Bài báo cáo chuyến đi thực tế đà nẵng – Tài liệu text

Bài báo cáo chuyến đi thực tế đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 30 trang )

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tiên cho phép em được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới nhà trường và khoa
Văn hóa Thông tin & Xã hội đã tạo điều kiện cho chúng em được tham gia
chuyến đi thực tế tại các tỉnh miền Trung ngày 27-5-2017 vừa rồi.
Đặc biệt là cô Trần Thị Phương Thúy và thầy Nghiêm Xuân Mừng đã
luôn đồng hành cùng đoàn chúng em trong suốt chuyến đi. Không chỉ dẫn đoàn
mà các thầy cô còn chỉ bảo tận tình, hướng dẫn chúng em khi đến từng di tích
cũng như các địa điểm khảo sát…
Chuyến đi khảo sát thực địa đã đem lại cho chúng em rất nhiều điều bổ
ích và thuận lợi. Không chỉ được vui chơi, gắn bó với nhau mà còn được học hỏi
nhiều điều hay, kinh nghiệm thực tế trong đời sống và kinh nghiệm công việc
tương lai. Khảo sát thực tế là một cách học hoàn toàn mới mẻ và hữu ích cho
sinh viên. Không chỉ học lý thuyết ở trên lớp mà sự kết hợp những buổi thực
hành đã giúp chúng em hiểu rõ hơn bài học, công việc mình phải làm những gì.
Thật may mắn khi chúng em được học tập tại trường Đại học Nội Vụ Hà
Nội và đặc biệt là khoa Văn hóa Thông tin & Xã hội. Em vô cùng cảm kích
trước những điều mà nhà trường hay các thầy cô đã dành cho chúng em. Được
học tại nơi đây, em đã trưởng thành hơn trong cuộc sống.
Em xin trân thành cảm ơn!
SINH VIÊN
Dương Ngọc Anh

2

BÀI BÁO CÁO CHUYẾN ĐI THỰC TẾ ĐÀ NẴNG – QUẢNG
NAM – HUẾ – QUẢNG TRỊ – QUẢNG BÌNH
(27/05/2017 – 01/06/2017)

PHẦN 1: LỊCH TRÌNH THỰC TẾ

Ngày

Thời gian

Lịch trình

27/05

20h05

Xuất phát từ Hà Nội đến
Đà Nẵng

11h30

Ăn trưa tại Đà Nẵng

13h30

Nhận khách sạn

14h30

Thăm quan bảo tàng
Chăm

28/05

29/05

16h

Tắm biển Mỹ Khê

18h

Về khách sạn

20h

Ăn tối tại chân Cầu Rồng

7h30

Ăn sáng tại khách sạn

8h

11h30
3

Giao lưu với trường ĐH
Nội Vụ cs miền trung

Ăn trưa tại nhà hàng

30/05

7h30

Ăn sáng tại khách sạn

8h30

Đi chùa Linh Ứng và chợ
Hàn

11h30

Ăn cơm tại nhà hàng và
di chuyển đến Huế

14h30

Thăm quan Lăng Khải
Định

20h30

Nghe ca Huế trên sông
Hương

7h30

Ăn bún bò Huế, đi Đại
Nội Huế

11h30

Ăn trưa tại nhà hàng

31/05

01/06

15h

Đi chùa Thiên Mụ

20h

Đi chơi quanh
Trường Tiền

5h30

Thăm quan thành cổ
Quảng Trị

11h30

Ăn cơm trưa tại nhà hàng

14h30

Viếng mộ Đại tướng Võ
Nguyên Giáp

4

cầu

22h

5

Về đến Hà Nội

PHẦN 2: KHẢO SÁT, MÔ TẢ, ĐÁNH GIÁ CÁC DI TÍCH, DI
SẢN VĂN HÓA TRONG CHUYẾN KHẢO SÁT THỰC TẾ
1, Hội An – Quảng Nam

Xếp hạng: Là loại hình Di sản văn hóa Thế giới
Với những giá trị nổi bật, tại kỳ họp lần thứ 23 cuối năm 1999 (ngày 4
tháng 12), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)
đã công nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn hóa thế giới, dựa trên hai tiêu
chí:

Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các
thời kỳ trong một thương cảng quốc tế.

Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống được
bảo tồn một cách hoàn hảo.
Hội An là một thành phố trực thuộc tỉnh, được thành lập ngày 29 tháng 1
năm 2008 theo Nghị định số 10/2008/NĐ-CP [1] của Chính phủ Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Hội An hiện nay đã được công nhận là đô thị loại II, trực
thuộc tỉnh Quảng Nam.
Tại Hội An có Phố cổ Hội An với những di sản kiến trúc đã có từ hàng
trăm năm trước, được công nhận là di sản văn hóa của UNESCO từ năm 1999.
Về địa lý giáp với biển Đông, giáp 2 thị xã Điện Bản và huyện Duy
Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam
Hiện nay chính quyền sở tại đang tích cực khôi phục các di tích, đồng thời
phát triển thành một thành phố du lịch.
Với lịch sử phát triển lâu dài của mình, các cư dân sinh sống ở Hội An đã
dần dần phát triển những ngành nghề đa dạng như nghề mộc, làm gốm mỹ nghệ,
trồng rau, nghề thuốc, làm lồng đèn…. để phục vụ nhu cầu đời sống của mình,
đồng thời cũng làm nên sự phồn thịnh, tấp nập cho cảng thị Hội An từ thế kỷ VII
– cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19.

6

Nổi tiếng nhất tại đây là Phố cổ Hội An
Phố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng
đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Việt Nam, cách thành phố Đà Nẵng
khoảng 30 km về phía Nam. Nhờ những yếu tố địa lý và khí hậu thuận lợi, Hội
An từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyền
buôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ 17 và 18. Trước
thời kỳ này, nơi đây cũng từng có những dấu tích của thương cảng Chăm Pa hay
được nhắc đến cùng con đường tơ lụa trên biển. Thế kỷ 19, do giao thông đường

thủy ở đây không còn thuận tiện, cảng thị Hội An dần suy thoái, nhường chỗ cho
Đà Nẵng khi đó đang được người Pháp xây dựng. Hội An may mắn không bị tàn
phá trong hai cuộc chiến tranh và tránh được quá trình đô thị hóa ồ ạt cuối thế kỷ
20. Bắt đầu từ thập niên 1980, những giá trị kiến trúc và văn hóa của phố cổ Hội
An dần được giới học giả và cả du khách chú ý, khiến nơi đây trở thành một
trong những điểm du lịch hấp dẫn của Việt Nam.
 Hiện trạng khu di tích
Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền
thống ở Đông Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn những
ngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ 17 đến thế
kỷ 19, phần bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Nằm xen kẽ giữa các ngôi nhà
phố, những công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng minh chứng cho quá trình
hình thành, phát triển và cả suy tàn của đô thị. Hội An cũng là vùng đất ghi
nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao thoa văn hóa. Các hội quán, đền miếu mang
dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà phố truyền thống của người
Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp. Bên cạnh những giá trị
văn hóa qua các công trình kiến trúc, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa phi
vật thể đa dạng và phong phú. Cuộc sống thường nhật của cư dân phố cổ với
những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn
hóa vẫn đang được bảo tồn và phát triển. Hội An được xem như một bảo tàng
sống về kiến trúc và lối sống đô thị.

7

Khu phố cổ nằm trọn trong phường Minh An, diện tích khoảng 2 km², với
những con đường ngắn và hẹp, có đoạn uốn lượn, chạy dọc ngang theo kiểu bàn
cờ. Nằm sát với bờ sông là đường Bạch Đằng, tiếp đó tới đường Nguyễn Thái
Học rồi đường Trần Phú nối liền với Nguyễn Thị Minh Khai bởi Chùa Cầu. Do
địa hình khu phố nghiêng dần từ Bắc xuống Nam, các con đường ngang Nguyễn

Huệ, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ và Trần Quý Cáp hơi dốc dần lên nếu đi ngược
vào phía sâu trong thành phố. Đường Trần Phú xưa kia là con đường chính của
thị trấn, nối từ Chùa Cầu tới Hội quán Triều Châu. Vào thời Pháp thuộc, đường
này được mang tên Rue du Pont Japonnais, tức Phố cầu Nhật Bản. Ngày nay,
đường Trần Phú rộng khoảng 5 mét với nhiều ngôi nhà không có phần hiên, kết
quả của lần mở rộng khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Hai con đường
Nguyễn Thái Học và Bạch Đằng hình thành muộn hơn, đều do bùn đất bồi lấp.
Đường Nguyễn Thái Học xuất hiện năm 1840, sau đó được người Pháp đặt tên
là Rue Cantonnais, tức Phố người Quảng Đông. Đường Bạch Đằng ra đời năm
1878, nằm sát bờ sông nên xưa kia từng có tên gọi là Đường Bờ Sông. Nằm sâu
về phía thành phố, tiếp theo đường Trần Phú là đường Phan Chu Trinh, con
đường mới được xây dựng thêm vào khoảng thời gian sau này. Trong khu phố
cổ còn nhiều đường hẻm khác nằm vuông góc với đường chính kéo dài ra đến
tận bờ sông.
Đường Trần Phú là con đường chính, nơi tập trung nhiều nhất những công
trình kiến trúc quan trọng, cũng như những ngôi nhà cổ điển hình cho kiến trúc
Hội An. Nổi bật nhất trong số này là các hội quán do người Hoa xây dựng để
tưởng nhớ đến quê hương của họ. Nếu bắt đầu từ Chùa Cầu, sẽ thấy năm hội
quán trên đường Trần Phú, tất cả đều bên số chẵn: Hội quán Quảng Đông, Hội
quán Trung Hoa, Hội quán Phúc Kiến, Hội quán Quỳnh Phủ và Hội quán Triều
Châu. Ở góc đường Trần Phú và Nguyễn Huệ là miếu Quan Công, di tích đặc
trưng cho kiến trúc đền miếu của người Minh Hương ở Việt Nam. Ngay sát
miếu về phía Bắc, có thể thấy Bảo tàng Lịch sử – Văn hóa Hội An, nguyên trước
đây là ngôi chùa Quan Âm của dân làng Minh Hương. Bảo tàng văn hóa Sa
8

Huỳnh và Bảo tàng Gốm sứ Mậu dịch cũng nằm trên con đường này. Theo
đường Trần Phú, đi qua Chùa Cầu sẽ dẫn tới đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Những ngôi nhà truyền thống ở đây được tu bổ và bảo tồn rất tốt, phần lối đi bộ

hai bên được lát gạch đỏ, phía cuối đường là vị trí của đình Cẩm Phô. Phía Tây
đường Nguyễn Thái Học có một dãy phố được hình thành bởi những ngôi nhà
có kiến trúc mặt tiền kiểu Pháp, còn phần phía Đông là khu phố mua bán nhộn
nhịp với những ngôi nhà kiểu hai tầng, diện tích lớn. Bảo tàng Văn hóa Dân gian
Hội An nằm ở số 33 của con đường này là ngôi nhà cổ lớn nhất khu phố cổ, có
chiều dài 57 mét, chiều ngang 9 mét. Trong mùa mưa bão, đường Nguyễn Thái
Học và khu vực xung quanh thường bị ngập lụt, dân cư phải sử dụng thuyền để
đi mua sắm và đến các quán ăn. Khu phố phía Đông phố cổ từng là khu phố
của người Pháp. Trên đường Phan Bội Châu, dãy phố phía Tây được xây dựng
san sát những ngôi nhà với mặt đứng kiểu châu Âu, đa số một tầng. Nơi đây
từng là nhà ở của các công chức dưới thời Pháp thuộc.
Kiến trúc truyền thống Kiểu nhà ở phổ biến nhất ở Hội An chính là những
ngôi nhà phố một hoặc hai tầng với đặc trưng chiều ngang hẹp, chiều sâu rất dài
tạo nên kiểu nhà hình ống. Những vật liệu chính dùng để xây dựng nhà ở đây
đều có sức chịu lực và độ bền cao do đặc điểm khí hậu khắc nghiệt và bão lụt
hàng năm của vùng này. Thông thường, các ngôi nhà có kết cấu kiểu nhà khung
gỗ, hai bên có tường gạch ngăn cách. Khuôn viên trung bình của các ngôi nhà có
chiều ngang khoảng 4 đến 8 mét, chiều sâu khoảng 10 đến 40 mét, biến thiên
theo từng tuyến phố. Bố cục mặt bằng phổ biến của những ngôi nhà ở đây gồm:
vỉa hè, hiên, nhà chính, nhà phụ, hiên, nhà cầu và sân trong, hiên, nhà sau ba
gian, vườn sau. Thực chất, nhà phố ở Hội An bao gồm nhiều nếp nhà bố trí theo
chiều sâu và cấu thành không gian kiến trúc gồm 3 phần: không gian buôn bán,
không gian sinh hoạt và không gian thờ cúng. Cách phân chia này phù hợp với
mặt bằng hẹp và kết hợp nhiều công năng của ngôi nhà. Có thể nhận thấy đây là
một sản phẩm kiến trúc mang tính văn hóa khu vực.
Ở không gian nhà chính, hệ thống 16 cây cột phân bố 4 x 4 tạo thành phân
9

