Vương Bồ Tát, cả ba pho tượng đều được làm bằng đồng. Bốn vị ThầnLong Hộ pháp cùng 18 vị La Hán được sắp xếp thành hai hàng hai bên đườngtheo một quy luật, bảo vệ cho chính điện. Mỗi vị là một hiện thân của nhữngcung bậc cảm hứng khác nhau ” hỉ, nộ, ái, ố ” của con người khiến khung cảnh ởđây trở nên sinh động vô cùng. Đây là một trật tự mang tính quy củ và ýnghĩa tâm linh. Du khách nào từng đặt chân đến chùa Linh Ứng đều khôngkhỏi trầm trồ khi chiêm ngưỡng và thưởng thức những pho tượng La Hán được khắc họatinh tế, sắc cạnh nhưng không kém phần mềm mại này. Hoà thượng ThíchThiện Nguyện cho biết sau lễ khánh thành sẽ liên tục thiết kế xây dựng thêm tượngPhật nhập Niết bàn dài 108 m ; ” Tứ trọng tâm ” ( gồm ” Vườn Lâm Tỳ Ni ” khiPhật đản sanh ; ” Bồ Đề đạo tràng ” khi Phật thành chính quả ; ” Vườn Lộc uyển ” khi Phật thuyết pháp và Phật nhập Niết bàn ) và giảng đường cho hàng ngàntăng chúng phật tử tu tập. Dự kiến sẽ lê dài trong 4 năm nữa mới hoànnguyện. Đây là khu công trình in đậm dấu ấn tăng trưởng của Phật giáo Việt Namthế kỷ 21. Điểm điển hình nổi bật của ngôi chùa này là tượng Phật Bà Quan Âm lộ thiêntọa lạc trên ngọn đồi cao hơn 100 m, nhìn về Tổ đình Linh Ứng Ngũ HànhSơn. Điểm nhấn quan trọng của Chùa Linh Ứng Bãi Bụt là tượng Phật Quán ThếÂm được xem là cao nhất Nước Ta ( 67 m ) Tượng đứng tựa sống lưng vào núi mặthướng ra biển, một tay bắt ấn tam muội, tay kia cầm bình nước cam lộ nhưrưới an bình cho những ngư dân đang vươn khơi xa, mang theo bao lời cầumong về một vụ mùa sóng yên biển lặng và quốc thái dân an. Phật Quan Thế Âm Bồ TátCông trình hoành tráng này do điêu khắc gia Thụy Lam và điêu khắc gia ChâuViết Thạnh thiết kế. Trên mão tượng Quán Thế Âm có tượng Phật Tổ cao 2 m. Có đường kính tòa sen rộng 35 m. Đường kính trong lòng tượng rộng 17 m, chiều cao có 17 tầng và mỗi tầng đều có bệ thờ tổng số 21 bức tượng Phậtvới hình dáng vẻ mặt tư thế khác nhau gọi là ” Phật trung hữu Phật “. Ngoàicác cửa thông gió, tầng 17 trên cùng có cầu thang thông lên đỉnh đầu tượng. Dưới chân đài sen của bức tượng luôn lôi cuốn rất đông du khách và phật tửtới lễ Phật và thưởng ngoạn nét đẹp từ bi của bức tượng có một không hainày. Cảnh quan gian chính điện phối hợp với bức tượng Phật Quan Thế Âm tạonên một bức tranh toàn cảnh rất linh, thanh tịnh mà thanh nhã như chốnbồng lai. Từ trên những toà tháp của tượng, hành khách thập phương hoàn toàn có thể nhìnđược hàng loạt cảnh thành phố, núi rừng và biển hòn đảo Sơn Trà một cách hoànhảo nhất. Phóng tầm mắt ra xa hơn, núi Ngũ Hành Sơn cùng bãi biển baoquanh bởi bờ cát dài trắng mịn đã hiện ra tỏ tường. Sáng sớm khi nắng lênhay lúc chiều về, khung trời xanh trong cùng gió trời thoáng mát sẽ mang lại cho dukhách một ấn tượng tuyết vời mà hiếm nơi nào hoàn toàn có thể có được. Về đêm, đứngtừ cổng chùa nhìn xuống hành khách còn nhìn thấy một vệt sáng dài của củaánh đèn thành phố hệt như một vệt sao băng trên khung trời đêm, đẹp tuyệt vời. Đặc biệt, dù đứng bất kỳ ở góc nào trên quần thể này cũng hoàn toàn có thể chiêm báiđược tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát với cảnh sắc sơn thủy hiển linh, trong lúc đang thi công tôn tượng đã có nhiều lần nhận được ánh hào quangchiếu rọi phía sau, trên đầu tôn tượng. • Thành Cổ Quảng TrịThành Cổ Quảng Trị một tòa thành nằm bên dòng sông Thạch Hãn, được biếtđến qua đại chiến 81 ngày đêm giữ thành đầy quyết liệt trong lịch sử vẻ vang dân tộc bản địa. Ngày nay Thành Cổ là một điểm tham quan gây nhiều xúc động, đây được coilà nghĩa trang không nấm mồ, là ngôi mộ chung của những người lính ThànhCổ đã ngã xuống vì quê nhà vì sự tự do thống nhất quốc gia. Phía tây Thành Cổ, song song con đường từ cửa hữu của thành ra thẳng bờsông Thạch Hãn thời nay là một khu vui chơi giải trí công viên, trung tâm vui chơi quảng trường to lớn, nối liềnquần thể di tích lịch sử Thành Cổ – sông Thạch Hãn ; gồm những khuôn khổ chính nhưtháp chuông, nhà thả hoa đăng hai bên bờ sông. Tháp chuông Thành CổTháp chuông được khánh thành vào ngày 29-4-2007 ; chuông được đánh vàocác đợt nghỉ lễ, ngày rằm … vọng tưởng linh hồn những liệt sĩ. Quả chuông đồng cóchiều cao 3,9 mét, đường kính 2,15 mét, khối lượng gần 9 tấn, được treotrên tháp có chiều cao gần 10 mét. Nhà tưởng niệm, Bến hoa đăngQuảng trường Thành Cổ thông suốt khoảng trống giữa thành cổ với sông ThạchHãn. Nơi đây có nhà tưởng niệm liệt sĩ nằm ven bờ hữu ngạn sông ThạchHãn. bến hoa đăng bờ Nam Thạch HãnBến hoa đăng bờ Bắc, đối lập với quảng trường Thành CổSông Thạch Hãn, cũng là nơi quyết tử của không biết bao nhiêu chiến sỹ từ phíaNhan Biều, Ái Tử vượt sông để vào Thành Cổ để tiếp tế và chiến đấu. Vào cácngày lễ lớn hàng năm, đặc biệt quan trọng vào Ngày Thương binh – Liệt sĩ ( 27/7 ), chínhquyền địa phương tổ chức triển khai lễ thả đèn, thả hoa trên sông Thạch Hãn để tưởngniệm liệt sĩ đồng thời ở hai bên bờ sông. Thành cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống cuội nguồn yêu nước và làđiểm lôi cuốn mê hoặc khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế. Đểhiểu rõ và trực quan hơn đến với thành cổ quảng trị hành khách sẽ được hướngdẫn thăm nhà kho lưu trữ bảo tàng nơi đây tọa lạc những di vật và tái hiện lại tất cảlịch sử về Thành Cổ Quảng Trị từ khi kiến thiết xây dựng đến ngày quốc gia thống nhất. Nghĩa trang liệt sỹ Trường SơnNghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tọa lạc trên khu đồi Bến Tắt, cạnh đườngquốc lộ 15, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh ; cách trung tâmtỉnh lỵ ( thị xã Đông Hà ) khoảng chừng 38 km về phía Tây bắc ; cách quốc lộ 1A ( ởđoạn thị xã huyện lỵ Gio Linh ) chừng hơn 20 km về phía Tây bắc. Nghĩa trang liệt sĩquốc gia Trường SơnNghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tọa lạc trên khu đồi Bến Tắt, cạnh đườngquốc lộ 15, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh ; cách trung tâmtỉnh lỵ ( thị xã Đông Hà ) khoảng chừng 38 km về phía Tây bắc ; cách quốc lộ 1A ( ởđoạn thị xã huyện lỵ Gio Linh ) chừng hơn 20 km về phía Tây bắc. Sau ngày quốc gia thống nhất, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đã phêchuẩn dự án Bất Động Sản thiết kế xây dựng nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tại địa phận tỉnh QuảngTrị làm nơi tưởng niệm, tôn vinh những người con thân yêu của tổ quốc đãanh dũng quyết tử xương máu của mình trên những nẻo đường Trường Sơn vìsự nghiệp giải phóng dân tộc bản địa. Nghĩa trang được thi công thiết kế xây dựng vàongày 24/10/1975 và hoàn thành xong vào ngày 10/4/1977. Chỉ huy thiết kế xây dựng làBộ tư lệnh sư đoàn 559 