Xây dựng kinh tế biển xanh – nền tảng cho kinh tế biển bền vững ở Việt Nam

Cách tiếp cận của Việt Nam về xây dựng kinh tế biển xanh

Với một vùng biển rộng, bờ biển dài trên 3.260 km và nhiều đảo (trên 3.000 đảo lớn, nhỏ), Việt Nam luôn coi trọng vai trò đặc biệt của kinh tế biển, gắn phát triển kinh tế biển hiệu quả và bền vững dựa trên nền tảng kinh tế biển xanh với chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Biển Việt Nam là một bộ phận của Biển Đông và Biển Đông được xem là một trong 64 hệ sinh thái biển lớn (LME) của thế giới, giàu tài nguyên sinh vật và có tính đa dạng sinh học cao. Hệ sinh thái biển lớn này là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển và cung cấp 1/10 tổng sản lượng cá đánh bắt của thế giới. Biển Đông cũng là khu vực biển có giá trị cao về mặt tài nguyên và môi trường, về bảo tồn biển và tài sản tự nhiên biển.

Thời gian qua, kinh tế biển Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, quy mô phát triển chưa thực sự tương xứng với tiềm năng. Việt Nam đã đề ra Chiến lược phát triển biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với định hướng cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng hiệu quả, bền vững hơn. Việc thực hiện chiến lược này cũng là cơ hội để Việt Nam chuyển từ nền kinh tế biển “nâu” sang kinh tế biển “xanh”; qua đó, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ngăn chặn ô nhiễm, suy thoái môi trường biển. Chính vì thế, bảo vệ môi trường biển, bảo tồn đa dạng sinh học và các hệ sinh thái biển, gìn giữ và phát triển vốn tự nhiên biển ở các ngành, các cấp và các khu vực biển khác nhau, hướng tới một nền kinh tế biển xanh là nhu cầu thực tế, cấp thiết.

Phát triển kinh tế biển
Kinh tế biển xanh bao gồm tất cả các hoạt động kinh tế có quan hệ trực tiếp với các nguồn tài nguyên đại dương, biển và vùng ven biển.

Phát triển kinh tế biển xanh cũng góp phần xây dựng một vùng biển hoà bình và ổn định, thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050, Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, cũng như Chiến lược phát triển biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Có thể nói, các chiến lược và kế hoạch “xanh” này ra đời là sự khẳng định xu thế phát triển tất yếu trong dài hạn của kinh tế biển Việt Nam, chủ động chuyển dần từng bước sang kinh tế biển xanh để đạt được các lợi ích cơ bản: góp phần xoá đói, giảm nghèo, giảm nhẹ thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, duy trì và tiến tới tăng cường vốn tự nhiên biển, cải thiện nguồn vốn văn hoá biển, hướng tới phát triển bền vững biển, đảo.

Theo Tổ chức Đối tác quản lý môi trường biển Đông Á (PEMSEA), một hoạt động kinh tế diễn ra trên biển hoặc ven biển có thể hiểu là kinh tế biển xanh khi nó hội đủ bốn hợp phần cơ bản sau: (i) Bảo vệ, phục hồi và duy trì bền vững các dịch vụ hệ sinh thái biển khoẻ mạnh; (ii) Tạo ra lợi ích kinh tế bền vững, công bằng và tăng trưởng bao trùm; (iii) Tích hợp các tiếp cận giữa nhiều ngành công nghiệp và chính phủ; và (iv) Sáng tạo dựa trên các nghiên cứu khoa học tốt nhất hiện có.

