Xung đột pháp luật trong tư pháp quốc tế
Xung đột pháp luật là gì ?
Xung đột pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
Mỗi một quốc gia trên thế giới có một hệ thống pháp luật riêng của mình và các hệ thống pháp luật đó khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiểu hệ thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp luật này hay quan hệ pháp luật khác. Bản chất của xung đột luật là phải tìm ra được hệ thống pháp luật áp dụng cho một quan hệ quốc tế cụ thể phát sinh trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, hôn nhân – gia đình, lao động…Nghĩa là phải xác định các quy phạm luật thực chất cụ thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó. Xung đột luật mang tính khách quan, dù muốn hay không muốn thì xung đột luật vẫn tồn tại.
Xung đột luật: luôn có sự xuất hiện của từ hai hệ thống pháp luật trở lên và sự tham gia của các hệ thống pháp luật chỉ cần dừng ở mức khả năng. Nghĩa là khi xảy ra xung đột luật mà đã giải quyết bằng cách chọn được một hệ thống pháp luật điều chỉnh tình tiết cụ thể thì những hệ thống pháp luật khác không điều chỉnh thêm về tình tiết đó nữa, hay nói cách khác sự điều chỉnh của một hệ thống pháp luật là duy nhất đối với một tình tiết cụ thể.
Nguyên nhân hình thành xung đột pháp luật
Về nguyên nhân khách quan dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật:
Pháp luật do nhà nước xây dựng nên, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội… của nước mình. Vì vậy, có rất nhiều yếu tố làm cho pháp luật của các nước trên thế giới không giống nhau. Đó có thể là:
Thứ nhất, do nguyên nhân chính trị, kinh tế, xã hội
Các quốc gia đều tồn tại dựa trên một nền tảng kinh tế nhất định với một chế độ sở hữu tương ứng. Mà chế độ sở hữu là một bộ phận của cơ sở hạ tầng, có mối quan hệ biện chứng với kiến trúc thượng tầng trong đó pháp luật là một cấu thành quan trọng. Vì vậy, dựa trên một chế độ sở hữu nhất định thì pháp luật cũng được hình thành để phản ánh một cách phù hợp và tương xứng. Trên thế giới có những quốc gia được tạo dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng ngược lại cũng có những quốc gia được tạo dựng dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Từ các chế độ sở hữu đó mà pháp luật được xây dựng ở các quốc gia này cũng có sự khác biệt căn bản. Sự khác nhau giữa hệ thống pháp luật các nước còn có thể từ nguyên nhân khác như tập quán, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo…
Thứ hai, do đặc điểm về quan hệ xã hội thuộc tư pháp quốc tế điều chỉnh
Quan hệ do tư pháp quốc tế điều chỉnh luôn có yếu tố nước ngoài tham gia và luôn liên quan đến ít nhất là hai hệ thống pháp luật. Cũng chính vì tính chất quốc tế nên mới xuất hiện xung đột pháp luật. Trong sự phát triển không ngừng của đời sống xã hội, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế, xuất hiện càng nhiều sự lưu chuyển các dòng lao động, dòng vốn giữa các quốc gia, các cuộc hôn nhân quốc tế, sở hữu tài sản ở nước ngoài hay việc ký kết các hợp đồng với các đối tác nước ngoài… Các quan hệ này luôn tiềm ẩn vấn đề xung đột pháp luật vì luôn liên quan đến hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau.
Về nguyên nhân chủ quan dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật:
Nguyên nhân chủ quan của xung đột pháp luật chính là sự thừa nhận khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài của nhà nước.
Thực tế có những quan hệ pháp luật nảy sinh mặc dù hệ thống pháp luật của các nước là khác nhau, cũng có xuất hiện của yếu tố nước ngoài tức là thoả mãn hai điều kiện của nguyên nhân khác quan nêu trên nhưng vẫn không có xung đột pháp luật. Ví dụ đó là các quan hệ trong lĩnh vực công, điển hình là các quan hệ hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài.
Các quan hệ hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài dù có đủ nguyên nhân khách quan nhưng vẫn không có xung đột pháp luật. Việc không có xung đột pháp luật trong các lĩnh vực này xuất phát từ việc thiếu nguyên nhân chủ quan hay các quốc gia tự nhận thấy không thể chấp nhận hiện tượng xung đột pháp luật, tức là các quốc gia từ chối việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong các lĩnh vực đó.
Trong khi đó, các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài phát sinh sẽ phát sinh hiện tượng xung đột pháp luật. Do bản chất của các quan hệ này là các quan hệ dân sự, các quan hệ đời thường diễn ra hàng ngày giữa người dân với nhau, họ là các chủ thể ngang quyền và bình đẳng với nhau. Chính yếu tố bình đẳng trong quan hệ này là cơ sở để có thể đặt ra vấn đề bình đẳng trong luật pháp giữa các nước và khi quan hệ liên quan đến nhiều quốc gia thì nhiều hệ thống pháp luật tương ứng sẽ có thể được cân nhắc áp dụng để điều chỉnh quan hệ cụ thể đang xem xét, tức là có xung đột pháp luật. Nói cách khác, do đặc trưng của quan hệ dân sự không quá “nghiêm trọng” mà các quốc gia đều thừa nhận khả năng có thể áp dụng pháp luật nước ngoài với điều kiện nhất định.
Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật
Phương pháp giải quyết xung đột luật bao gồm: phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. Hai phương pháp này có sự kết hợp hài hòa cũng như tác động tương hỗ lẫn nhau để thiết lập một cơ chế điều chỉnh nhằm giải quyết một cách có hiệu quả xung đột pháp luật. Qua đó thiết lập một cơ chế điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế và bảo đảm trật tự dân sự quốc tế.