vị chiều ngang và chiều sâu theo cấu trúc 3 x 3 gian, trong đó 4 cột trung tâm

cao hơn hẳn các cột còn lại. Đây chính là không gian dành cho buôn bán với
gian đầu từ đường vào là chỗ bán hàng, gian kế tiếp là kho hàng hóa được ngăn
bằng vách, gian thứ ba bố trí nhà thờ quay mặt vào bên trong. Điểm đặc biệt này
là một đặc trưng rất quan trọng của nhà phố Hội An, dù đôi khi cũng có trường
hợp bàn thờ quay ra phía đường. Bên cạnh các nhà chính phổ biến dạng 3 x 3
gian, một số ít ngôi nhà khác có nhà chính rộng hoặc hẹp hơn, kiểu 3 x 2 gian
hoặc 3 x 5 gian. Không gian tiếp theo nhà chính là nhà phụ, thường thấy ở
những ngôi nhà hai tầng có chiều cao thấp. Khoảng không gian mở này vừa
được tiếp nối với mặt đường, vừa tách biệt với những hoạt động buôn bán phía
ngoài, lại có thể tiếp nhận ánh sáng của sân trời, được dùng làm nơi gia chủ tiếp
khách. Nhà cầu và sân trong là không gian được chia hai phần theo chiều dọc,
có kết cấu độc lập với nhà trước và nhà sau, mang chức năng chuyển tiếp. Phần
sân trời được lát đá, trang trí bể nước, non bộ, cây cảnh, giúp ngôi nhà thoáng và
hòa hợp với thiên nhiên hơn. Ngược lại, phần nhà cầu có mái nối liền nhà trước
với nhà sau thành một cơ cấu liên tục, rất phù hợp với điều kiện khí
hậu nhiều mưa và nắng nóng ở đây. Dù trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào, mọi
sinh hoạt trong nhà vẫn có thể diễn ra bình thường. Nhà sau là không gian sinh
hoạt của cả gia đình, được ngăn buồng bằng các vách gỗ. Phía sau nhà sau còn
một khoảng không gian nữa, dành cho bếp, nhà vệ sinh và các chức năng phụ
khác. Đối với một ngôi nhà thông thường, không gian thờ cúng chỉ chiếm một
phần nhỏ, nhưng luôn được dành riêng một vị trí quan trọng. Để các công năng
buôn bán, vận chuyển hàng hóa, sinh hoạt không bị cản trở, ban thờ thường
được chuyển lên gác lửng. Ở những ngôi nhà một tầng, ban thờ được đặt ở phần
mái phụ của nhà trước hoặc trung tâm nhà sau. Trong những ngôi nhà hai tầng,
toàn bộ tầng hai của nhà chính thường được dùng làm kho hàng và ban thờ cũng
được bố trí ở tầng này.
Những ngôi nhà ở Hội An hầu hết được làm theo dạng hai mái, đa số nhà
chính và nhà phụ không chung một mái mà là hai nếp mái kế tiếp nhau. Rất ít
10

trường hợp mái nhà chính phủ lên cả phần nhà phụ. Ngược lại, đa số nhà cầu
được lợp theo kiểu bốn mái. Trên mặt bằng tổng thể thì nhà trước, nhà cầu và
nhà sau được lợp bằng những mái riêng biệt. Ngói ở Hội An là loại ngói làm từ
đất, mỏng, nung thô, mang hình vuông, mỗi cạnh khoảng 22 cm và có dạng hơi
cong. Khi lợp, đầu tiên người ta xếp một hàng ngói ngửa lên và sau đó tiếp tới
một hàng ngói úp xuống. Cách lợp này được gọi là kiểu lợp ngói âm dương. Khi
lợp xong mái, các viên ngói được cố định bằng vữa, tạo thành những dải ngói
nhô lên dọc xuôi theo mái, khiến toàn bộ mái toát nên một vẻ cứng cáp, mạnh
mẽ. Ở trên đỉnh mái, phần nóc mái được xây cao lên hình chữ nhật như một cái
hộp, cũng có một số trường hợp hai bên tường hồi cũng được xây cao hẳn làm
cho toàn bộ tổng thể dường như bị mất cân đối. Hình thức và cách trang trí của
tường hồi luôn gây một ấn tượng mạnh và là yếu tố tạo ra giá trị rất riêng của
phố cổ Hội An.
Ẩm thực:
Với vị trí vùng cửa sông ven biển, nơi gặp nhau của các tuyến giao thông
đường thủy và cũng là nơi hội tụ về kinh tế, văn hóa liên tục trong nhiều thế kỷ,
Hội An có được một nền ẩm thực đa dạng và mang những sắc thái riêng
biệt. Vùng đất nơi đây không có được những cách đồng rộng lớn như đồng bằng
sông Cửu Long hay đồng bằng sông Hồng, nhưng bù lại Hội An có các cồn bãi
ven sông màu mỡ và những thửa ruộng hẹp giàu phù sa. Môi trường sông biển
này đã ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày, phong tục tập quán, lối
sống của cư dân địa phương, trong đó có thói quen ẩm thực. Trong bữa ăn hàng
ngày của người dân Hội An, thủy hải sản luôn chiếm một phần lớn, còn
ngoài chợ, số lượng tôm cuacá được tiêu thụ thường gấp đôi số lượng thịt. Cá
trở thành một món ăn không thể thiếu trong khẩu phần hàng ngày của dân cư
Hội An và người ta quen gọi khu vực bày bán thức ăn là chợ cá. Ngày nay tại
Hội An vẫn lưu truyền một số thói quen, tập quán ẩm thực của một số gia đình
người Hoa. Vào những dịp lễ tết, các dịp hôn hỉ, họ thường nấu một số món ăn
riêng như bún xào Phước Kiến, cơm Dương Châu, kim tiền kê, phạch xồi… để

11

cùng nhau thưởng thức, cũng là dịp nhớ lại nguồn gốc dân tộc. Những người
Hoa đã góp phần đáng kể làm nên sự phong phú của ẩm thực Hội An, cũng là
tác giả của nhiều món đặc sản chỉ có ở đây.
Một trong những món ăn tiêu biểu của ẩm thực Hội An là món cao lầu.
Nguồn gốc món ăn, cùng như cái tên Cao lầu, ngày nay rất khó xác định. Những
Hoa kiều ở Hội An không công nhận đây là món ăn của họ. Một số nhà nghiên
cứu Nhật Bản cho rằng cao lầu có nét giống món mỳ ở vùng Ise, nhưng trên
thực tế hương vị và cách chế biến của cao lâu khác món mỳ này. Sợi cao lầu
được chế biến rất công phu. Người ta ngâm gạo và nước trong được lọc kỹ, sau
đó xay thành nước bột. Bột được dùng vải bòng nhiều lần để khô, dẻo rồi cán
thành miếng vừa cỡ và cắt thành con mỳ. Cao lầu không cần nước lèo, nước
nhân, thay vào đó là thịt xíu, nước xíu, tép mỡ và để bớt béo người ta dùng kèm
với giá trụng, rau sống. Khi bán, người ta trần mỳ, giá đổ ra bát và thêm mất lát
thịt xíu hoặc thịt ba chỉ, đổ tép mỡ, thêm một muỗng mỡ heo rán sẵn ở lò
bên. Trước đây ở Hội An có các tiệm cao lầu ông Cảnh, Năm Cơ từng đi vào câu
ca dao: Hội An có Hạ Uy Di. Chùa Cầu, Âm Bổn, cao lầu Năm Cơ.
Bên cạnh những món đặc sản mang tính phố thị như cao lầu, hoành
thánh, bánh bao, bánh vạc… Hội An còn có nhiều món ăn dân dã hấp dẫn
như bánh bèo, hến trộn, bánh xèo, bánh tráng… và đặc biệt là mì Quảng. Đúng
như tên gọi, món mỳ này có nguồn gốc xuất phát từ Quảng Nam. Mỳ Quảng
cũng như phở, bún đều được chế biến từ gạo nhưng lại có sắc thái và hương vị
rất riêng biệt. Để làm mỳ, người ta dùng gạo tốt ngâm nước cho mềm, đem xay
thành bột nước mịn rồi pha thêm phèn sa để sợi mỳ giòn, cứng, đem tráng thành
lá mỳ. Khi mỳ chín được vớt ra đặt lên vỉ cho nguội, thoa sơ một lớp mỡ cho mỳ
khỏi dính rồi cắt thành sợi. Nước nhân mỳ được làm bằng tôm, thịt lợn hoặc thịt
gà, có khi được làm bằng cá lóc, thịt bò. Nước nhân mỳ không cần nhiều màu
mè, không nhiều gia vị mà phải trong và có vị ngọt. Ở Hội An, mỳ Quảng được

bán khắp nơi, từ các quán ăn thành thị đến những hàng quán ở thôn quê, đặc biệt
là những quán mỳ trên hè phố.
12

Bánh bao, bánh vạc là một trong những món ăn sang trọng, ngon và lạ của
phố cổ Hội An. Bánh bao, bánh vạc thường đi đôi với nhau, cả hai đều được làm
bằng nguyên liệu chính là bột gạo. Ngay từ khâu chọn gạo đã thấy bánh bao
bánh vạc là loại bánh kén chọn nguyên liệu. Bột gạo làm bánh phải lấy từ loại
gạo thơm ngon, mua về sàng sảy kỹ rồi cho vào nước và xay thành bột. Nước
dùng để xay phải trong, không nhiễm mặn, nhiễm phèn, thường là nước từ giếng
cổ Bá Lễ. Sau nhiều lần chắt lọc, bột được vê lại và để trong một chiếc thau
sạch. Cùng với việc chế biến bột, người thợ tiến hành làm nhân bánh, gia chế
hành, khử vàng hành dùng trải trên bánh trước khi ăn. Nhân bánh được chia làm
hai loại, nhân bánh bao và nhân bánh vạc. Nhân bánh bao chủ yếu gồm tôm và
gia vị được pha trộn và giã nhiều lần trong cối. Nhân bánh vạc hơi khác và
phong phú hơn, ngoài chả tôm còn có giá hột, nấm mèo, măng tre, thịt heo thái
hình hạt lựu, lá hành. Tất cả hỗn hợp nhân này được cho vào xoong và xào
với muối, mắm. Bắt đầu vào công đoạn chế biến bánh, cả bánh bao và bánh vạc
được làm song song, thường có từ 2 đến 4 thợ làm bánh. Bánh bao được làm với
lớp bột thật mỏng, cách điệu như những cánh hoa hồng. Bánh vạc lớn hơn bánh
bao, trông giống hình quai vạc. Khi làm xong, bánh được chưng cách thủy trên
bếp, khoảng chừng 10 đến 15 phút là chín. Lúc ăn, hai loại bánh được dùng
chung với nhau, nhưng thực khách có thể chọn bánh bao bánh vạc tùy thích.
Những chiếc bánh được bày cầu kỳ, bánh bao xếp ở giữa và bên trên, bánh vạc
xếp xung quanh và bên dưới. Bánh xếp xong được trải lớp hành phi vàng, kế đó
rưới thêm một muỗng dầu phụng khử chín. Bánh bao, bánh vạc được dùng với
nước chấm riêng, pha chế từ nước mắm, có vị ngọt của thịt tôm, có vị chua của
chanh và vị cay nồng của những lát ớt vàng được xắt khéo léo.
Không chỉ có những món ăn ngon, phong phú, các hàng quán ở Hội An

còn có cách bài trí, phục vụ mang những nét riêng. Những nhà hàng trong khu
phố cổ thường treo một vài bức tranh xưa, xung quanh trang trí chậu hoa, cây
cảnh hoặc đồ mỹ nghệ. Một số hàng quán còn có thêm hồ cá, hòn non bộ… tạo
sự thư giãn, thoải mái cho thực khách. Tên những nhà hàng cũng mang tính
truyền thống, được kế thừa từ đời này sang đời khác. Bên cạnh ẩm thực truyền
13

thống, một số món ăn, thói quen xuất phát từ Pháp, Nhật và phương Tây vẫn
được duy trì và phát triển, góp phần làm phong phú nếp ẩm thực của Hội An,
phục vụ nhu cầu đa dạng của những du khác
 Công tác quản lý, phát huy giá trị
Nhằm bảo tồn những ngành nghề này, Trung tâm văn hóa thể thao Hội An
đã cho xây dựng xưởng sản xuất thủ công mỹ nghệ Hội An tại số 9 đường
Nguyễn Thái Học, làm nơi trưng bày cũng như giới thiệu quy trình sản xuất đơn
giản các sản phẩm của 12 làng nghề truyền thống trong vùng. Đây cũng là một
trong những điểm tham quan thu hút rất nhiều khách du lịch.
Bên cạnh những giá trị văn hóa qua các công trình kiến trúc, Hội An còn
lưu giữ một nền văn hóa phi vật thể đa dạng và phong phú. Cuộc sống thường
nhật của cư dân phố cổ với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng,
nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hóa vẫn đang được bảo tồn và phát triển. Hội An
được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
Thủ tướng Chính phủ vừa có quyết định số 78/QĐ-TTg phê duyệt quy
hoạch đầu tư tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản văn hóa thế giới
đô thị cổ Hội An gắn với phát triển thành phố và du lịch giai đoạn 2012 – 2025
Quy hoạch nhằm mục tiêu bảo tồn, phát huy bền vững giá trị di sản văn
hóa Hội An: bảo tồn văn hóa vật thể và phi vật thể, bảo tồn cảnh quan vốn có,
môi trường liên hệ, nâng cao ý thức phát huy vai trò cộng đồng, giáo dục ý thức
người dân bảo tồn di sản cộng đồng, nâng cấp hạ tầng kĩ thuật đô thị cổ để phù
hợp với việc bảo tồn di sản văn hóa, giảm thiểu các tác động xấu của môi trường

đến di tích, đáp ứng các yêu cầu của một di sản văn hóa thế giới…
2, Bảo tàng Chăm – Đà Nẵng
Bảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm Đà Nẵng là bảo tàng trưng bày hiện
vật Chăm quy mô nhất ở Việt Nam, trực thuộc Bảo tàng Đà Nẵng. Đây là bảo
tàng do người Pháp xây dựng, chuyên sưu tập, cất giữ và trưng bày các di vật về
nghệ thuật điêu khắc của vương quốc Chăm Pa tìm thấy ở các tháp, thành
14

lũy Chăm tại các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ từ Hà Tĩnh tới Bình Thuận và
các tỉnh Tây Nguyên.
 Xếp hạng: Được xếp vào bảo tàng hạng 1
 Hiện trạng di tích
Tọa lạc tại ngã gần ngã ba 2 tuyến phố đẹp nhất thành phố Đà Nẵng ở số
2, đường 2/9, quận Hải Châu, Đà Nẵng, ngay ngã ba giao lộ Trưng Nữ Vương,
Bạch Đằng và 2/9, đối diện với Trung tâm truyền hình Việt Nam tại thành phố
Đà Nẵng, Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng có tổng diện tích 6.673
m², trong đó phần diện tích trưng bày là 2.000 m².
Hình dáng mặt tiền nhà bảo tàng mô phỏng theo kiến trúc Gothique, hài
hòa với không gian xung quanh, là một điểm tham quan cho du khách khi đến
thăm Đà Nẵng. Bảo tàng mở cửa đón khách tham quan bảy ngày trong tuần.
Trước đây có dự án cầu Rồng gây tranh cãi vì nếu được xây dựng thì Bảo
tàng Chăm sẽ nằm dưới gầm cây cầu này, tuy nhiên chính quyền TP.Đà Nẵng và
công ty tư vấn thiết kế đã đưa cốt cao độ đầu cầu bờ Tây sông Hàn xuống = 0,
tức là ngang với mặt đường, hoàn toàn không phá hoại cảnh quan hiện tại của
khu vực này, đặc biệt là bảo tàng.
Tổng số hiện vật nghệ thuật trưng bày tại bảo tàng lên tới khoảng 500
món và được phân chia theo các gian phòng tương ứng với các khu vực địa lý
nơi chúng được phát hiện gồm phòng Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Tháp
Mẫm và các hành lang Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Quảng