Về bản chất, kinh tế biển xanh bao gồm tất cả các hoạt động kinh tế có quan hệ trực tiếp với các nguồn tài nguyên đại dương, biển và vùng ven biển. Các hoạt động kinh tế như vậy thường được phân chia tương đối thành: (i) Kinh tế biển/đại dương (ocean economy), ví dụ: nghề cá, dầu khí, khai khoáng, hàng hải, du lịch biển, năng lượng biển, xây dựng công trình biển…; (ii) Kinh tế dựa vào biển/đại dương (ocean-based economy), ví dụ: kinh tế đảo, kinh tế ven biển (chủ yếu vùng nước lợ); và (iii) Kinh tế liên quan đến biển/đại dương (ocean-related economy) là các hoạt động kinh tế sử dụng các sản phẩm từ đại dương và biển, hoặc các hoạt động dịch vụ dựa vào đại dương, ví dụ: chế biến thuỷ sản, công nghệ sinh học biển, đóng và sửa chữa tàu biển, khai thác cảng, khách sạn, du lịch ven biển… Tất cả các hoạt động này đều đòi hỏi phải được thực hiện hiệu quả và bền vững.

Tiếp nối Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Chiến lược phát triển biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 tiếp tục nhấn mạnh “Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hoà giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển….”.

Như vậy, phát triển kinh tế biển xanh đã trở thành hệ quan điểm chung, xuyên suốt và là sự lựa chọn đúng đắn, khẳng định xu thế phát triển tất yếu trong dài hạn của nền kinh tế Việt Nam, phù hợp với bối cảnh và thực tế ở Biển Đông. Đồng thời, cũng tiếp tục khẳng định đường lối nhất quán của Đảng trong các thời kỳ: Xây dựng đi đôi với bảo vệ Tổ quốc.

Trong thực tế, phát triển kinh tế biển xanh đang trở thành xu hướng tất yếu trên quy mô toàn cầu và được xem là nền tảng cho phát triển bền vững kinh tế biển (đại dương). Đây cũng là yếu tố then chốt trong quá trình thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững số 14 về biển và đại dương đến năm 2030 của Liên Hợp Quốc gắn với những thành tựu của nền kinh tế tri thức và Cách mạng công nghiệp 4.0 mà Việt Nam đã và đang nỗ lực triển khai. Nói cách khác, kinh tế biển xanh và tăng trưởng xanh sẽ tạo cơ hội để Việt Nam tái cấu trúc kinh tế biển theo hướng hiệu quả và bền vững, góp phần sớm hoàn thành sứ mệnh đưa nước ta trở thành quốc gia biển mạnh, đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển vào năm 2030.

Một số thách thức và cơ hội phát triển kinh tế biển xanh và bền vững ở nước ta

Kinh tế biển xanh và phát triển bền vững kinh tế biển vẫn còn tương đối mới đối với Việt Nam dù nó đã tồn tại trong suốt hơn 20 năm thực hiện phát triển bền vững kể từ khi nước ta tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển (Rio 1992) và cam kết thực hiện 17 mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên Hợp Quốc. Chính vì thế, quá trình chuyển từ kinh tế biển “nâu” sang kinh tế biển “xanh” vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức như:

Một là, nhận thức về tăng trưởng xanh và kinh tế biển xanh của các cấp, các ngành, các địa phương ven biển và người dân còn chưa đầy đủ.

Hai là, nhiều ngành, nhiều địa phương chưa chuẩn bị đủ điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế biển từ “nâu” sang “xanh”. Đặc biệt, trong điều kiện kết cấu hạ tầng các vùng biển, ven biển và đảo còn chưa đồng bộ và còn thiếu hụt so với nhu cầu thực tế.

Ba là, thiếu các dữ liệu chi tiết về tài sản/vốn tự nhiên biển đảo; thiếu cơ sở dữ liệu về các hệ sinh thái làm cơ sở cho việc triển khai các hành động liên quan tới phát triển kinh tế biển xanh ở nước ta.

Bốn là, tình hình khai thác, sử dụng biển, đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững. Thói quen ưu tiên khai thác tài nguyên biển ở dạng vật chất, không tái tạo; các giá trị chức năng, phi vật chất và có khả năng tái tạo của hệ thống tài nguyên biển còn ít được chú trọng.