với sự tham gia của hơn 40 đơn vị chức năng bộ đội nòng cốt vàbộ đội địa phương. Ngoài ra còn có tổ công nhân chuyên khắc chữ vào bia đáxã Hoà Hải, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi quy tụ 10.333 phần mộ của những liệt sỹ ; có tổng diện tích quy hoạnh 140.000 mét vuông ; trong đó, diện tích quy hoạnh đất mộ là 23.000 mét vuông, khutượng đài 7.000 mét vuông, khu trồng cây xanh 60.000 mét vuông, khu hồ cảnh 35.000 mét vuông vàmạng đường xe hơi rải nhựa trong khuôn viên nghĩa trang 15.000 m 2. Phần đấtmộ được phân thành 10 khu vực chính. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi an nghỉ đời đời của những chiến sỹ đã hysinh trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trong thời kì chống Mỹ cứu nước. Đây là một khu công trình đền ơn đáp nghĩa đồ sộ nhất, quy mô nhất có tínhnghệ thuật cao, bộc lộ lòng thương nhớ thâm thúy, niềm biết ơn và sự tônvinh thầm kín của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta so với những ngườicon yêu quý trên mọi miền quốc gia đã không tiếc máu xương cho sự nghiệpđấu tranh giải phóng và thống nhất quốc gia. Nhân kỷ niệm 40 năm ngày xây dựng quân đoàn Trường Sơn ( 19/5/1959 – 19/5/1999 ), Đảng và Nhà nước đã quyết định hành động cho tăng cấp, tôn tạo lạinghĩa trang Trường Sơn gồm có nhiều khuôn khổ : Cổng vào nghĩa trangTrường Sơn, mạng lưới hệ thống đường và tường bao quanh, quy mô sở chỉ huy, biểutượng của những địa phương, những cụm tượng, mạng lưới hệ thống thoát nước, điện nội bộ, trồng cây xanh xung quanh nghĩa trang và nhà khánh tiết, đài Tổ quốc ghicông … Đến nay toàn bộ những khuôn khổ của những khu công trình về cơ bản đã đượchoàn tất. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn ngày này không chỉ là nơi an nghỉ của cácanh hùng liệt sỹ mà còn là nơi suy tôn, là hình tượng sáng ngời của chủnghĩa anh hùng cách mạng, của ý thức, ý chí đấu tranh giành độc lập vàkhát vọng tự do của nhân dân ta. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn khôngchỉ là nơi để những mái ấm gia đình liệt sỹ, những đoàn đại biểu của Đảng và Nhà nước, chính quyền sở tại những địa phương đến viếng thăm và thực thi việc làm đền ơnđáp nghĩa mà còn là nơi hành hương của nhân dân khắp mọi miền đất nướcvà bạn hữu quốc tế theo truyền thống lịch sử đạo lý cao đẹp của dân tộc bản địa Nước Ta : uống nước nhớ nguồn. Hiện nay, nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn có 24 cán bộ, nhân viên cấp dưới thườngxuyên chăm sóc việc coi sóc, trùng tu và tiếp đón những mái ấm gia đình liệt sỹ, những đoànkhách trong và ngoài nước đến thăm viếng3. ĐÁNH GIÁ CHUYẾN ĐI DỰA VÀO KIẾN THỨC ĐÃ HỌC : Lý thuyết học tại trường giúp cho sinh viên có cái nhìn tổng quang, cơ bảnvề văn hóa truyền thống, con người, những phong tục tập quán của con người nơi đây. Chuyến tham quan thực tế giúp cho sinh viên có cái sát thực hơn. Đánh giá tổng quan về chuyến điChuyến đi nhìn chung là tốt, bảo đảm an toàn, những hoạt động giải trí siêu thị nhà hàng, tham quantốt, sinh viên đều được giữ sức khỏe thể chất, vui tươi và thu được nhiều kiến thức và kỹ năng vàthông tin thực tế hữu dụng. Chuyến đi dù thời hạn ngắn nhưng đã tham quanđược nhiều nơi, đem đến cảm xúc mê hoặc và nhiều kỉ niệm đẹp .

Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn