Xung đột pháp luật là gì? Ví dụ về xung đột pháp luật

Xung đột pháp luật là hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng điều chỉnh một quan hệ tư pháp quốc tế cụ thể, do có sự khác nhau giữa pháp luật của các quốc gia hoặc do tính chất đặc thù của chính đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế.

Xung đột pháp luật chỉ phát sinh từ các quan hệ dân sự – kinh tế – thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, một số các quan hệ trong lĩnh vực dân sự không làm phát sinh xung đột pháp luật, Ví dụ: các quan hệ về quyền tác giả và quyển sở hữu công nghiệp là những quan hệ pháp luật mang tính chất lãnh thổ triệt để: quyền sở hữu trí tuệ xuất hiện ở nước nào thì chỉ có hiệu lực pháp luật tại nước đó, không thể áp dụng luật về sở hữu trí tuệ của nước này tại nước khác được.

Đối với các quan hệ pháp luật trong fĩnh vực hình sự, hành chính, tố tụng là những lĩnh vực mang tính chất tuyệt đối về lãnh thổ, thì vấn đề xung đột pháp luật hầu như không được đặt ra. Riêng trong lĩnh vực tố tụng dân sự, chỉ phát sinh các xung đột pháp luật về thẩm quyền xét xử.

 

1. Cho ví dụ về xung đột pháp luật

Ví dụ: về vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, khi doanh nghiệp nước A bán hàng hoá cho doanh nghiệp nước B và hàng hoá đang được vận chuyển qua nước c thì xảy ra rủi ro. vấn đề bồi thường thiệt hại được đặt ra, nhưng để điều chỉnh quan hệ này hệ thống pháp luật của ba nước A, B, c cùng có khả năng được áp dụng. Song, pháp luật các nước có liên quan lại có những quy định khác nhau, theo pháp luật nước A thì vấn đề này sẽ được giải quyết theo luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại nhưng nước B lại quy định áp dụng luật của nước nơi xảy ra hậu quả thực tế, hoặc thậm chí nước c lại có sự lựa chọn khác là luật của nước có toà án đang xét xử vụ án. Vậy, pháp luật nước nào sẽ được áp dụng điều chỉnh?

Một ví dụ khác, trong một quan hệ thừa kế theo di chúc khi người để lại di sản thừa kế và người hưởng thừa kế có quốc tịch khác nhau, thì về nguyên tắc cả hai hệ thống pháp luật này đều có “cơ hội” như nhau trong việc áp dụng để điều chỉnh quan hệ thừa kế nêu trên. Nhưng pháp luật của các quốc gia này lại có các quy định rất khác nhau, theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế là công dân thì sẽ có trường hợp một số người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc trong khi đó pháp luật của nước người nhận di sản thừa kế là công dân thì người để lại di sản thừa kế có toàn quyền định đoạt tài sản của mình. Vậy trong quan hệ thừa kế cụ thể đang xem xét thì vấn đề sẽ giải quyết như thế nào? Pháp luật nước nào sẽ được áp dụng để giải quyết?

Trong các tình huống nêu trên xảy ra một vấn đề là khi có hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật cùng liên quan đến một quan hệ tư pháp quốc tế thì các hệ thống pháp luật này đều có khả năng được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó. Trong khi đó cũng phải thừa nhận một thực tế khác là khó có thể cùng một lúc áp dụng cả hai (hay quyền sẽ áp dụng luật của bang thay vì áp dụng luật của liên bang, phần này sẽ được đề cập kĩ hơn trong mục 2 dưới đây.

Cuối cùng, xung đột pháp luật chỉ xác định khả năng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ của hai hay nhiều hệ thống pháp luật liên quan chứ không phải là việc tất cả các hệ thống đó đều được áp dụng để điều chỉnh quan hệ. Lý do là bởi các hệ thống pháp luật khác nhau (hệ thống chứ không phải quy phạm luật) không thể cùng một lúc điều chỉnh một quan hệ cụ thể được.

 

2. Nguyên nhân của hiện tượng xung đột pháp luật

Xung đột pháp luật là một hiện tượng đặc thù của tư pháp quốc tế. Nó phát sinh do hai nhóm nguyên nhân.

Do pháp luật của các nước có sự khác nhau: Pháp luật do nhà nước xây dựng nên, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội… của nước mình. Vì vậy có rất nhiều yếu tố làm cho pháp luật của các nước trên thế giới không giống nhau. Đó có thể là:

– Do nguyên nhân chính trị, kinh tế, xã hội

Các quốc gia đều tồn tại dựa trên một nền tảng kinh tế nhất định với một chế độ sở hữu tương ứng. Mà chế độ sở hữu là một bộ phận của cơ sở hạ tầng, có mối quan hệ biện chứng với kiến trúc thượng tầng trong đó pháp luật là một cấu thành quan trọng. Vì vậy, dựa trên một chế độ sở hữu nhất định thì pháp luật cũng được hình thành để phản ánh một cách phù hợp và tương xứng. Trên thế giới có những quốc gia được tạo dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng ngược lại cũng có những quốc gia được tạo dựng dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Từ các chế độ sở hữu đó mà pháp luật được xây dựng ở các quốc gia này cũng có sự khác biệt căn bản. Các quan hệ trong lĩnh vực luật công, điển hình là các quan hệ hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài.

Làm một bài toán phản chứng, giả sử các quan hệ này nảy sinh và cho rằng có xung đột pháp luật, tức là có hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài. Điều đó cũng có nghĩa là sẽ phải có sự chọn lựa trong số các hệ thống pháp luật có thể được áp dụng đó, lấy một hệ thống pháp luật để điều chỉnh quan hệ đang xem xét. Kết quả của sự lựa chọn này tất yếu không phải mọi trường hợp sẽ là luật quốc gia của Việt Nam, mà sẽ có trường hợp là luật hình sự, hành chính của nước ngoài. Khi đó luật hình sự, hành chính của nước ngoài sẽ được áp dụng để bảo vệ các quan hệ đó, các quan hệ đặc biệt được xác định là sự ổn định của an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, mà khi đặt ra pháp luật để bảo vệ các quan hệ này, các quốc gia, không chỉ Việt Nam, luôn xác định là để bảo vệ những giá trị cốt lõi, nền tảng của chính mình. Nói một cách khác, nếu thừa nhận có xung đột pháp luật trong lĩnh vực luật công thì đồng nghĩa với việc chấp nhận có thể áp dụng pháp luật nước ngoài, và điều đó là một điều hết sức vô lý và không thực tiễn không chỉ với Việt Nam mà với tất cả các nước. Vì vậy, như trên đã trình bày, các quốc gia đều từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài hay không đặt ra việc chọn luật để rồi có thể có nguy cơ áp dụng pháp luật nước ngoài trong lĩnh vực này nên giả sử trên cho rằng các quan hệ hình sự, hành chính có yếu tố nước ngoài phát sinh cũng phát sinh xung đột pháp luật là không có cơ sở. Các quan hệ này được bảo vệ một cách nghiêm ngặt và tuyệt đối trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, một khi các quan hệ đó bị xâm phạm tức là các giá trị căn bản của cuộc sống, xẫ hội bị tác động tới, các lợi ích công bị xâm phạm thì bất kể người vi phạm là người nước nào, đang cư trú ở đâu đều sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật quốc gia nơi quan hệ (được quy định trong luật công) bị xâm phạm.

 

3. Phạm vi có xung đột pháp luật

Một câu hỏi là xung đột pháp luật xuất hiện trong phạm vi nào, trong tất cả các quan hệ tư pháp quốc tế hay có ngoại lệ nào không?

Như trên đã trình bày, các quan hệ tư pháp quốc tế phát sinh mà hầu hết trong số đó sẽ làm phát sinh hiện tượng đặc thù của ngành luật là hiện tượng xung đột pháp luật. Tuy nhiên, do đặc thù của một số quan hệ như các quan hệ về sở hữu trí tuệ với đặc điểm nổi bật là tính vô hình của tài sản, nên tài sản trí tuệ phát sinh trên cơ sở pháp luật nước nào, yêu cầu bảo hộ ở đâu thì chỉ được bảo hộ và chỉ bảo hộ được trong phạm vi lãnh thổ nước đó mà thôi. Vì vậy, đối với các quan hệ này không có xung đột pháp luật (có nguyên nhân khách quan nhưng không có nguyên nhân chủ quan), không thể áp dụng luật nước ngoài để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho một đối tượng nào đó ở Việt Nam được. Song, đối với các quan hệ hợp đồng có đối tượng liên quan đến SHTT như hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc chuyển giao quyền sở hữu các đối tượng SHTT; hoặc các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi xâm phạm quyền SHTT gây ra được xem là các quan hệ hợp đồng, bồi thường thiệt hại hay quan hệ dân sự bình thường và đều có xung đột pháp luật.

Từ đó có thể kết luận là xung đột pháp luật sẽ nảy sinh trong hầu hết các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài, trừ một số trường hợp đặc biệt như phân tích ở trên.

 

4. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật

Phương pháp là cách thức tiến hành để có hiệu quả cao. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật là cách thức giải quyết vấn đề khi có tình huống hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác CÓ Sự liên quan đến hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Mà bản thân nội tại các hệ thống pháp luật luôn tồn tại sẵn các yếu tố tạo nên sự khác biệt như đã trình bày phía trên. Vì vậy, để giải quyết các quan hệ phức tạp này bằng một loại quy phạm quy định rõ quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ, vẫn đảm bảo sự chấp nhận được của hai/nhiều hệ thống pháp luật khác nhau thì gần như tất yếu các quy phạm thực chất này phải là kết quả của quá trình đàm phán, thưong lượng giữa các quốc gia, và đó chính là các điều ước quốc tế. Nói cách khác, các quy phạm thực chất thống nhất là các quy phạm tồn tại trong các điều ước quốc tế.

Ví dụ: Các quy định trong Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 4: Tác giả sáng chế có quyền được nêu tên với danh nghĩa là tác giả sáng chế trong patent)’, Công ước Beme 1886 về bảo hộ quyền tác giả (khoản 1 Điều 7: Thời hạn bảo hộ theo Công ước này sẽ là suốt cuộc đời của tác giả và năm mươi năm sau khi tác giả chết)’, Công ước Vienna 1980 của Liên hợp quốc về mua bán hàng hoá quốc tế (Điều 11: Hợp đồng mua bán không cần phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng cỏ thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả những lời khai của nhân chứng)…

Khi có các quy phạm thực chất thống nhất thi các cơ quan giải quyết cũng như các bên tham gia quan hệ có thể căn cứ vào đó để giải quyết vấn đề một cách trực tiếp, mà không cần phải xem xét đến các phương pháp giải quyết khác. Vì vậy, quy phạm thực chất thống nhất được coi là sự lựa chọn đầu tiên cho việc giải quyết các quan hệ tư pháp quốc tế, chỉ khi không có loại quy phạm này thì các quy phạm khác của tư pháp quốc tế mới được xem xét đến.

– Quy phạm thực chất thông thường là loại quy phạm thực chất nằm trong hệ thống pháp luật quốc gia.

Quy phạm này có đặc điểm giống với quy phạm thực chất thống quốc tế trực tiếp điều chỉnh quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài trong khi đó các quy phạm của ngành luật trong nước (như các ngành luật dân sự, lao động, thương mại…) không bao giờ trực tiếp điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế được, chúng chỉ điều chỉnh các quan hệ quốc nội. Trong trường hợp các quy phạm này được sử dụng để điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế thì sự điều chỉnh chỉ có thể là gián tiếp mà không phải là điều chỉnh trực tiếp như quy phạm của tư pháp quốc tế, bởi chúng được áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột.

Phương pháp thực chất được đánh giá là phương pháp hiệu quả nhất để giải quyết xung đột pháp luật, nhưng nó không phải là phương pháp duy nhất. Do phương pháp này sử dụng các quy phạm thực chất mà phần lớn là các quy phạm thực chất thống nhất, như đã trình bày ở trên đó là các quy phạm tồn tại trong các điều ước quốc tế, mà không phải lĩnh vực nào cũng có điều ước quốc tế, và đôi khi trong quá trình đàm phán, thương lượng để xây dựng điều ước quốc tế thì để thống nhất được các quy phạm thực chất cũng rất khó khăn, có nhiều trường họp đã không thực hiện được. Vì vậy, bên cạnh phương pháp thực chất, để giải quyết xung đột pháp luật, tư pháp quốc tế còn sử dụng một phương pháp nữa đó là phương pháp xung đột.

Phương pháp xung đột – xây dựng và áp dụng các quy phạm xung đột:

Nói một cách phổ quát, phương pháp xung đột là phương pháp sử dụng các quy phạm xung đột để giải quyết xung đột pháp luật.

Khi không có quy phạm thực chất thống nhất, để điều chỉnh quan hệ, các cơ quan có thẩm quyền phải tìm đến hệ thống các quy phạm khác – các quy phạm xung đột. Đây là các quy phạm pháp luật đặc biệt, nó không quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ, không quy định các hình thức và biện pháp chế tài có thể được áp dụng đối với bên vi phạm. Nhiệm vụ của quy Hơn nữa, sự tồn tại của quy phạm xung đột không phải là minh chứng cho việc có xung đột pháp luật, đấy là công cụ của một trong hai phương pháp điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế, bao gồm cả các quan hệ có lẫn các quan hệ không có xung đột pháp luật.

Phương pháp xung đột là phương pháp phổ biến và đặc thù của tư pháp quốc tế được hầu hết các quốc gia áp dụng. So với phương pháp thực chất thì phương pháp xung đột phức tạp hơn nhiều. Để hiểu rõ và vận dụng đúng phương pháp xung đột nhất thiết phải nắm được các vấn đề cơ bản liên quan đến quy phạm xung đột – quy phạm đặc thù của tư pháp quốc tế (phần này sẽ được trình bày tại mục 2 dưới đây).

Áp dụng tập quán quốc tế hoặc “pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội tương tự:

Hai phương pháp thực chất và xung đột nêu trên là hai phương pháp điều chỉnh cơ bản của tư pháp quốc tế. Tuy nhiên thực tiễn vô cùng phong phú và đa dạng, nên cũng có trường hợp không có cả quy phạm thực chất lẫn quy phạm xung đột để điều chỉnh quan hệ. Trường hợp này, để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của các đương sự, củng cố và thúc đẩy giao lưu giữa các nước thì cơ quan có thẩm quyền của quốc gia cần tìm một giải pháp khác để giải quyết vấn đề. Cách thức thường được áp dụng là sử dụng tập quán quốc tế hoặc “pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội tương tự” trên cơ sở phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc gia mình cũng như đường lối, chính sách đối ngoại của nhà nước.

Tại Việt Nam, việc áp dụng tập quán được quy định trong Bộ luật dân sự 2015. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 5 Bộ luật quy định: “Trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quản…”; và tại Điều 666 Bộ luật quy định áp dụng tập quán quốc tế như sau: “Các bên được lựa chọn tập quán quốc tế trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 664 của Bộ luật này…”.

trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ mà chỉ nhằm xác định hệ thống luật áp dụng mà thôi.

Có thể định nghĩa, quy phạm xung đột là quy phạm ấn định luật pháp nước nào cần phải áp dụng để điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài trong một tình huống cụ thể.

Quy phạm xung đột có thể do các quốc gia tự xây dựng nên trong hệ thống pháp luật của mình và được gọi là quy phạm xung đột thông thường.

Ví dụ, khoản 2 Điều 680 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

“Việc thực hiện quyền thừa kế đổi với bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”.

Trong quy phạm này, pháp luật được lựa chọn để điều chỉnh quan hệ về việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản là pháp luật của nước nơi có bất động sản đó. Quy phạm này không trả lời được câu hỏi chủ thể nào thì được thừa kế bất động sản, nhưng câu hỏi đó chỉ có thể được trả lời khi căn cứ vào luật nơi có bất động sản – hệ thống pháp luật đã được quy phạm xung đột chỉ ra.

Quy phạm xung đột cũng có thể được các quốc gia thoả thuận xây dựng nên trong các điều ước quốc tế và lúc này nó được gọi với tên gọi là quy phạm xung đột thống nhất, trong đó “quy phạm xung đột” là tên của loại quy phạm chỉ xác định luật áp dụng, còn “thống nhất” để chỉ vị trí tồn tại của quy phạm trong các điều ước quốc tế.

Ví dụ, Điều 17 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Lào quy định:

“Năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự sẽ tuân theo pháp luật của Nước ký kết mà cá nhân đã là công dân”.

Cụ thể, nếu một công dân Lào thực hiện một hành vi dân sự tại Việt Nam và khi có tranh chấp về chính năng lực hành vi đó vì cho rằng người này không có đủ năng lực để thực hiện hành vi đã xảy ra, và các bên có yêu cầu toà án Việt Nam giải quyết thì toà án sẽ căn cứ vào Điều 17 Hiệp định song phương nói trên để xác định luật áp dụng. Ở đây, mặc dù hành vi được thực hiện ở Việt Nam nhưng năng lực hành vi dân sự sẽ phải

CÓ một điểm cần chú ý, khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật một nước mà đó lại là nhà nước liên bang, nghĩa là trong lãnh thổ quốc gia đó có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng tồn tại. Vậy, quy phạm xung đột lúc này dẫn chiếu là dẫn chiếu đến luật nào, luật của từng bang hay luật của liên bang, vấn đề này đã được quy định tại Điều 669 Bộ luật dân sự 2015, theo đó:

“Trường hợp pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật được dẫn chiếu đến thì pháp luật áp dụng được xác định theo nguyên tắc do pháp luật nước đó quy định”.

Như vậy, việc luật của bang hay luật của liên bang sẽ được áp dụng điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế, lúc này do pháp luật của nước đó quy định.

 

5. Cơ cấu của quy phạm xung đột

Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật thì một quy phạm pháp luật thông thường sẽ có cơ cấu gồm ba phần: giả định, quy định và chế tài. Đối với quy phạm xung đột, do tính đặc thù của nó là loại quy phạm chỉ nhằm dẫn chiếu luật nên về cơ cấu quy phạm xung đột chỉ có hai phần, hay hai bộ phận là phần phạm vi và phần hệ thuộc.

Phạm vi là phần chỉ ra quy phạm xung đột này được áp dụng cho loại quan hệ dân sự theo nghĩa rộng nào, đó có thể là quan hệ sở hữu, quan hệ hợp đồng, quan hệ thừa kế… và thông thường phạm vi sẽ luôn đứng ở đầu câu.

Ví dụ, Điều 682 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Giám hộ được xác định theo pháp luật của nước nơi người được giảm hộ cư trú”, đây là một quy phạm xung đột nằm trong pháp luật quốc gia của Việt Nam, trong quy phạm này phần phạm vi chính là phần đầu câu chỉ ra quan hệ giám hộ sẽ được điều chỉnh bởi quy phạm này.

Hệ thuộc là phần chỉ ra hệ thống pháp luật nước nào được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đã được xác định trong phần phạm vi. Phần hệ thuộc chính là phần dẫn chiếu luật, thông thường phần này sẽ đứng cuối câu, sau phần phạm vi và các điều kiện đặc biệt (nếu có). Ví dụ, trong quy phạm ở Điều 682 nêu trên thì hệ thuộc chính là phần chỉ ra luật của nước nơi người được giám hộ cư trú. Như vậy, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

Ở quy phạm xung đột này phần phạm vi chỉ ra nhiều loại quan hệ khác nhau của quyền sở hữu tài sản, đó là quan hệ về xác lập quyền, thực hiện, thay đổi, chấm dứt, nội dung quyền sở hữu và các quan hệ này đều được điều chỉnh bởi hệ thuộc luật nơi có tài sản, trừ quy định ở khoản 2 Điều này. Như vậy, một người khi mua tài sản (xác lập quyền) hoặc bán tài sản (chấm dứt quyền) hoặc cho thuê tài sản (chuyển quyền sử dụng) đều phải căn cứ theo pháp luật nơi tài sản tồn tại.

 

6. Phân loại quy phạm xung đột

Việc phân loại bất kì một đối tượng nào cũng cần phải dựa trên những căn cứ, tiêu chí nhất định và việc phân loại cũng nhằm hướng tới các mục đích nhất định. Vì vậy, có thể với cùng một đối tượng nhưng dưới góc độ này nó lại thuộc một loại và dưới một góc độ khác nó lại thuộc về một loại khác. Các quy phạm xung đột cũng tương tự như vậy, khi có các tiêu chí khác nhau, căn cứ khác nhau thì cũng có các loại quy phạm xung đột khác nhau.

– Căn cứ vào kĩ thuật xây dựng quy phạm thì quy phạm xung đột được chia thành hai loại: Quy phạm xung đột một chiều (hay còn gọi là quy phạm xung đột một bên) và quy phạm xung đột hai chiều (hay quy phạm xung đột hai bên).

Quy phạm xung đột một chiều là quy phạm xung đột chỉ ra việc áp dụng luật của một nước cụ thể và đó chính là nước đã ban hành ra quy phạm. Ví dụ, khoản 2 Điều 674 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường họp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam Hệ thuộc luật được xác định trong quy phạm này là hệ thống pháp luật Việt Nam,

– Căn cứ vào tính chất của quy phạm xung đột có quy phạm xung đột mệnh lệnh (bắt buộc phải tuân theo) và quy phạm xung đột tuỳ nghi (được lựa chọn). Đối với căn cứ phân loại này cần phải có một sự phân tích rõ hơn như sau:

+ Quy phạm xung đột mệnh lệnh thường được hiểu như quy phạm xung đột một chiều. Ví dụ, khoản 2 Điều 674 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam Theo quy định này thì luật Việt Nam đã được xác định rõ ràng, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc cũng như các đương sự không có quyền lựa chọn mà bắt buộc phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Nhưng quy phạm xung đột mệnh lệnh cũng cần phải được xác định bao gồm cả các quy phạm xung đột hai chiều.

Ví dụ, Điều 677 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Việc phân loại tài sản là động sản, bẩt động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản”. Quy phạm này cũng không tạo ra bất cứ khả năng nào cho cơ quan có thẩm quyền cũng như đương sự được chọn luật, mà tất cả đều phải tuân theo hệ thuộc luật nơi có tài sản, tài sản ở nước nào thì luật nước đó bắt buộc phải được áp dụng chứ không có sự cân nhắc chọn lựa ở đây. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa quy phạm xung đột mệnh lệnh và đồng thời là quy phạm xung đột một chiều với quy phạm xung đột mệnh lệnh mà là quy phạm xung đột hai chiều, đó là ở loại quy phạm thứ nhất thì hệ thống luật áp dụng đã được xác định rõ ràng là luật của nước ban hành ra quy phạm, còn ở loại quy phạm thứ hai thì hệ thống pháp luật của nước cụ thể nào sẽ được áp dụng thì không được quy định rõ mà phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Trong ví dụ trên thì tài sản ở đâu thì luật nước đó sẽ được áp dụng, có thể sẽ là luật Việt Nam khi tài sản ở Việt Nam, nhưng cũng có thể là luật nước ngoài nếu tài sản ở nước ngoài. Song, dù là luật Việt Nam hay luật nước ngoài cũng đều phải là luật của nước nơi có dành cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết (toà án, trọng tài) được lựa chọn áp dụng hệ thuộc luật nào phù hợp trong từng trường hợp cụ thể. Trong vụ việc này có thể cơ quan giải quyết tranh chấp chọn luật của nước nơi cư trú của người lập di chúc, nhưng trong một vụ việc khác rất có thể cơ quan này lại xác định áp dụng hệ thuộc luật quốc tịch của người lập di chúc. Chính vì vậy đây được xem là quy phạm xung đột tùy nghi, tùy từng trường hợp mà cơ quan có thẩm quyền sẽ chọn luật khác nhau theo các phương án mà quy phạm xung đột đã cho phép.

Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập từ các nguồn trên internet)