Bình và Bình Định
Tại phòng Mỹ Sơn của bảo tàng Chăm hiện đang trưng bày 18 hiện vật,
gồm 3 nhóm hiện vật: hiện vật trong các tháp chính, hiện vật ở các tháp phụ và
nhóm các hiện vật trang trí trên trán cửa hoặc trên tường tháp nói chung.
 Công tác quản lý, phát huy giá trị
Năm 2011, Bảo tàng Điêu khắc Chăm đã tiến hành đăng ký các hiện vật
đề nghị là Bảo vật Quốc gia. Hội đồng thẩm định Bảo vật Quốc gia của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch đã xét chọn 03 hiện vật Đài thờ Trà Kiệu, Đài thờ Mỹ
Sơn E1, Bồ tát Tara là Bảo vật Quốc gia trong đợt đầu tiên.
3, Thành cổ Quảng Trị
15

Di tích nằm ngay trung tâm thị xã Quảng Trị. Thành cổ Quảng Trị đón
chào đoàn chúng tôi bằng một không gian rất đặc biệt: vừa u buồn trầm mặc,
vừa hào hùng, lãng mạn và bi tráng. Không gian của thị xã Quảng Trị — đặc
biệt là ở Thành cổ – khiến người ta có cảm giác luôn phảng phất khói hương
tưởng nhớ những người đã khuất. Đoàn chúng tôi nghe anh hướng dẫn tại đây kể
lại rằng, trong trận đánh 81 ngày đêm năm xưa tại Thành cổ, 14.000 cán bộ,
chiến sĩ và đồng bào hy sinh với vô vàn câu chuyện về lòng dũng cảm, sự hy
sinh quên mình của rất nhiều chiến sĩ tuổi đôi mươi.
Tại Thành cổ Quảng Trị, không thể không chiêm ngưỡng tượng đài tưởng
niệm các liệt sĩ hy sinh trong trận đánh năm xưa. Tượng đài có hình tròn tượng
trưng nấm mồ cho những người đã mất. Phía dưới của tượng đài là hành trang
người lính gồm nón, ba lô và một cây thiên mệnh hướng lên trời xuyên qua ba
áng mây. Phía trên cây thiên mệnh có một ngọn nến và ánh hào quang, dưới tầng
mây cuối cùng có gắn hình tượng chung là ba bát cơm tiễn người đã khuất.
Ngoài vòng tròn gắn 81 tờ lịch, thể hiện 81 ngày đêm chiến đấu ác liệt của các
chiến sĩ giải phóng quân. Trong khuôn viên Thành cổ có tháp chuông lớn được
đặt tại quảng trường nối liền Thành cổ và bờ sông Thạch Hãn thường xuyên

vang lên những hồi chuông ngân dài với ý nghĩa cầu mong linh hồn các liệt sĩ đã
hy sinh được siêu thoát. Góc phía Tây Nam của Thành cổ là Bảo tàng với rất
nhiều chứng tích chiến tranh được lưu giữ và thuyết minh đầy cảm xúc, khiến
chúng tôi tất cả đều bồi hồi xúc động và hình dung ra chiến tranh thật khốc liệt,
thật tàn bạo, và chia ly.
Được biết Thành cổ Quảng Trị do vua Gia Long ra lệnh xây dựng từ
những năm đầu thế kỷ 19, trên một khu đất cao với sông Thạch Hãn ở phía Tây,
sông Vĩnh Định ở phía Bắc và vùng dân cư đồng bằng Triệu Hải ở Đông và
Nam.
Dưới thời Nhà Nguyễn, Thành cổ Quảng Trị là trung tâm kinh tế, chính
trị, quân sự của tỉnh Quảng Trị, là thành lũy quân sự bảo vệ kinh đô Huế. Sau
trận chiến năm 1972, Thành cổ gần như bị san phẳng; chỉ còn sót lại một cửa
hướng Đông tương đối nguyên hình và vài đoạn tường thành cùng giao thông
16

hào bên ngoài chi chít vết bom đạn. Hiện nay, chỉ có vài đoạn tường thành và
bốn cổng chính của Thành được phục chế. Dù không còn những dấu ấn xưa,
nhưng Thành cổ vẫn là “Đất tâm linh” của nhiều người dân Quảng Trị nói riêng
và Việt Nam nói chung, vì nơi đây mỗi tấc đất đều thấm máu của các chiến sĩ ta.
 Xếp hạng: Là một di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam được xếp hạng đợt 4
 Hiện trạng di tích
Thành Quảng Trị tọa lạc trên một khu vực nguyên là địa phận thuộc các
làng Thạch Hãn và Cổ Vưu (Trí Bưu). Phía Tây đươc ngăn cách bởi sông Thạch
Hãn, phía Bắc được bao bọc bởi sông Vĩnh Ðịnh. Hai phía Ðông và Nam là
vùng dân cư và đồng bằng Triệu Hải. Từ Thành cổ có thể đi vào Nam, ra Bắc
bằng đường sông, đường biển, hay đường bộ đều tiện. Do có vị trí thuận lợi nên
trải qua nhiều thời kỳ, thành Quảng Trị luôn được coi là nơi đắc địa nhất của
Quảng Trị hội đủ các điều kiện địa lý, lịch sử để trở thành một trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của toàn vùng.

Thành cổ Quảng Trị là một tòa thành có cấu trúc hình vuông theo kiểu
Vauban. Bộ phận kiến trúc chính tạo ra diện mạo tổng quát của thành Quảng Trị
là cấu trúc phòng thành. Nội thành là những công trình mang các chức năng
khác nhau liên quan đến một trung tâm hành chính được xây dựng và bố trí theo
quy cách chung. Bao xung quanh là hệ thống hào thành. Dưới thân thành có
đường phòng hộ. Trước mỗi cửa thành đều có một chiếc cầu xây vòm cuốn bắc
qua hào thành nối bên trong với bên ngoài. Chiều dài của tường thành tính từ
mép ngoài và ở 4 góc pháo đài là 1.040m. Từ đó, chu vi toàn thành sẽ là 2.160m
(1040m + 1120m) Tổng diện tích toàn bộ thành Quảng Trị là 18,56ha. Thành có
chiều cao 4,30m. Chính giữa 4 mặt thành có cổng: Tiền, Hậu, Tả, Hữu xây bằng
gạch với lối kiến trúc vòm cuốn (rộng 3,4m), cửa bằng gỗ lim dày, bên trên có
vọng lâu mái cong lợp ngói âm dương
Nội thành có nhiều công trình kiến trúc được xây dựng nhằm mục đích
phục vụ trực tiếp cho việc ở và làm việc của các cơ quan công đường thuộc bộ
17

máy hành chính của tỉnh Quảng Trị. Công trình trọng yếu trước hết phải kể đến
là hành cung, Phía sau hành cung là những cơ quan công đường, nơi ở và làm
việc của các quan lại thuộc bộ máy hành chính đứng đầu tỉnh như: dinh Tuần
phủ, dinh Án sát, dinh Bố chính, dinh Lãnh binh, nhà Kiểm học, trại quân, nhà
bếp, nhà kho, khám đường, ngục thất. Các công trình này đều được xây dựng
theo mô thức kiến trúc kiểu nhà rường thời Nguyễn với bộ khung gỗ chịu lực,
mái lợp ngói liệt, xung quanh xây tường gạch hoặc che ván gỗ
Từ năm 1993-1995, hệ thống hào, cầu, cống, một số đoạn thành và cổng
Tiền đã được tu sửa lại. Đặc biệt, một đài tưởng niệm lớn đã được xây dựng ở
chính giữa thành cổ nhằm ghi nhớ công lao của những chiến sĩ giải phóng đã hi
sinh vì sự bình yên của mảnh đất này. Góc phía tây nam thành là bảo tàng lưu
giữ rất nhiều chứng tích chiến tranh..

Công tác quản lý, phát huy giá trị
Năm 1986, Thành Cổ được Bộ Thông tin Văn hóa xếp hạng và đưa vào
danh mục những di tích quốc gia đặc biệt quan trọng. Năm 1992, Bộ Văn hóa
Thông tin đầu tư tôn tạo các hạng mục: Đài tưởng niệm, trùng tu cổng Tiên, kè
hào thành và trồng hàng nghìn cây dừa quanh thành. Năm 1997, tiếp tục xây
dựng một phòng trưng bày bổ sung nhiều hiện vật, tư liệu quý. Nhà nước cũng
đầu tư hơn chục tỷ đồng vào những hạng mục: Phục dựng tái tạo lại hình ảnh
chiến trường 81 ngày đêm, đặt 81 khối đá tự nhiên tạc văn bia mô tả cuộc chiến
đấu lịch sử ấy; phục chế một số công trình kiến trúc cổ với tỷ lệ nhỏ hơn và
trồng rừng mai, biếu tượng cho mảnh đất Non Mai Sông Hãn; Xây dựng khu
công viên văn hóa phía Tây Bắc với tượng đài, vườn hoa. Hệ thống đường đi,
ghế đá, sân chơi thể thao, các thiết bị vui chơi. Đặc biệt là Đài tưởng niệm được
thiết kế hình tròn biểu trưng cho nấm mô theo thế lưỡng nghi, trên dương dưới
âm nối thông bởi một cái lỗ và 2 vâng trăng khuyết thể hiện trong dương có âm
và ngược lại. Phần âm đặt hành trang người lính (mũ, balô), phần âm hướng lên
trời với một cây thiên mệnh thể hiện nơi cư ngụ của vong linh liệt sĩ. Cây thiên
18

mệnh xuyên qua 3 áng mây, là hình tượng của Thiên (trời),Địa (đât), Nhân
(người). Trên cây thiên mệnh có ngọn nến tượng trưng cho ánh sáng, tầng mây
cuối cùng có gắn hình ảnh 3 bát cơm để cúng người khuất bóng. Ngoài vòng
tròn có 81 tờ lịch để ghi dấu thời gian của cuộc chiến đấu khốc liệt ấy.
Và mới đây, với sự tài trợ của ngân hàng Công thương VN đã cho xây
một tháp chuông (cái chuông nặng 7 tấn, trị giá 4 tỷ đông) cùng lúc với việc xây
dựng một quảng trường lớn nối từ của Hữu ra đến bờ sông Thạch Hãn, dựng
luôn nhà hành lê bên sông .Người Quảng Trị đã kiên trì theo năm tháng đế biến
một Thành Cổ hoang tàn bơi bời có tranh trở thành một không gian vọng tưởng
vàn hóa đầy ý nghĩa về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến tranh giữ

nước của quân và dân ta.
Tiến đến 1000 năm Đại lễ Thăng Long Hà Nội, tỉnh Quảng Trị quyết định
đầu tư 244 tỷ đông nhằm tôn tạo, bảo tôn di tích lịch sử Thành Cổ Quảng Trị.
Dự án có 6 tiếu dự án gôm : hạng mục hạ tầng; xây dựng mô hình Thành Cổ;
bảo quản di tích gốc và nâng cấp Nhà bảo tàng; nâng cấp Đài Tưởng niệm trung
tâm; xây dựng khu tả thực 81 ngày đêm, tôn tạo hệ thống các di tích thuộc 81
ngày đêm. Dự kiến đến cuối năm 2015, dự án sẽ hoàn thành để phục vụ nhu cầu
tham quan của khách du lịch trong và ngoài nước. Hy vọng sau khi dự án hoàn
thành thì Thành Cổ sẽ trở thành một địa chỉ du lịch hấp dẫn hơn, và khi ấy hình
ảnh Thành cỏ chỉ còn là quá khứ.
4, Kinh thành Huế
Kinh thành Huế là tòa thành ở cố đô Huế, nơi đóng đô của vương
triều nhà Nguyễn trong suốt 143 năm từ 1802 đến 1945. Hiện nay Kinh thành
Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô
Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới.
Kinh thành Huế được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi
công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng.
19

Hiện nay, Kinh thành Huế có vị trí trong bản đồ Huế như sau: phía nam giáp
đường Trần Hưng Đạo và, Lê Duẩn; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp
đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu.
Bên trong kinh thành, được giới hạn theo bản đồ thuộc các đường như
sau: phía nam là đường Ông Ích Khiêm; phía tây là đường Tôn Thất Thiệp; phía
bắc là đường Lương Ngọc Quyến và phía đông là đường Xuân 68.

Xếp hạng: Di sản thế giới UNESCO

Hiện trạng di tích
Kinh Thành Huế được quy hoạch bên bờ Bắc sông Hương, xoay mặt về
hướng Nam, với diện tích mặt bằng 520 ha. Kinh Thành và mọi công trình kiến
trúc của Hoàng Thành, Tử Cấm Thành đều xoay về hướng Nam, hướng mà
trong Kinh Dịch đã ghi “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” (ý nói vua
quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ).
Vòng thành có chu vi gần 10 km, cao 6,6m, dày 21m được xây khúc
khuỷu với những pháo đài được bố trí cách đều nhau, kèm theo các pháo nhãn,
đại bác, kho đạn; thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến cuối đời Gia
Long mới bắt đầu xây gạch. Bên ngoài vòng thành có một hệ thống hào bao bọc
ngay bên ngoài. Riêng hệ thống sông đào (Hộ Thành Hà) vừa mang chức năng
bảo vệ vừa có chức năng giao thông đường thủy có chiều dài hơn 7 km (đoạn ở
phía Tây là sông Kẻ Vạn, đoạn phía Bắc là sông An Hòa, đoạn phía Đông là
sông Đông Ba, riêng đoạn phía Nam dựa vào sông Hương).
Thành có 10 cửa chính gồm:

Cửa Chính Bắc (còn gọi cửa Hậu, nằm ở mặt sau Kinh Thành).

Cửa Tây-Bắc (còn gọi cửa An Hòa, tên làng ở đây).

Cửa Chính Tây.

Cửa Tây-Nam (cửa Hữu, bên phải Kinh Thành).

Cửa Chính Nam (còn gọi cửa Nhà Đồ, do gần đó có Võ Khố – nhà để đồ
20

binh khí, lập thời Gia Long).

Cửa Quảng Đức.

Cửa Thể Nhơn (tức cửa Ngăn, do trước đây có tường xây cao ngăn thành
con đường dành cho vua ra bến sông).

Cửa Đông-Nam (còn gọi cửa Thượng Tứ do có Viện Thượng Kỵ và tàu
ngựa nằm phía trong cửa).

Cửa Chính Đông (tức cửa Đông Ba, tên khu vực dân cư ở đây).

Cửa Đông-Bắc (còn có tên cửa Kẻ Trài)

Ngoài ra Kinh Thành còn có 1 cửa thông với Trấn Bình Đài (thành phụ ở
góc Đông Bắc của Kinh Thành, còn gọi là thành Mang Cá), có tên gọi là Trấn
Bình Môn. Hai cửa bằng đường thủy thông Kinh Thành với bên ngoài qua hệ
thống Ngự Hà là Đông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan. Chính giữa
mặt trước thành có cột cờ, được gọi là Kỳ Đài.
Bên trong Kinh thành, có nhà dân, nhà các quan lại ở và phần quan trọng
nhất là Khu vực Hoàng Thành – nơi ở và làm việc của vua và hoàng gia.
Là vòng thành thứ hai bên trong kinh thành Huế, nơi ở của vua và Hoàng
gia, cũng là nơi làm việc của triều đình. Ngoài ra Hoàng thành Huế còn là nơi
thờ tự tổ tiên và các vị vua nhà Nguyễn.
Hoàng Thành được xây dựng năm 1804, nhưng để hoàn chỉnh toàn bộ hệ
thống cung điện với khoảng hơn 100 công trình thì phải đến thời vua Minh
Mạng vào năm 1833, mọi việc mới được hoàn tất. Hoàng Thành có 4 cửa được
bố trí ở 4 mặt, trong đó cửa chính (ở phía Nam) là Ngọ Môn.
Bên trong Hoàng thành có Điện Thái Hòa, là nơi thiết triều; khu vực các
miếu thờ; và Tử Cấm thành – nơi ăn ở sinh hoạt của vua và hoàng gia. Người ta
thường gọi chung Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là Đại Nội.
Tử Cấm Thành là vòng thành trong cùng, nằm trong Hoàng thành. Tử
21

Cấm thành nguyên gọi là Cung Thành, được khởi công xây dựng từ năm Gia
Long thứ 2 (1803), năm Minh Mạng thứ 2 (1821) đổi tên thành Tử Cấm Thành.
Thành có hình chữ nhật, cạnh nam và bắc dài 341m, cạnh đông và tây dài
308m, chu vi 1298m. Ở mặt trước, phía nam là cửa chính là Đại Cung Môn. Mặt
bắc có 2 cửa Tường Loan và Nghi Phụng, thời Bảo Đại, sau khi xây lầu Ngự
Tiền Văn phòng mở thêm cửa Văn phòng. Mặt đông có hai cửa Hưng Khánh và
Đông An, về sau lấp cửa Đông An, mở thêm cửa Duyệt Thị ở phía đông Duyệt
Thị Đường. Mặt tây có 2 cửa: Gia Tường và Tây An. Bên trong Tử Cấm thành
bao gồm hàng chục công trình kiến trúc với quy mô lớn nhỏ khác nhau, được

phân chia làm nhiều khu vực.
Kỳ Đài hay còn gọi là Cột Cờ, nằm chính giữa mặt nam của kinh thành
Huế thuộc phạm vi pháo đài Nam Chánh cũng là nơi treo cờ của triều đình. Kỳ
Đài được xây dựng vào năm Gia Long thứ 6 (1807) cùng thời gian xây dựng
kinh thành Huế. Đến thời Minh Mạng, Kỳ Ðài được tu sửa vào các năm 1829,
1831 và 1840.
Cửu vị thần công là tên gọi 9 khẩu thần công được các nghệ nhân Huế đúc
dưới thời vua Gia Long. Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, khi lên ngôi, vua Gia
Long liền cho các nghệ nhân đương thời tập trung tất cả chiến lợi phẩm là binh
khí và vật dụng bằng đồng để đúc thành 9 khẩu thần công làm vật chứng cho
chiến thắng vẻ vang của mình. Công việc đúc chính thức từ năm 1803 và hoàn
thành vào năm 1804.

Công tác quản lý, phát huy giá trị
Nhân dân Việt Nam cùng cộng đồng Quốc tế đóng góp công sức và tiền
của để tôn tạo tu bổ giữ cho kiến trúc cố đô Huế mãi mãi là di sản văn hoá của
nhân loại.
Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế và Bộ Văn hóa
Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), công cuộc bảo tồn Di tích
22

Cố đô Huế đã được triển khai và đạt kết quả rất quan trọng, đặc biệt là giai đoạn
từ năm 1996 đến nay, cùng với quá trình triển khai Quyết định 105TTg của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Dự án Quy hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tích
cố đô Huế, 1996-2010 và Quyết định 818TTg điều chỉnh dự án trên đến năm
2020. Di sản văn hoá Huế đã vượt qua giai đoạn cứu nguy khẩn cấp và đang
từng bước được hồi sinh, diện mạo ban đầu của một Cố đô lịch sử dần dần được
hồi phục. Theo đánh giá của UNESCO, công cuộc bảo tồn di tích Huế đang

chuyển sang giai đoạn ổn định và phát triển bền vững. Đặc biệt, việc bảo tồn các
giá trị di sản văn hóa đã luôn gắn chặt với quá trình khai thác, phát huy và tạo
điều kiện cho kinh tế du lịch, dịch vụ phát triển.
Những kết quả quan trọng ấy được thể hiện trên các mặt: Bảo tồn, trùng tu
di tích; bảo tồn văn hóa phi vật thể; bảo tồn, tôn tạo cảnh quan môi trường các
khu di sản; hợp tác quốc tế, ứng dụng thành tựu khoa học bảo tồn và đào tạo
nguồn nhân lực; phát huy giá trị di sản. Bảo tồn, trùng tu nhiều di tích xuống cấp
nặng. Hầu hết các di tích đều được bảo quản cấp thiết, bằng các biện pháp chống
dột, chống sập, chống mối mọt, chống cây cỏ xâm thực, gia cố và thay thế các
bộ phận bị lão hóa … Nhờ vậy mà trong điều kiện thiên tai khắc nghiệt xảy ra
liên tiếp, các di tích vẫn luôn được bảo tồn, gìn giữ và kéo dài tuổi thọ.
5, Lăng Khải Định – Huế
Lăng Khải Định thuộc xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa
Thiên – Huế, cách thành phố Huế 10km.
Có diện tích nhỏ hơn so với các lăng khác, nhưng nơi đây được xây dựng
khá công phu, lộng lẫy, kết hợp tinh xảo giữa 2 nền kiến trúc Đông – Tây

Xếp hạng: Di sản thế giới tại Việt Nam do UNESCO công nhận
Hiện trạng di tích
Tổng thể của lăng là một khối nổi hình chữ nhật vươn cao tới 127 bậc và
được chia ra
Vào lăng phải vượt qua hệ thống của 37 bậc với thành bậc đắp rồng to lớn
nhất cả nước, trên sân có hai dãy Tả – Hữu tòng tự, ở hai bên xây kiểu chồng
diêm hai lớp, tám mái, song các vì kèo lại bằng xi măng cốt thép.
23

Vượt 29 bậc nữa lên tầng sân bái đình, ở giữa có nhà bia Bát giác xây bê

tông cốt thép hoà trộn cổ kim, trong đó có bia đá. Hai bên sân, mỗi bên có 2
hàng tượng cùng nhìn vào giữa sân. Ngoài tượng như ở các lăng khác, còn có
thêm 6 cặp tượng linh túc vệ, từng đôi tượng cùng loại ở cạnh nhau được làm
đối xứng và cùng đối xứng với đôi tượng phía đối diện. Các tượng này làm bằng
chất liệu đá hiếm trong lăng Khải Ðịnh và đều có khí sắc. Hai cột trụ biểu cao
to.
Qua 3 lớp nền là đến điện thờ. Từ sân lên cửa điện còn phải qua 15 bậc
nữa. Ðiện Khải Thành là phòng chính của cung Thiên Ðịnh, có nhiều phòng liên
hoàn. Các điện tường phẳng được trang trí dày đặc bằng nghệ thuật khảm kính
sứ. Cùng với tranh trên tường, dưới nền lát gạch men hoa và trên trần vẽ Cửu
long ẩn hiện trong mây. Cả không gian 6 mặt đã tạo nên một thế giới nghệ thuật.
Phòng sau của điện Khải Thành là chính tẩm có đặt tượng vua Khải Ðịnh,
mộ phần ở phía dưới. Trong cùng là khán thờ với bài vị của vị vua đã quá cố.
Lăng Khải Ðịnh thực sự là một công trình có giá trị nghệ thuật và kiến trúc. Nó

làm phong phú và đa dạng thêm quần thể lăng tẩm ở Huế.
Công tác quản lý, phát huy giá trị
Lăng khải Định là một trong những lăng đẹp nhất nằm trong hệ thống di
tích lịch sử văn hóa cố đô Huế, đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa
thế giới. Vì vậy, việc gìn, bảo tồn di tích quan trọng này được coi là trách nhiệm
chung của các cơ quan quản lý, bảo tồn văn hóa và của mọi người dân.
Lợi dụng việc ban quan lý bảo tồn cố đô Huế mở cửa tự do để du khách
gần xa tham quan Lăng Khải Định miễn phí trong dịp Lễ quốc khánh, nhiều
khách tham quan cũng “tự do” leo trèo lên những hiện vật trong khu Lăng Khải
Định. Trong khi đó, các thợ ảnh trong lăng cũng “tiếp tay” cho người tham quan
bằng cách hướng dẫn cho khách tháo dây bảo vệ ghế, chỉ dẫn khách tham quan
ngồi lên ghế để chụp ảnh… Các thợ ảnh là những người được ban quan lý bảo
tồn cố đô Huế cho phép hành nghề tại Lăng, lẽ ra chính họ phải là người có ý
thức tự hào và bảo vệ di tích mang giá trị văn hóa thế giới, thì chỉ vì cái lại cá

nhân, các thợ ảnh đã giúp cho du khách xâm hại di tích, trong khi làm thiệt hại
24

đến di sản văn hóa thế giới.
Không chỉ có thế, tại chốn tôn nghiêm này, nhiều người còn bắt gặp cảnh
khách tham quan nằm, ngồi la liệt, leo trèo lên các pho tượng.
Điều đáng nói, trong khi du khách thản nhiên leo trèo, sờ vào hiện vật, thì
không có nhân viên bảo vệ nào của Lăng có mặt để ngăn chặn các hành vi vô ý
thức, thiếu văn hóa của một số du khách.
Những hành vi ảnh hưởng đến khu bảo tồn văn hóa Lăng Khải Định vẫn
không khỏi làm cho nhiều người phải suy nghĩ. Một năm có bao dịp lễ hội, và sẽ
có bao nhiêu lần tái diễn cảnh các di tích trong khu di sản văn hóa thế giới cố đô
Huế bị xâm hại? Có bao nhiêu hiện vật đã và sẽ bị lực tác động, mồ hôi của du
khách làm ảnh hưởng, xuống cấp, hư hại, sứt mẻ v.v…? Bên cạnh đó, những
hành vi thiếu văn hóa của một số du khách còn làm mất mỹ quan cho di tích tôn
nghiêm. Đồng thời, những nguy cơ khách tham quan bị té ngã khi leo trèo trong
di tích cũng là điều không thể không đặt ra. Nếu vua Khải Định được sống lại,
thì hẳn những công dân có hành vi xâm hại di tích sẽ bị xử trọng tội vì tội phạm
thượng.
Để xảy ra việc như vậy trách nhiệm phần lớn thuộc về ban quan lý khu
bảo tồn cố đô Huế. Ban Quan lý di tích cố đô Huế cần kiểm tra, đôn đốc, chấn
chỉnh và tăng cường công tác bảo vệ các di sản văn hóa của nhân loại. Hy vọng,
đây cũng là kinh nghiệm chung cho các ban quản lý di tích lịch sử văn hóa khác
trên cả nước trong việc bảo tồn, giữ gìn cho muôn đời sau các giá trị văn hóa và
lịch sử của đất nước và thế giới, đồng thời nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
mỗi công dân.

25

PHẦN 1 : LỊCH TRÌNH THỰC TẾNgàyThời gianLịch trình27 / 0520 h05Xuất phát từ TP.HN đếnĐà Nẵng11h30Ăn trưa tại Đà Nẵng13h30Nhận khách sạn14h30Thăm quan bảo tàngChăm28 / 0529 / 0516 hTắm biển Mỹ Khê18hVề khách sạn20hĂn tối tại chân Cầu Rồng7h30Ăn sáng tại khách sạn8h11h30Giao lưu với trường ĐHNội Vụ cs miền trungĂn trưa tại nhà hàng30 / 057 h30Ăn sáng tại khách sạn8h30Đi chùa Linh Ứng và chợHàn11h30Ăn cơm tại nhà hàng quán ăn vàdi chuyển đến Huế14h30Thăm quan Lăng KhảiĐịnh20h30Nghe ca Huế trên sôngHương7h30Ăn bún bò Huế, đi ĐạiNội Huế11h30Ăn trưa tại nhà hàng31 / 0501 / 0615 hĐi chùa Thiên Mụ20hĐi chơi quanhTrường Tiền5h30Thăm quan thành cổQuảng Trị11h30Ăn cơm trưa tại nhà hàng14h30Viếng mộ Đại tướng VõNguyên Giápcầu22hVề đến Hà NộiPHẦN 2 : KHẢO SÁT, MÔ TẢ, ĐÁNH GIÁ CÁC DI TÍCH, DISẢN VĂN HÓA TRONG CHUYẾN KHẢO SÁT THỰC TẾ1, Hội An – Quảng NamXếp hạng : Là mô hình Di sản văn hóa truyền thống Thế giớiVới những giá trị điển hình nổi bật, tại kỳ họp lần thứ 23 cuối năm 1999 ( ngày 4 tháng 12 ), Tổ chức Giáo dục đào tạo, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc ( UNESCO ) đã công nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn hóa truyền thống quốc tế, dựa trên hai tiêuchí : Hội An là biểu hiện vật thể điển hình nổi bật của sự phối hợp những nền văn hóa truyền thống qua cácthời kỳ trong một thương cảng quốc tế. Hội An là nổi bật tiêu biểu vượt trội về một cảng thị châu Á truyền thống cuội nguồn đượcbảo tồn một cách tuyệt vời và hoàn hảo nhất. Hội An là một thành phố thường trực tỉnh, được xây dựng ngày 29 tháng 1 năm 2008 theo Nghị định số 10/2008 / NĐ-CP [ 1 ] của nhà nước Cộng hòa Xã hộichủ nghĩa Nước Ta. Hội An lúc bấy giờ đã được công nhận là đô thị loại II, trựcthuộc tỉnh Quảng Nam. Tại Hội An có Phố cổ Hội An với những di sản kiến trúc đã có từ hàngtrăm năm trước, được công nhận là di sản văn hóa truyền thống của UNESCO từ năm 1999. Về địa lý giáp với biển Đông, giáp 2 thị xã Điện Bản và huyện DuyXuyên thuộc tỉnh Quảng NamHiện nay chính quyền sở tại thường trực đang tích cực Phục hồi những di tích lịch sử, đồng thờiphát triển thành một thành phố du lịch. Với lịch sử vẻ vang tăng trưởng lâu dài hơn của mình, những dân cư sinh sống ở Hội An đãdần dần tăng trưởng những ngành nghề phong phú như nghề mộc, làm gốm mỹ nghệ, trồng rau, nghề thuốc, làm lồng đèn …. để ship hàng nhu yếu đời sống của mình, đồng thời cũng làm ra sự phồn thịnh, sinh động cho cảng thị Hội An từ thế kỷ VII – cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Nổi tiếng nhất tại đây là Phố cổ Hội AnPhố cổ Hội An là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùngđồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, Nước Ta, cách thành phố Đà Nẵngkhoảng 30 km về phía Nam. Nhờ những yếu tố địa lý và khí hậu thuận tiện, HộiAn từng là một thương cảng quốc tế sầm uất, nơi gặp gỡ của những thuyềnbuôn Nhật Bản, Trung Quốc và phương Tây trong suốt thế kỷ 17 và 18. Trướcthời kỳ này, nơi đây cũng từng có những dấu tích của thương cảng Chăm Pa hayđược nhắc đến cùng con đường tơ lụa trên biển. Thế kỷ 19, do giao thông vận tải đườngthủy ở đây không còn thuận tiện, cảng thị Hội An dần suy thoái và khủng hoảng, nhường chỗ choĐà Nẵng khi đó đang được người Pháp kiến thiết xây dựng. Hội An suôn sẻ không bị tànphá trong hai cuộc cuộc chiến tranh và tránh được quy trình đô thị hóa ồ ạt cuối thế kỷ20. Bắt đầu từ thập niên 1980, những giá trị kiến trúc và văn hóa truyền thống của phố cổ HộiAn dần được giới học giả và cả hành khách chú ý quan tâm, khiến nơi đây trở thành mộttrong những điểm du lịch mê hoặc của Nước Ta.  Hiện trạng khu di tíchĐô thị cổ Hội An ngày này là một nổi bật đặc biệt quan trọng về cảng thị truyềnthống ở Khu vực Đông Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn nhữngngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống cuội nguồn có niên đại từ thế kỷ 17 đến thếkỷ 19, phần bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Nằm xen kẽ giữa những ngôi nhàphố, những khu công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng dẫn chứng cho quá trìnhhình thành, tăng trưởng và cả suy tàn của đô thị. Hội An cũng là vùng đất ghinhiều dấu ấn của sự trộn lẫn, giao thoa văn hóa truyền thống. Các hội quán, đền miếu mangdấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà phố truyền thống lịch sử của ngườiViệt và những ngôi nhà mang phong thái kiến trúc Pháp. Bên cạnh những giá trịvăn hóa qua những khu công trình kiến trúc, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa truyền thống phivật thể phong phú và đa dạng và phong phú. Cuộc sống thường nhật của cư dân phố cổ vớinhững phong tục tập quán, hoạt động và sinh hoạt tín ngưỡng, thẩm mỹ và nghệ thuật dân gian, liên hoan vănhóa vẫn đang được bảo tồn và tăng trưởng. Hội An được xem như một bảo tàngsống về kiến trúc và lối sống đô thị. Khu phố cổ nằm trọn trong phường Minh An, diện tích quy hoạnh khoảng chừng 2 km², vớinhững con đường ngắn và hẹp, có đoạn uốn lượn, chạy dọc ngang theo kiểu bàncờ. Nằm sát với bờ sông là đường Bạch Đằng, tiếp đó tới đường Nguyễn TháiHọc rồi đường Trần Phú nối tiếp với Nguyễn Thị Minh Khai bởi Chùa Cầu. Dođịa hình thành phố nghiêng dần từ Bắc xuống Nam, những con đường ngang NguyễnHuệ, Lê Lợi, Hoàng Văn Thụ và Trần Quý Cáp hơi dốc dần lên nếu đi ngượcvào phía sâu trong thành phố. Đường Trần Phú xưa kia là con đường chính củathị trấn, nối từ Chùa Cầu tới Hội quán Triều Châu. Vào thời Pháp thuộc, đườngnày được mang tên Rue du Pont Japonnais, tức Phố cầu Nhật Bản. Ngày nay, đường Trần Phú rộng khoảng chừng 5 mét với nhiều ngôi nhà không có phần hiên, kếtquả của lần lan rộng ra khoảng chừng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Hai con đườngNguyễn Thái Học và Bạch Đằng hình thành muộn hơn, đều do bùn đất bồi lấp. Đường Nguyễn Thái Học Open năm 1840, sau đó được người Pháp đặt tênlà Rue Cantonnais, tức Phố người Quảng Đông. Đường Bạch Đằng sinh ra năm1878, nằm sát bờ sông nên xưa kia từng có tên gọi là Đường Bờ Sông. Nằm sâuvề phía thành phố, tiếp theo đường Trần Phú là đường Phan Chu Trinh, conđường mới được kiến thiết xây dựng thêm vào khoảng chừng thời hạn sau này. Trong khu phốcổ còn nhiều đường hẻm khác nằm vuông góc với đường chính lê dài ra đếntận bờ sông. Đường Trần Phú là con đường chính, nơi tập trung chuyên sâu nhiều nhất những côngtrình kiến trúc quan trọng, cũng như những ngôi nhà cổ điển hình cho kiến trúcHội An. Nổi bật nhất trong số này là những hội quán do người Hoa kiến thiết xây dựng đểtưởng nhớ đến quê nhà của họ. Nếu mở màn từ Chùa Cầu, sẽ thấy năm hộiquán trên đường Trần Phú, tổng thể đều bên số chẵn : Hội quán Quảng Đông, Hộiquán Trung Quốc, Hội quán Phúc Kiến, Hội quán Quỳnh Phủ và Hội quán TriềuChâu. Ở góc đường Trần Phú và Nguyễn Huệ là miếu Quan Công, di tích lịch sử đặctrưng cho kiến trúc đền miếu của người Minh Hương ở Nước Ta. Ngay sátmiếu về phía Bắc, hoàn toàn có thể thấy Bảo tàng Lịch sử – Văn hóa Hội An, nguyên trướcđây là ngôi chùa Quan Âm của dân làng Minh Hương. Bảo tàng văn hóa truyền thống SaHuỳnh và Bảo tàng Gốm sứ Mậu dịch cũng nằm trên con đường này. Theođường Trần Phú, đi qua Chùa Cầu sẽ dẫn tới đường Nguyễn Thị Minh Khai. Những ngôi nhà truyền thống cuội nguồn ở đây được trùng tu và bảo tồn rất tốt, phần lối đi bộhai bên được lát gạch đỏ, phía cuối đường là vị trí của đình Cẩm Phô. Phía Tâyđường Nguyễn Thái Học có một dãy phố được hình thành bởi những ngôi nhàcó kiến trúc mặt tiền kiểu Pháp, còn phần phía Đông là thành phố mua và bán nhộnnhịp với những ngôi nhà kiểu hai tầng, diện tích quy hoạnh lớn. Bảo tàng Văn hóa Dân gianHội An nằm ở số 33 của con đường này là ngôi nhà cổ lớn nhất thành phố cổ, cóchiều dài 57 mét, chiều ngang 9 mét. Trong mùa mưa bão, đường Nguyễn TháiHọc và khu vực xung quanh thường bị ngập lụt, dân cư phải sử dụng thuyền đểđi shopping và đến những quán ăn. Khu phố phía Đông phố cổ từng là khu phốcủa người Pháp. Trên đường Phan Bội Châu, dãy phố phía Tây được xây dựngsan sát những ngôi nhà với mặt đứng kiểu châu Âu, đa phần một tầng. Nơi đâytừng là nhà ở của những công chức dưới thời Pháp thuộc. Kiến trúc truyền thống cuội nguồn Kiểu nhà ở phổ cập nhất ở Hội An chính là nhữngngôi nhà phố một hoặc hai tầng với đặc trưng chiều ngang hẹp, chiều sâu rất dàitạo nên kiểu nhà hình ống. Những vật tư chính dùng để thiết kế xây dựng nhà ở đâyđều có sức chịu lực và độ bền cao do đặc thù khí hậu khắc nghiệt và bão lụthàng năm của vùng này. Thông thường, những ngôi nhà có cấu trúc kiểu nhà khunggỗ, hai bên có tường gạch ngăn cách. Khuôn viên trung bình của những ngôi nhà cóchiều ngang khoảng chừng 4 đến 8 mét, chiều sâu khoảng chừng 10 đến 40 mét, biến thiêntheo từng tuyến phố. Bố cục mặt phẳng phổ cập của những ngôi nhà ở đây gồm : vỉa hè, hiên, nhà chính, nhà phụ, hiên, nhà cầu và sân trong, hiên, nhà sau bagian, vườn sau. Thực chất, nhà phố ở Hội An gồm có nhiều nếp nhà sắp xếp theochiều sâu và cấu thành khoảng trống kiến trúc gồm 3 phần : khoảng trống kinh doanh, khoảng trống hoạt động và sinh hoạt và khoảng trống thờ cúng. Cách phân loại này tương thích vớimặt bằng hẹp và phối hợp nhiều công suất của ngôi nhà. Có thể nhận thấy đây làmột loại sản phẩm kiến trúc mang tính văn hóa truyền thống khu vực. Ở khoảng trống nhà chính, mạng lưới hệ thống 16 cây cột phân bổ 4 x 4 tạo thành phânvị chiều ngang và chiều sâu theo cấu trúc 3 x 3 gian, trong đó 4 cột trung tâmcao hơn hẳn những cột còn lại. Đây chính là khoảng trống dành cho kinh doanh vớigian đầu từ đường vào là chỗ bán hàng, gian sau đó là kho sản phẩm & hàng hóa được ngănbằng vách, gian thứ ba sắp xếp nhà thời thánh quay mặt vào bên trong. Điểm đặc biệt quan trọng nàylà một đặc trưng rất quan trọng của nhà phố Hội An, dù nhiều lúc cũng có trườnghợp bàn thờ cúng quay ra phía đường. Bên cạnh những nhà chính phổ biến dạng 3 x 3 gian, một số ít ít ngôi nhà khác có nhà chính rộng hoặc hẹp hơn, kiểu 3 x 2 gianhoặc 3 x 5 gian. Không gian tiếp theo nhà chính là nhà phụ, thường thấy ởnhững ngôi nhà hai tầng có chiều cao thấp. Khoảng khoảng trống mở này vừađược tiếp nối với mặt đường, vừa tách biệt với những hoạt động giải trí kinh doanh phíangoài, lại hoàn toàn có thể tiếp đón ánh sáng của sân trời, được dùng làm nơi gia chủ tiếpkhách. Nhà cầu và sân trong là khoảng trống được chia hai phần theo chiều dọc, có cấu trúc độc lập với nhà trước và nhà sau, mang công dụng chuyển tiếp. Phầnsân trời được lát đá, trang trí bể nước, non bộ, hoa lá cây cảnh, giúp ngôi nhà thoáng vàhòa hợp với vạn vật thiên nhiên hơn. Ngược lại, phần nhà cầu có mái nối liền nhà trướcvới nhà sau thành một cơ cấu tổ chức liên tục, rất tương thích với điều kiện kèm theo khíhậu nhiều mưa và nắng nóng ở đây. Dù trong bất kể điều kiện kèm theo thời tiết nào, mọisinh hoạt trong nhà vẫn hoàn toàn có thể diễn ra thông thường. Nhà sau là khoảng trống sinhhoạt của cả mái ấm gia đình, được ngăn buồng bằng những vách gỗ. Phía sau nhà sau cònmột khoảng chừng khoảng trống nữa, dành cho nhà bếp, Tolet và những công dụng phụkhác. Đối với một ngôi nhà thường thì, khoảng trống thờ cúng chỉ chiếm mộtphần nhỏ, nhưng luôn được dành riêng một vị trí quan trọng. Để những công năngbuôn bán, luân chuyển sản phẩm & hàng hóa, hoạt động và sinh hoạt không bị cản trở, ban thờ thườngđược chuyển lên gác lửng. Ở những ngôi nhà một tầng, ban thờ được đặt ở phầnmái phụ của nhà trước hoặc TT nhà sau. Trong những ngôi nhà hai tầng, hàng loạt tầng hai của nhà chính thường được dùng làm kho hàng và ban thờ cũngđược sắp xếp ở tầng này. Những ngôi nhà ở Hội An hầu hết được làm theo dạng hai mái, đa phần nhàchính và nhà phụ không chung một mái mà là hai nếp mái tiếp nối nhau. Rất ít10trường hợp mái nhà chính phủ nước nhà lên cả phần nhà phụ. Ngược lại, đa phần nhà cầuđược lợp theo kiểu bốn mái. Trên mặt phẳng tổng thể và toàn diện thì nhà trước, nhà cầu vànhà sau được lợp bằng những mái riêng không liên quan gì đến nhau. Ngói ở Hội An là loại ngói làm từđất, mỏng mảnh, nung thô, mang hình vuông vắn, mỗi cạnh khoảng chừng 22 cm và có dạng hơicong. Khi lợp, tiên phong người ta xếp một hàng ngói ngửa lên và sau đó tiếp tớimột hàng ngói úp xuống. Cách lợp này được gọi là kiểu lợp ngói âm khí và dương khí. Khilợp xong mái, những viên ngói được cố định và thắt chặt bằng vữa, tạo thành những dải ngóinhô lên dọc xuôi theo mái, khiến hàng loạt mái toát nên một vẻ trưởng thành, mạnhmẽ. Ở trên đỉnh mái, phần nóc mái được xây cao lên hình chữ nhật như một cáihộp, cũng có một số ít trường hợp hai bên tường hồi cũng được xây cao hẳn làmcho hàng loạt toàn diện và tổng thể có vẻ như bị mất cân đối. Hình thức và cách trang trí củatường hồi luôn gây một ấn tượng mạnh và là yếu tố tạo ra giá trị rất riêng củaphố cổ Hội An. Ẩm thực : Với vị trí vùng cửa sông ven biển, nơi gặp nhau của những tuyến giao thôngđường thủy và cũng là nơi quy tụ về kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống liên tục trong nhiều thế kỷ, Hội An có được một nền ẩm thực ăn uống phong phú và mang những sắc thái riêngbiệt. Vùng đất nơi đây không có được những cách đồng to lớn như đồng bằngsông Cửu Long hay đồng bằng sông Hồng, nhưng bù lại Hội An có những cồn bãiven sông phì nhiêu và những thửa ruộng hẹp giàu phù sa. Môi trường sông biểnnày đã tác động ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày, phong tục tập quán, lốisống của dân cư địa phương, trong đó có thói quen ẩm thực ăn uống. Trong bữa ăn hàngngày của người dân Hội An, thủy hải sản luôn chiếm một phần nhiều, cònngoài chợ, số lượng tôm cuacá được tiêu thụ thường gấp đôi số lượng thịt. Cátrở thành một món ăn không hề thiếu trong khẩu phần hàng ngày của dân cưHội An và người ta quen gọi khu vực bày bán thức ăn là chợ cá. Ngày nay tạiHội An vẫn lưu truyền một số ít thói quen, tập quán siêu thị nhà hàng của một số gia đìnhngười Hoa. Vào những dịp lễ tết, những dịp hôn hỉ, họ thường nấu một số ít món ănriêng như bún xào Phước Kiến, cơm Dương Châu, kim tiền kê, phạch xồi … để11cùng nhau chiêm ngưỡng và thưởng thức, cũng là dịp nhớ lại nguồn gốc dân tộc bản địa. Những ngườiHoa đã góp thêm phần đáng kể tạo ra sự sự phong phú và đa dạng của nhà hàng siêu thị Hội An, cũng làtác giả của nhiều món đặc sản nổi tiếng chỉ có ở đây. Một trong những món ăn tiêu biểu vượt trội của siêu thị nhà hàng Hội An là món cao lầu. Nguồn gốc món ăn, cùng như cái tên Cao lầu, ngày này rất khó xác lập. NhữngHoa kiều ở Hội An không công nhận đây là món ăn của họ. Một số nhà nghiêncứu Nhật Bản cho rằng cao lầu có nét giống món mỳ ở vùng Ise, nhưng trênthực tế mùi vị và cách chế biến của cao lâu khác món mỳ này. Sợi cao lầuđược chế biến rất công phu. Người ta ngâm gạo và nước trong được lọc kỹ, sauđó xay thành nước bột. Bột được dùng vải bòng nhiều lần để khô, dẻo rồi cánthành miếng vừa cỡ và cắt thành con mỳ. Cao lầu không cần nước lèo, nướcnhân, thay vào đó là thịt xíu, nước xíu, tép mỡ và để bớt béo người ta dùng kèmvới giá trụng, rau sống. Khi bán, người ta trần mỳ, giá đổ ra bát và thêm mất látthịt xíu hoặc thịt ba chỉ, đổ tép mỡ, thêm một muỗng mỡ heo rán sẵn ở lòbên. Trước đây ở Hội An có những tiệm cao lầu ông Cảnh, Năm Cơ từng đi vào câuca dao : Hội An có Hạ Uy Di. Chùa Cầu, Âm Bổn, cao lầu Năm Cơ. Bên cạnh những món đặc sản nổi tiếng mang tính phố thị như cao lầu, hoànhthánh, bánh bao, bánh vạc … Hội An còn có nhiều món ăn dân dã hấp dẫnnhư bánh bèo, hến trộn, bánh xèo, bánh tráng … và đặc biệt quan trọng là mì Quảng. Đúngnhư tên gọi, món mỳ này có nguồn gốc xuất phát từ Quảng Nam. Mỳ Quảngcũng như phở, bún đều được chế biến từ gạo nhưng lại có sắc thái và hương vịrất riêng không liên quan gì đến nhau. Để làm mỳ, người ta dùng gạo tốt ngâm nước cho mềm, đem xaythành bột nước mịn rồi pha thêm phèn sa để sợi mỳ giòn, cứng, đem tráng thànhlá mỳ. Khi mỳ chín được vớt ra đặt lên vỉ cho nguội, thoa sơ một lớp mỡ cho mỳkhỏi dính rồi cắt thành sợi. Nước nhân mỳ được làm bằng tôm, thịt lợn hoặc thịtgà, có khi được làm bằng cá lóc, thịt bò. Nước nhân mỳ không cần nhiều màumè, không nhiều gia vị mà phải trong và có vị ngọt. Ở Hội An, mỳ Quảng đượcbán khắp nơi, từ những nhà hàng quán ăn thành thị đến những hàng quán ở thôn quê, đặc biệtlà những quán mỳ trên hè phố. 12B ánh bao, bánh vạc là một trong những món ăn sang trọng và quý phái, ngon và lạ củaphố cổ Hội An. Bánh bao, bánh vạc thường song song với nhau, cả hai đều được làmbằng nguyên vật liệu chính là bột gạo. Ngay từ khâu chọn gạo đã thấy bánh baobánh vạc là loại bánh kén chọn nguyên vật liệu. Bột gạo làm bánh phải lấy từ loạigạo thơm ngon, mua về sàng sảy kỹ rồi cho vào nước và xay thành bột. Nướcdùng để xay phải trong, không nhiễm mặn, nhiễm phèn, thường là nước từ giếngcổ Bá Lễ. Sau nhiều lần chắt lọc, bột được vê lại và để trong một chiếc thausạch. Cùng với việc chế biến bột, người thợ thực thi làm nhân bánh, gia chếhành, khử vàng hành dùng trải trên bánh trước khi ăn. Nhân bánh được chia làmhai loại, nhân bánh bao và nhân bánh vạc. Nhân bánh bao đa phần gồm tôm vàgia vị được trộn lẫn và giã nhiều lần trong cối. Nhân bánh vạc hơi khác vàphong phú hơn, ngoài chả tôm còn có giá hột, nấm mèo, măng tre, thịt heo tháihình hạt lựu, lá hành. Tất cả hỗn hợp nhân này được cho vào xoong và xàovới muối, mắm. Bắt đầu vào quy trình chế biến bánh, cả bánh bao và bánh vạcđược làm song song, thường có từ 2 đến 4 thợ làm bánh. Bánh bao được làm vớilớp bột thật mỏng mảnh, cách điệu như những cánh hoa hồng. Bánh vạc lớn hơn bánhbao, trông giống hình quai vạc. Khi làm xong, bánh được chưng cách thủy trênbếp, khoảng chừng 10 đến 15 phút là chín. Lúc ăn, hai loại bánh được dùngchung với nhau, nhưng thực khách hoàn toàn có thể chọn bánh bao bánh vạc tùy thích. Những chiếc bánh được bày cầu kỳ, bánh bao xếp ở giữa và bên trên, bánh vạcxếp xung quanh và bên dưới. Bánh xếp xong được trải lớp hành phi vàng, kế đórưới thêm một muỗng dầu phụng khử chín. Bánh bao, bánh vạc được dùng vớinước chấm riêng, pha chế từ nước mắm, có vị ngọt của thịt tôm, có vị chua củachanh và vị cay nồng của những lát ớt vàng được xắt khôn khéo. Không chỉ có những món ăn ngon, đa dạng chủng loại, những hàng quán ở Hội Ancòn có cách bài trí, ship hàng mang những nét riêng. Những nhà hàng quán ăn trong khuphố cổ thường treo một vài bức tranh xưa, xung quanh trang trí chậu hoa, câycảnh hoặc đồ mỹ nghệ. Một số hàng quán còn có thêm hồ cá, hòn non bộ … tạosự thư giãn giải trí, tự do cho thực khách. Tên những nhà hàng quán ăn cũng mang tínhtruyền thống, được thừa kế từ đời này sang đời khác. Bên cạnh ẩm thực ăn uống truyền13thống, một số ít món ăn, thói quen xuất phát từ Pháp, Nhật và phương Tây vẫnđược duy trì và tăng trưởng, góp thêm phần làm nhiều mẫu mã nếp nhà hàng siêu thị của Hội An, ship hàng nhu yếu phong phú của những du khác  Công tác quản trị, phát huy giá trịNhằm bảo tồn những ngành nghề này, Trung tâm văn hóa truyền thống thể thao Hội Anđã cho thiết kế xây dựng xưởng sản xuất bằng tay thủ công mỹ nghệ Hội An tại số 9 đườngNguyễn Thái Học, làm nơi tọa lạc cũng như trình làng quá trình sản xuất đơngiản những loại sản phẩm của 12 làng nghề truyền thống cuội nguồn trong vùng. Đây cũng là mộttrong những điểm du lịch thăm quan lôi cuốn rất nhiều khách du lịch. Bên cạnh những giá trị văn hóa truyền thống qua những khu công trình kiến trúc, Hội An cònlưu giữ một nền văn hóa truyền thống phi vật thể phong phú và phong phú và đa dạng. Cuộc sống thườngnhật của cư dân phố cổ với những phong tục tập quán, hoạt động và sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật và thẩm mỹ dân gian, tiệc tùng văn hóa truyền thống vẫn đang được bảo tồn và tăng trưởng. Hội Anđược xem như một kho lưu trữ bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị. Thủ tướng nhà nước vừa có quyết định hành động số 78 / QĐ-TTg phê duyệt quyhoạch góp vốn đầu tư toàn diện và tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống thế giớiđô thị cổ Hội An gắn với tăng trưởng thành phố và du lịch tiến trình 2012 – 2025Q uy hoạch nhằm mục đích tiềm năng bảo tồn, phát huy vững chắc giá trị di sản vănhóa Hội An : bảo tồn văn hóa truyền thống vật thể và phi vật thể, bảo tồn cảnh sắc vốn có, thiên nhiên và môi trường liên hệ, nâng cao ý thức phát huy vai trò hội đồng, giáo dục ý thứcngười dân bảo tồn di sản hội đồng, tăng cấp hạ tầng kĩ thuật đô thị cổ để phùhợp với việc bảo tồn di sản văn hóa truyền thống, giảm thiểu những tác động ảnh hưởng xấu của môi trườngđến di tích lịch sử, cung ứng những nhu yếu của một di sản văn hóa truyền thống quốc tế … 2, Bảo tàng Chăm – Đà NẵngBảo tàng Nghệ thuật Điêu khắc Chăm TP. Đà Nẵng là kho lưu trữ bảo tàng tọa lạc hiệnvật Chăm quy mô nhất ở Nước Ta, thường trực Bảo tàng Thành Phố Đà Nẵng. Đây là bảotàng do người Pháp thiết kế xây dựng, chuyên sưu tập, cất giữ và tọa lạc những di vật vềnghệ thuật điêu khắc của vương quốc Chăm Pa tìm thấy ở những tháp, thành14lũy Chăm tại những tỉnh duyên hải Nam Trung bộ từ TP Hà Tĩnh tới Bình Thuận vàcác tỉnh Tây Nguyên.  Xếp hạng : Được xếp vào kho lưu trữ bảo tàng hạng 1  Hiện trạng di tíchTọa lạc tại ngã gần ngã ba 2 tuyến phố đẹp nhất thành phố TP. Đà Nẵng ở số2, đường 2/9, Q. Hải Châu, TP. Đà Nẵng, ngay ngã ba giao lộ Trưng Nữ Vương, Bạch Đằng và 2/9, đối lập với Trung tâm truyền hình Nước Ta tại thành phốĐà Nẵng, Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Thành Phố Đà Nẵng có tổng diện tích quy hoạnh 6.673 m², trong đó phần diện tích quy hoạnh tọa lạc là 2 nghìn m². Hình dáng mặt tiền nhà kho lưu trữ bảo tàng mô phỏng theo kiến trúc Gothique, hàihòa với khoảng trống xung quanh, là một điểm du lịch thăm quan cho hành khách khi đếnthăm TP. Đà Nẵng. Bảo tàng Open đón khách du lịch thăm quan bảy ngày trong tuần. Trước đây có dự án Bất Động Sản cầu Rồng gây tranh cãi vì nếu được kiến thiết xây dựng thì Bảotàng Chăm sẽ nằm dưới gầm cây cầu này, tuy nhiên chính quyền sở tại TP.Đà Nẵng vàcông ty tư vấn phong cách thiết kế đã đưa cốt cao độ đầu cầu bờ Tây sông Hàn xuống = 0, tức là ngang với mặt đường, trọn vẹn không phá hoại cảnh sắc hiện tại củakhu vực này, đặc biệt quan trọng là kho lưu trữ bảo tàng. Tổng số hiện vật thẩm mỹ và nghệ thuật tọa lạc tại kho lưu trữ bảo tàng lên tới khoảng chừng 500 món và được phân loại theo những gian phòng tương ứng với những khu vực địa lýnơi chúng được phát hiện gồm phòng Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, ThápMẫm và những hiên chạy dọc Quảng Trị, Quảng Nam, Tỉnh Quảng Ngãi, Kon Tum, QuảngBình và Bình ĐịnhTại phòng Mỹ Sơn của kho lưu trữ bảo tàng Chăm hiện đang tọa lạc 18 hiện vật, gồm 3 nhóm hiện vật : hiện vật trong những tháp chính, hiện vật ở những tháp phụ vànhóm những hiện vật trang trí trên trán cửa hoặc trên tường tháp nói chung.  Công tác quản trị, phát huy giá trịNăm 2011, Bảo tàng Điêu khắc Chăm đã triển khai ĐK những hiện vậtđề nghị là Bảo vật Quốc gia. Hội đồng thẩm định và đánh giá Bảo vật Quốc gia của Bộ Vănhóa, Thể thao và Du lịch đã xét chọn 03 hiện vật Đài thờ Trà Kiệu, Đài thờ MỹSơn E1, Bồ tát Tara là Bảo vật Quốc gia trong đợt tiên phong. 3, Thành cổ Quảng Trị15Di tích nằm ngay TT thị xã Quảng Trị. Thành cổ Quảng Trị đónchào đoàn chúng tôi bằng một khoảng trống rất đặc biệt quan trọng : vừa u buồn trầm mặc, vừa hào hùng, lãng mạn và bi tráng. Không gian của thị xã Quảng Trị — đặcbiệt là ở Thành cổ – khiến người ta có cảm xúc luôn phảng phất khói hươngtưởng nhớ những người đã khuất. Đoàn chúng tôi nghe anh hướng dẫn tại đây kểlại rằng, trong trận đánh 81 ngày đêm năm xưa tại Thành cổ, 14.000 cán bộ, chiến sỹ và đồng bào quyết tử với vô vàn câu truyện về lòng quả cảm, sự hysinh quên mình của rất nhiều chiến sỹ tuổi đôi mươi. Tại Thành cổ Quảng Trị, không hề không chiêm ngưỡng và thưởng thức tượng đài tưởngniệm những liệt sĩ quyết tử trong trận đánh năm xưa. Tượng đài có hình tròn trụ tượngtrưng nấm mồ cho những người đã mất. Phía dưới của tượng đài là hành trangngười lính gồm nón, balo và một cây thiên mệnh hướng lên trời xuyên qua baáng mây. Phía trên cây thiên mệnh có một ngọn nến và ánh hào quang, dưới tầngmây sau cuối có gắn hình tượng chung là ba bát cơm tiễn người đã khuất. Ngoài vòng tròn gắn 81 tờ lịch, bộc lộ 81 ngày đêm chiến đấu ác liệt của cácchiến sĩ giải phóng quân. Trong khuôn viên Thành cổ có tháp chuông lớn đượcđặt tại trung tâm vui chơi quảng trường tiếp nối Thành cổ và bờ sông Thạch Hãn thường xuyênvang lên những hồi chuông ngân dài với ý nghĩa cầu mong linh hồn những liệt sĩ đãhy sinh được siêu thoát. Góc phía Tây Nam của Thành cổ là Bảo tàng với rấtnhiều chứng tích cuộc chiến tranh được lưu giữ và thuyết minh đầy xúc cảm, khiếnchúng tôi tổng thể đều bồi hồi xúc động và tưởng tượng ra cuộc chiến tranh thật quyết liệt, thật tàn khốc, và chia tay. Được biết Thành cổ Quảng Trị do vua Gia Long ra lệnh kiến thiết xây dựng từnhững năm đầu thế kỷ 19, trên một khu đất cao với sông Thạch Hãn ở phía Tây, sông Vĩnh Định ở phía Bắc và vùng dân cư đồng bằng Triệu Hải ở Đông vàNam. Dưới thời Nhà Nguyễn, Thành cổ Quảng Trị là TT kinh tế tài chính, chínhtrị, quân sự chiến lược của tỉnh Quảng Trị, là thành lũy quân sự chiến lược bảo vệ kinh đô Huế. Sautrận chiến năm 1972, Thành cổ gần như là bị san phẳng ; chỉ còn sót lại một cửahướng Đông tương đối nguyên hình và vài đoạn tường thành cùng giao thông16hào bên ngoài chi chít vết bom đạn. Hiện nay, chỉ có vài đoạn tường thành vàbốn cổng chính của Thành được phục chế. Dù không còn những dấu ấn xưa, nhưng Thành cổ vẫn là “ Đất tâm linh ” của nhiều người dân Quảng Trị nói riêngvà Nước Ta nói chung, vì nơi đây mỗi tấc đất đều thấm máu của những chiến sỹ ta.  Xếp hạng : Là một di tích lịch sử vương quốc đặc biệt quan trọng của Nước Ta được xếp hạng đợt 4  Hiện trạng di tíchThành Quảng Trị tọa lạc trên một khu vực nguyên là địa phận thuộc cáclàng Thạch Hãn và Cổ Vưu ( Trí Bưu ). Phía Tây đươc ngăn cách bởi sông ThạchHãn, phía Bắc được phủ bọc bởi sông Vĩnh Ðịnh. Hai phía Ðông và Nam làvùng dân cư và đồng bằng Triệu Hải. Từ Thành cổ hoàn toàn có thể đi vào Nam, ra Bắcbằng đường sông, đường thủy, hay đường đi bộ đều tiện. Do có vị trí thuận tiện nêntrải qua nhiều thời kỳ, thành Quảng Trị luôn được coi là nơi đắc địa nhất củaQuảng Trị hội đủ những điều kiện kèm theo địa lý, lịch sử vẻ vang để trở thành một TT chínhtrị, kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống, xã hội của toàn vùng. Thành cổ Quảng Trị là một tòa thành có cấu trúc hình vuông vắn theo kiểuVauban. Bộ phận kiến trúc chính tạo ra diện mạo tổng quát của thành Quảng Trịlà cấu trúc phòng thành. Nội thành là những khu công trình mang những chức năngkhác nhau tương quan đến một TT hành chính được thiết kế xây dựng và sắp xếp theoquy cách chung. Bao xung quanh là mạng lưới hệ thống hào thành. Dưới thân thành cóđường phòng hộ. Trước mỗi cửa thành đều có một chiếc cầu xây vòm cuốn bắcqua hào thành nối bên trong với bên ngoài. Chiều dài của tường thành tính từmép ngoài và ở 4 góc pháo đài trang nghiêm là 1.040 m. Từ đó, chu vi toàn thành sẽ là 2.160 m ( 1040 m + 1120 m ) Tổng diện tích hàng loạt thành Quảng Trị là 18,56 ha. Thành cóchiều cao 4,30 m. Chính giữa 4 mặt thành có cổng : Tiền, Hậu, Tả, Hữu xây bằnggạch với lối kiến trúc vòm cuốn ( rộng 3,4 m ), cửa bằng gỗ lim dày, bên trên cóvọng lâu mái cong lợp ngói âm dươngNội thành có nhiều khu công trình kiến trúc được thiết kế xây dựng nhằm mục đích mục đíchphục vụ trực tiếp cho việc ở và thao tác của những cơ quan công đường thuộc bộ17máy hành chính của tỉnh Quảng Trị. Công trình trọng điểm trước hết phải kể đếnlà hành cung, Phía sau hành cung là những cơ quan công đường, nơi ở và làmviệc của những quan lại thuộc cỗ máy hành chính đứng đầu tỉnh như : dinh Tuầnphủ, dinh Án sát, dinh Bố chính, dinh Lãnh binh, nhà Kiểm học, trại quân, nhàbếp, nhà kho, khám đường, ngục thất. Các khu công trình này đều được xây dựngtheo mô thức kiến trúc kiểu nhà rường thời Nguyễn với bộ khung gỗ chịu lực, mái lợp ngói liệt, xung quanh xây tường gạch hoặc che ván gỗTừ năm 1993 – 1995, mạng lưới hệ thống hào, cầu, cống, một số ít đoạn thành và cổngTiền đã được tu sửa lại. Đặc biệt, một đài tưởng niệm lớn đã được thiết kế xây dựng ởchính giữa thành cổ nhằm mục đích ghi nhớ công lao của những chiến sỹ giải phóng đã hisinh vì sự bình yên của mảnh đất này. Góc phía tây nam thành là kho lưu trữ bảo tàng lưugiữ rất nhiều chứng tích cuộc chiến tranh .. Công tác quản trị, phát huy giá trịNăm 1986, Thành Cổ được Bộ tin tức Văn hóa xếp hạng và đưa vàodanh mục những di tích lịch sử vương quốc đặc biệt quan trọng quan trọng. Năm 1992, Bộ Văn hóaThông tin góp vốn đầu tư tôn tạo những khuôn khổ : Đài tưởng niệm, trùng tu cổng Tiên, kèhào thành và trồng hàng nghìn cây dừa quanh thành. Năm 1997, liên tục xâydựng một phòng tọa lạc bổ trợ nhiều hiện vật, tư liệu quý. Nhà nước cũngđầu tư hơn chục tỷ đồng vào những khuôn khổ : Phục dựng tái tạo lại hình ảnhchiến trường 81 ngày đêm, đặt 81 khối đá tự nhiên tạc văn bia diễn đạt cuộc chiếnđấu lịch sử vẻ vang ấy ; phục chế 1 số ít khu công trình kiến trúc cổ với tỷ suất nhỏ hơn vàtrồng rừng mai, biếu tượng cho mảnh đất Non Mai Sông Hãn ; Xây dựng khucông viên văn hóa truyền thống phía Tây Bắc với tượng đài, vườn hoa. Hệ thống đường đi, ghế đá, sân chơi thể thao, những thiết bị đi dạo. Đặc biệt là Đài tưởng niệm đượcthiết kế hình tròn trụ biểu trưng cho nấm mô theo thế lưỡng nghi, trên dương dướiâm nối thông bởi một cái lỗ và 2 vâng trăng khuyết bộc lộ trong dương có âmvà ngược lại. Phần âm đặt hành trang người lính ( mũ, balô ), phần âm hướng lêntrời với một cây thiên mệnh biểu lộ nơi cư ngụ của vong linh liệt sĩ. Cây thiên18mệnh xuyên qua 3 áng mây, là hình tượng của Thiên ( trời ), Địa ( đât ), Nhân ( người ). Trên cây thiên mệnh có ngọn nến tượng trưng cho ánh sáng, tầng mâycuối cùng có gắn hình ảnh 3 bát cơm để cúng người khuất bóng. Ngoài vòngtròn có 81 tờ lịch để ghi dấu thời hạn của cuộc chiến đấu quyết liệt ấy. Và mới gần đây, với sự hỗ trợ vốn của ngân hàng nhà nước Công thương việt nam đã cho xâymột tháp chuông ( cái chuông nặng 7 tấn, trị giá 4 tỷ đông ) cùng lúc với việc xâydựng một trung tâm vui chơi quảng trường lớn nối từ của Hữu ra đến bờ sông Thạch Hãn, dựngluôn nhà hành lê bên sông. Người Quảng Trị đã kiên trì theo năm tháng đế biếnmột Thành Cổ hoang tàn bơi bời có tranh trở thành một khoảng trống vọng tưởngvàn hóa đầy ý nghĩa về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc chiến tranh giữnước của quân và dân ta. Tiến đến 1000 năm Đại lễ Thăng Long Thành Phố Hà Nội, tỉnh Quảng Trị quyết địnhđầu tư 244 tỷ đông nhằm mục đích tôn tạo, bảo tôn di tích lịch sử lịch sử dân tộc Thành Cổ Quảng Trị. Dự án có 6 tiếu dự án Bất Động Sản gôm : hạng mục hạ tầng ; thiết kế xây dựng mô hình Thành Cổ ; dữ gìn và bảo vệ di tích lịch sử gốc và tăng cấp Nhà kho lưu trữ bảo tàng ; tăng cấp Đài Tưởng niệm trungtâm ; thiết kế xây dựng khu tả thực 81 ngày đêm, tôn tạo mạng lưới hệ thống những di tích lịch sử thuộc 81 ngày đêm. Dự kiến đến cuối năm năm ngoái, dự án Bất Động Sản sẽ hoàn thành xong để ship hàng nhu cầutham quan của khách du lịch trong và ngoài nước. Hy vọng sau khi dự án Bất Động Sản hoànthành thì Thành Cổ sẽ trở thành một địa chỉ du lịch mê hoặc hơn, và khi ấy hìnhảnh Thành cỏ chỉ còn là quá khứ. 4, Kinh thành HuếKinh thành Huế là tòa thành ở cố đô Huế, nơi đóng đô của vươngtriều nhà Nguyễn trong suốt 143 năm từ 1802 đến 1945. Hiện nay Kinh thànhHuế là một trong số những di tích lịch sử thuộc cụm Quần thể di tích lịch sử Cố đôHuế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Kinh thành Huế được vua Gia Long triển khai khảo sát từ năm 1803, khởicông thiết kế xây dựng từ 1805 và hoàn hảo vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. 