Năm là, Việt Nam là một trong số ít nước chịu tác động mạnh mẽ nhất của thiên tai biển, biến đổi khí hậu, biến đổi đại dương, trước hết là ở vùng ven biển và các đảo nhỏ. Bên cạnh đó, tình hình Biển Đông còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường cũng ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế biển xanh ở nước ta.

Tuy nhiên, kinh tế biển xanh cũng có nhiều cơ hội để phát triển tại nước ta trong thời gian tới, cụ thể:

Một là, tăng trưởng bền vững nói chung, kinh tế biển xanh nói riêng đang trở thành mối quan tâm toàn cầu và được xem là động lực để phục hồi, thúc đẩy kinh tế và là công cụ để phát triển bền vững ở cấp độ quốc gia và cấp độ toàn cầu.

Hai là, Việt Nam có điều kiện tự nhiên thuận lợi, có tiềm năng và lợi thế cho phát triển kinh tế biển hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững kinh tế biển. Đặc biệt là vị thế của vùng ven biển, các đảo và quần đảo cho phép xây dựng thành các khu kinh tế ven biển và kinh tế đảo đặc thù gắn với bảo tồn thiên nhiên, tái tạo hệ sinh thái biển.

Ba là, Việt Nam đã ban hành các chiến lược và chính sách cụ thể, chi tiết về việc tường bước chuyển đổi nền kinh tế từ “nâu” sang “xanh”; trước hết là: Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050, Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, Chiến lược phát triển biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cũng như các cam kết quốc tế về môi trường và phát triển bền vững.

Bốn là, Việt Nam đã phê duyệt nhiều luật và các quy hoạch, kế  hoạch triển khai các nhiệm vụ liên quan đến tăng trưởng xanh như: Luật Biển Việt Nam năm 2012, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015, Luật Quy hoạch năm 2017, Luật Thuỷ sản năm 2017…

Năm là, nguồn lực để hỗ trợ xây dựng một nền kinh tế biển phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững của Việt Nam đa dạng và đáng kể, bao gồm nhân lực, tài lực, vật lực và trí lực; cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng cơ sở cho phát triển kinh tế biển, cũng như bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên biển ở nước ta đã được quan tâm và bước đầu phát huy tác dụng.

Sáu là, Việt Nam đang quyết tâm cải cách kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó kinh tế biển tiếp tục được quan tâm, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực kinh tế biển.

Một số nỗ lực phát triển kinh tế biển xanh ở nước ta

Trong những năm vừa qua, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cũng như sự góp sức ban đầu rất có ý nghĩa của các tổ chức quốc tế cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã tạo ra nhiều hành động và thực tiễn tốt, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế biển xanh ở nước ta. Dưới đây là một số nỗ lực và kết quả đạt được trong phát triển kinh tế biển xanh ở nước ta:

Một là, đã quản lý hiệu quả khu bảo tồn biển với việc thành lập và đưa vào hoạt động được mạng lưới 10 trong tổng số 16 Khu bảo tồn biển được quy hoạch tại Việt Nam.

Khu bảo tồn biển được xem là một công cụ quản lý hữu hiệu để bảo toàn tính bền vững của các vùng biển và các ngành kinh tế biển dựa vào nguồn lợi tự nhiên, như: nghề cá, du lịch và các dịch vụ đi kèm. Đảng và Chính phủ đã chủ trương phát triển kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo toàn nguồn vốn tự nhiên biển, bao gồm các khu bảo tồn biển nhằm ngăn chặn sự suy thoái, suy giảm nguồn lợi thuỷ sản và cơ sở tài nguyên biển. Cụ thể hơn, Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2030 đã yêu cầu: Quản lý và bảo vệ tốt các hệ sinh thái biển, ven biển và hải đảo; tăng diện tích các khu bảo tồn biển, ven biển đạt tối thiểu 6% diện tích tự nhiên vùng biển quốc gia; phục hồi diện tích rừng ngập mặn ven biển tối thiểu bằng mức năm 2000.

Hệ thống các khu bảo tồn biển được thành lập nhằm bảo đảm cân bằng sinh thái vùng biển, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo đảm chức năng điều hoà môi trường, nguồn giống và nguồn lợi thuỷ sản, đồng thời còn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển kinh tế lâu dài, đối với nghiên cứu khoa học, giáo dục cộng đồng, giải trí và du lịch sinh thái.

Kinh nghiệm thực tế cho thấy, quản lý tốt các khu bảo tồn biển thì sau 3 năm nguồn lợi thuỷ sản trong khu bảo tồn biển này sẽ phục hồi và sau 2 năm tiếp theo sẽ xuất hiện hiệu ứng phát tán (chất dinh dưỡng và nguồn giống thuỷ sản ) hay còn gọi là “hiệu ứng tràn” (spillover effect) ra vùng biển xung quanh. Điển hình, Khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang (Khánh Hoà), khu bảo tồn biển đầu tiên ở Việt Nam, đã giữ được vùng lõi ở khu vực Hòn Mun và các nhà đầu tư nước ngoài đã lựa chọn nơi đây làm khu vực dịch vụ du lịch lặn từ năm 1994. Như vậy, thay vì thuần chỉ khai thác tài nguyên biển ở khu vực này bằng nghề cá, chúng ta đã khai thác thành công các giá trị dịch vụ của hệ sinh thái rạn san hô ở đây với giá trị kinh tế thu được cao hơn gấp nhiều lần so với nghề cá, trong khi cá và các tài nguyên biển khác vẫn “còn nguyên”.

Ngoài ra, Việt Nam cũng vinh dự có 9 khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận, trong đó, có 6 khu phân bố ở ven biển và đảo ven bờ. Một số vùng chức năng của khu dự trữ sinh quyển có thể tiến hành các hoạt động kinh tế, nghiên cứu, giáo dục và giải trí trên cơ sở phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên mà khu dự trữ sinh quyển đem lại.

Thiết lập hệ thống khu bảo tồn biển còn có ý nghĩa pháp lý to lớn, vì nó góp thêm cơ sở và cung cấp các công cụ hành chính và pháp luật trong việc đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích của nước ta trong Biển Đông theo quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Việc thành lập và quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển nước ta còn góp phần thực hiện các cam kết quốc tế về Mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc.

Hai là, thực hiện thiết lập các khu vực cấm khai thác thuỷ sản có thời hạn. Khu vực cấm khai thác thuỷ sản có thời hạn được xác định tại những khu vực có thuỷ sản tập trung sinh sản, ấu thể thuỷ sản sinh sống trong khoảng thời gian nhất định trong năm và có thể xác định được một số đối tượng chính cần bảo vệ tại khu vực đó nhằm tái tạo, phát triển nguồn lợi thuỷ sản. Hiện nay, Thông tư 19/2018/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã quy định danh mục 47 khu vực cấm khai thác thuỷ sản có thời hạn trên các loại hình thuỷ vực, bao gồm vùng ven biển. Ngoài ra, một số tỉnh ban hành bổ sung quy định khu vực cấm khai thác thuỷ sản có thời hạn tại các thuỷ vực thuộc địa bàn quản lý của tỉnh. Trong thời gian cấm khai thác, các địa phương đều thực hiện tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm theo quy định. Đồng thời, nhiều hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức cho ngư dân cũng đã được thực hiện nhằm giảm vi phạm trong thời gian cấm.

Ba là, đầu tư cho cơ sở hạ tầng tự nhiên ở vùng ven biển. Các hệ sinh thái vùng bờ biển được xem là cơ sở hạ tầng tự nhiên ở vùng này để chống đỡ thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Kể từ năm 2010, Việt Nam đã gia nhập “Sáng kiến rừng ngập mặn cho tương lai” (Mangroves For the Future – MFF) do cực Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton khởi xướng. Đến nay, thông qua tài trợ của MFF, hàng chục dự án vừa và nhỏ đã được thực hiện ở cấp cộng đồng ven biển từ Bắc và Nam. Các dự án đều hướng đến việc cải thiện sức chống chịu của vùng ven biển nước ta trước biến đổi khí hậu, cải thiện sinh kế của người dân ven biển, trên đảo; góp phần tăng khả năng thu và giữ CO2… thông qua trồng và bảo tồn các cánh rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển; nâng cao nhận thức, phát triển du lịch sinh thái biển gắn với bảo tồn và các khu bảo tồn biển.

Bốn là, giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển từ rác thải nhựa. Tác hại của rác thải nhựa tới môi trường và hệ sinh thái biển đã được Chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP) đặt ở mức cảnh báo từ năm 2014 và trở thành một vấn đề môi trường toàn cầu, được Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học và người dân trên toàn thế giới hết sức quan tâm. Nhận thức rõ tác hại to lớn và lâu dài của rác thải nhựa nói chung, đối với kinh tế biển nói riêng, thời gian qua, cả hệ thống chính trị nước ta đã vào cuộc, các tổ chức và nhà tài trợ quốc tế cũng nỗ lực nhập cuộc. Tại Hội nghị Thượng đỉnh G7 mở rộng vào tháng 5/2018, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã hoan nghênh sáng kiến của Canada về ngăn ngừa xả rác thải đại dương, khẳng định Việt Nam sẵn sàng hợp tác với Canada và quốc tế triển khai sáng kiến này.

Tại Kỳ họp lần thứ sáu Đại hội đồng Quỹ môi trường toàn cầu (GEF6) vào tháng 6/2018, Việt Nam đã đề xuất sáng kiến “Thiết lập mối quan hệ đối tác khu vực các biển Đông Á về quản lý rác thải nhựa đại dương”. Sáng kiến nhằm thúc đẩy sự hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm với các tổ chức toàn cầu và địa phương, chuyển hoá mô hình tăng trưởng từ kinh tế tiêu thụ nhiên liệu sang kinh tế tuần hoàn, huy động sự tham gia của các cấp, các nhà sản xuất, thiết lập cơ chế chia sẻ thông tin và kiến thức về quản lý rác thải đại dương giữa các quốc gia trong khu vực.

Việt Nam cũng đã tham gia Dự án của IUCN “Sáng kiến về rác thải nhựa đại dương và các công đồng ven biển” (MARPLASTICSs) do Cơ quan Phát triển quốc tế Thuỵ Điển (Sida) tài trợ, thực hiện tại 5 quốc gia châu Phi và châu Á. Đầu năm 2020, phối hợp với Viện Nước quốc tế Thuỵ Điển, dự án đã hoàn thành việc xây dựng bộ tiêu chí và thử xác định các điểm nóng rác thải nhựa ở nước ta, cũng như đã đánh giá tình hình và quản trị rác thải nhựa ở lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn và vùng ven biển Quảng Nam – Đà Nẵng theo cách tiếp cận “từ nguồn ra biển” (from source to sea).

Theo Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu tạo đột phá và chuyển biến căn bản về nhận thức, ứng xử và hành vi của toàn cộng đồng trong sản xuất, tiêu dùng, thải bỏ sản phẩm nhựa và thu gom, xử lý rác thải nhựa. Đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu 100% các khu du lịch, dịch vụ ven biển không  sử dụng các sản phẩm nhựa sử dụng một lần và túi nilon khó phân huỷ, chấm dứt việc thải bỏ ngư cụ trực tiếp xuống biển, hạn chế cơ bản việc nhập khẩu phế liệu nhựa làm nguyên liệu trong sản xuất công nghiệp tại các khu chế xuất, khu công nghiệp ven biển; giảm thiểu 75% rác thải nhựa đại dương; 100% các khu bảo tồn biển không còn rác thải nhựa.

Minh Trang