19H iện nay, Kinh thành Huế có vị trí trong map Huế như sau : phía nam giápđường Trần Hưng Đạo và, Lê Duẩn ; phía tây giáp đường Lê Duẩn ; phía bắc giápđường Tăng Bạt Hổ ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Bên trong kinh thành, được số lượng giới hạn theo map thuộc những đường nhưsau : phía nam là đường Ông Ích Khiêm ; phía tây là đường Tôn Thất Thiệp ; phíabắc là đường Lương Ngọc Quyến và phía đông là đường Xuân 68. Xếp hạng : Di sản quốc tế UNESCOHiện trạng di tíchKinh Thành Huế được quy hoạch bên bờ Bắc sông Hương, xoay mặt vềhướng Nam, với diện tích quy hoạnh mặt phẳng 520 ha. Kinh Thành và mọi khu công trình kiếntrúc của Hoàng Thành, Tử Cấm Thành đều xoay về hướng Nam, hướng màtrong Kinh Dịch đã ghi ” Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ ” ( ý nói vuaquay mặt về hướng Nam để quản lý thiên hạ ). Vòng thành có chu vi gần 10 km, cao 6,6 m, dày 21 m được xây khúckhuỷu với những pháo đài trang nghiêm được sắp xếp cách đều nhau, kèm theo những pháo nhãn, đại bác, kho đạn ; thành khởi đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến cuối đời GiaLong mới khởi đầu xây gạch. Bên ngoài vòng thành có một mạng lưới hệ thống hào bao bọcngay bên ngoài. Riêng mạng lưới hệ thống sông đào ( Hộ Thành Hà ) vừa mang chức năngbảo vệ vừa có công dụng giao thông vận tải đường thủy có chiều dài hơn 7 km ( đoạn ởphía Tây là sông Kẻ Vạn, đoạn phía Bắc là sông An Hòa, đoạn phía Đông làsông Đông Ba, riêng đoạn phía Nam dựa vào sông Hương ). Thành có 10 cửa chính gồm : Cửa Chính Bắc ( còn gọi cửa Hậu, nằm ở mặt sau Kinh Thành ). Cửa Tây-Bắc ( còn gọi cửa An Hòa, tên làng ở đây ). Cửa Chính Tây. Cửa Tây-Nam ( cửa Hữu, bên phải Kinh Thành ). Cửa Chính Nam ( còn gọi cửa Nhà Đồ, do gần đó có Võ Khố – nhà để đồ20binh khí, lập thời Gia Long ). Cửa Quảng Đức. Cửa Thể Nhơn ( tức cửa Ngăn, do trước kia có tường xây cao ngăn thànhcon đường dành cho vua ra bến sông ). Cửa Đông-Nam ( còn gọi cửa Thượng Tứ do có Viện Thượng Kỵ và tàungựa nằm phía trong cửa ). Cửa Chính Đông ( tức cửa Đông Ba, tên khu vực dân cư ở đây ). Cửa Đông-Bắc ( còn có tên cửa Kẻ Trài ) Ngoài ra Kinh Thành còn có 1 cửa thông với Trấn Bình Đài ( thành phụ ởgóc Đông Bắc của Kinh Thành, còn gọi là thành Mang Cá ), có tên gọi là TrấnBình Môn. Hai cửa bằng đường thủy thông Kinh Thành với bên ngoài qua hệthống Ngự Hà là Đông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan. Chính giữamặt trước thành có cột cờ, được gọi là Kỳ Đài. Bên trong Kinh thành, có nhà dân, nhà những quan lại ở và phần quan trọngnhất là Khu vực Hoàng Thành – nơi ở và thao tác của vua và hoàng gia. Là vòng thành thứ hai bên trong kinh thành Huế, nơi ở của vua và Hoànggia, cũng là nơi thao tác của triều đình. Ngoài ra Hoàng thành Huế còn là nơithờ tự tổ tiên và những vị vua nhà Nguyễn. Hoàng Thành được thiết kế xây dựng năm 1804, nhưng để hoàn hảo hàng loạt hệthống hoàng cung với khoảng chừng hơn 100 khu công trình thì phải đến thời vua MinhMạng vào năm 1833, mọi việc mới được hoàn tất. Hoàng Thành có 4 cửa đượcbố trí ở 4 mặt, trong đó cửa chính ( ở phía Nam ) là Ngọ Môn. Bên trong Hoàng thành có Điện Thái Hòa, là nơi thiết triều ; khu vực cácmiếu thờ ; và Tử Cấm thành – nơi ăn ở hoạt động và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Người tathường gọi chung Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là Đại Nội. Tử Cấm Thành là vòng thành trong cùng, nằm trong Hoàng thành. Tử21Cấm thành nguyên gọi là Cung Thành, được thi công thiết kế xây dựng từ năm GiaLong thứ 2 ( 1803 ), năm Minh Mạng thứ 2 ( 1821 ) đổi tên thành Tử Cấm Thành. Thành có hình chữ nhật, cạnh nam và bắc dài 341 m, cạnh đông và tây dài308m, chu vi 1298 m. Ở mặt trước, phía nam là cửa chính là Đại Cung Môn. Mặtbắc có 2 cửa Tường Loan và Nghi Phụng, thời Bảo Đại, sau khi xây lầu NgựTiền Văn phòng mở thêm cửa Văn phòng. Mặt đông có hai cửa Hưng Khánh vàĐông An, về sau lấp cửa Đông An, mở thêm cửa Duyệt Thị ở phía đông DuyệtThị Đường. Mặt tây có 2 cửa : Gia Tường và Tây An. Bên trong Tử Cấm thànhbao gồm hàng chục khu công trình kiến trúc với quy mô lớn nhỏ khác nhau, đượcphân chia làm nhiều khu vực. Kỳ Đài hay còn gọi là Cột Cờ, nằm chính giữa mặt nam của kinh thànhHuế thuộc khoanh vùng phạm vi pháo đài trang nghiêm Nam Chánh cũng là nơi treo cờ của triều đình. KỳĐài được kiến thiết xây dựng vào năm Gia Long thứ 6 ( 1807 ) cùng thời hạn xây dựngkinh thành Huế. Đến thời Minh Mạng, Kỳ Ðài được tu sửa vào những năm 1829,1831 và 1840. Cửu vị thần công là tên gọi 9 khẩu thần công được những nghệ nhân Huế đúcdưới thời vua Gia Long. Sau khi vượt mặt nhà Tây Sơn, khi lên ngôi, vua GiaLong liền cho những nghệ nhân đương thời tập trung chuyên sâu tổng thể chiến lợi phẩm là binhkhí và đồ vật bằng đồng để đúc thành 9 khẩu thần công làm vật chứng chochiến thắng vẻ vang của mình. Công việc đúc chính thức từ năm 1803 và hoànthành vào năm 1804. Công tác quản trị, phát huy giá trịNhân dân Nước Ta cùng hội đồng Quốc tế góp phần công sức của con người và tiềncủa để tôn tạo trùng tu giữ cho kiến trúc cố đô Huế mãi mãi là di sản văn hoá củanhân loại. Dưới sự chỉ huy của Tỉnh ủy, Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên-Huế và Bộ Văn hóaThông tin ( nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ), công cuộc bảo tồn Di tích22Cố đô Huế đã được tiến hành và đạt tác dụng rất quan trọng, đặc biệt quan trọng là giai đoạntừ năm 1996 đến nay, cùng với quy trình tiến hành Quyết định 105TT g của Thủtướng nhà nước phê duyệt Dự án Quy hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tíchcố đô Huế, 1996 – 2010 và Quyết định 818TT g kiểm soát và điều chỉnh dự án Bất Động Sản trên đến năm2020. Di sản văn hoá Huế đã vượt qua quá trình giải cứu khẩn cấp và đangtừng bước được hồi sinh, diện mạo bắt đầu của một Cố đô lịch sử vẻ vang từ từ đượchồi phục. Theo nhìn nhận của UNESCO, công cuộc bảo tồn di tích lịch sử Huế đangchuyển sang quy trình tiến độ không thay đổi và tăng trưởng bền vững và kiên cố. Đặc biệt, việc bảo tồn cácgiá trị di sản văn hóa truyền thống đã luôn gắn chặt với quy trình khai thác, phát huy và tạođiều kiện cho kinh tế tài chính du lịch, dịch vụ tăng trưởng. Những hiệu quả quan trọng ấy được bộc lộ trên những mặt : Bảo tồn, trùng tudi tích ; bảo tồn văn hóa truyền thống phi vật thể ; bảo tồn, tôn tạo cảnh sắc thiên nhiên và môi trường cáckhu di sản ; hợp tác quốc tế, ứng dụng thành tựu khoa học bảo tồn và đào tạonguồn nhân lực ; phát huy giá trị di sản. Bảo tồn, trùng tu nhiều di tích lịch sử xuống cấpnặng. Hầu hết những di tích lịch sử đều được dữ gìn và bảo vệ cấp thiết, bằng những giải pháp chốngdột, chống sập, chống mối mọt, chống cây cối xâm thực, gia cố và thay thế sửa chữa cácbộ phận bị lão hóa … Nhờ vậy mà trong điều kiện kèm theo thiên tai khắc nghiệt xảy raliên tiếp, những di tích lịch sử vẫn luôn được bảo tồn, gìn giữ và lê dài tuổi thọ. 5, Lăng Khải Định – HuếLăng Khải Định thuộc xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh ThừaThiên – Huế, cách thành phố Huế 10 km. Có diện tích quy hoạnh nhỏ hơn so với những lăng khác, nhưng nơi đây được xây dựngkhá công phu, lộng lẫy, phối hợp tinh xảo giữa 2 nền kiến trúc Đông – TâyXếp hạng : Di sản quốc tế tại Nước Ta do UNESCO công nhậnHiện trạng di tíchTổng thể của lăng là một khối nổi hình chữ nhật vươn cao tới 127 bậc vàđược chia raVào lăng phải vượt qua mạng lưới hệ thống của 37 bậc với thành bậc đắp rồng to lớnnhất cả nước, trên sân có hai dãy Tả – Hữu tòng tự, ở hai bên xây kiểu chồngdiêm hai lớp, tám mái, tuy nhiên những vì kèo lại bằng xi-măng cốt thép. 23V ượt 29 bậc nữa lên tầng sân bái đình, ở giữa có nhà bia Bát giác xây bêtông cốt thép hoà trộn cổ kim, trong đó có bia đá. Hai bên sân, mỗi bên có 2 hàng tượng cùng nhìn vào giữa sân. Ngoài tượng như ở những lăng khác, còn cóthêm 6 cặp tượng linh túc vệ, từng đôi tượng cùng loại ở cạnh nhau được làmđối xứng và cùng đối xứng với đôi tượng phía đối lập. Các tượng này làm bằngchất liệu đá hiếm trong lăng Khải Ðịnh và đều có khí sắc. Hai cột trụ biểu caoto. Qua 3 lớp nền là đến điện thờ. Từ sân lên cửa điện còn phải qua 15 bậcnữa. Ðiện Khải Thành là phòng chính của cung Thiên Ðịnh, có nhiều phòng liênhoàn. Các điện tường phẳng được trang trí xum xê bằng thẩm mỹ và nghệ thuật khảm kínhsứ. Cùng với tranh trên tường, dưới nền lát gạch men hoa và trên trần vẽ Cửulong ẩn hiện trong mây. Cả khoảng trống 6 mặt đã tạo nên một quốc tế thẩm mỹ và nghệ thuật. Phòng sau của điện Khải Thành là chính tẩm có đặt tượng vua Khải Ðịnh, mộ phần ở phía dưới. Trong cùng là khán thờ với bài vị của vị vua đã quá cố. Lăng Khải Ðịnh thực sự là một khu công trình có giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật và kiến trúc. Nólàm đa dạng chủng loại và phong phú thêm quần thể lăng tẩm ở Huế. Công tác quản trị, phát huy giá trịLăng khải Định là một trong những lăng đẹp nhất nằm trong mạng lưới hệ thống ditích lịch sử vẻ vang văn hóa truyền thống cố đô Huế, đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóathế giới. Vì vậy, việc gìn, bảo tồn di tích lịch sử quan trọng này được coi là trách nhiệmchung của những cơ quan quản trị, bảo tồn văn hóa truyền thống và của mọi người dân. Lợi dụng việc ban quan lý bảo tồn cố đô Huế Open tự do để du kháchgần xa du lịch thăm quan Lăng Khải Định không tính tiền trong dịp Lễ quốc khánh, nhiềukhách thăm quan cũng “ tự do ” leo trèo lên những hiện vật trong khu Lăng KhảiĐịnh. Trong khi đó, những thợ ảnh trong lăng cũng “ tiếp tay ” cho người tham quanbằng cách hướng dẫn cho khách tháo dây bảo vệ ghế, hướng dẫn khách tham quanngồi lên ghế để chụp ảnh … Các thợ ảnh là những người được ban quan lý bảotồn cố đô Huế được cho phép hành nghề tại Lăng, lẽ ra chính họ phải là người có ýthức tự hào và bảo vệ di tích lịch sử mang giá trị văn hóa truyền thống quốc tế, thì chỉ vì cái lại cánhân, những thợ ảnh đã giúp cho hành khách xâm hại di tích lịch sử, trong khi làm thiệt hại24đến di sản văn hóa truyền thống quốc tế. Không chỉ có thế, tại chốn tôn nghiêm này, nhiều người còn phát hiện cảnhkhách thăm quan nằm, ngồi la liệt, leo trèo lên những pho tượng. Điều đáng nói, trong khi hành khách thản nhiên leo trèo, sờ vào hiện vật, thìkhông có nhân viên cấp dưới bảo vệ nào của Lăng xuất hiện để ngăn ngừa những hành vi vô ýthức, thiếu văn hóa truyền thống của 1 số ít hành khách. Những hành vi tác động ảnh hưởng đến khu bảo tồn văn hóa truyền thống Lăng Khải Định vẫnkhông khỏi làm cho nhiều người phải tâm lý. Một năm có bao dịp liên hoan, và sẽcó bao nhiêu lần tái diễn cảnh những di tích lịch sử trong khu di sản văn hóa truyền thống quốc tế cố đôHuế bị xâm hại ? Có bao nhiêu hiện vật đã và sẽ bị lực tác động ảnh hưởng, mồ hôi của dukhách làm ảnh hưởng tác động, xuống cấp trầm trọng, hư hại, sứt mẻ v.v … ? Bên cạnh đó, nhữnghành vi thiếu văn hóa truyền thống của một số ít hành khách còn làm mất mỹ quan cho di tích lịch sử tônnghiêm. Đồng thời, những rủi ro tiềm ẩn khách du lịch thăm quan bị té ngã khi leo trèo trongdi tích cũng là điều không hề không đặt ra. Nếu vua Khải Định được sống lại, thì hẳn những công dân có hành vi xâm hại di tích lịch sử sẽ bị xử trọng tội vì tội phạmthượng. Để xảy ra việc như vậy nghĩa vụ và trách nhiệm hầu hết thuộc về ban quan lý khubảo tồn cố đô Huế. Ban Quan lý di tích lịch sử cố đô Huế cần kiểm tra, đôn đốc, chấnchỉnh và tăng cường công tác làm việc bảo vệ những di sản văn hóa truyền thống của trái đất. Hy vọng, đây cũng là kinh nghiệm tay nghề chung cho những ban quản trị di tích lịch sử lịch sử vẻ vang văn hóa truyền thống kháctrên cả nước trong việc bảo tồn, giữ gìn cho muôn đời sau những giá trị văn hóa truyền thống vàlịch sử của quốc gia và quốc tế, đồng thời nâng cao nhận thức, nghĩa vụ và trách nhiệm củamỗi công dân. 25

Source: https://evbn.org
Category: Góc Nhìn