Xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp – Những vướng mắc từ thực tiễn
Xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp – Những vướng mắc từ thực tiễnBộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14) (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015) có nhiều quy định mới về vấn đề xóa án tích, bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, giao cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhậnkhông có án tích, nếu có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trên thực tiễn công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp đang gặp phải những vướng mắc, bất cập…1. Quy định của pháp luật hình sự về vấn đề xóa án tích
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. Bộ luật Hình sự quy định có 02 loại xóa án tích: đương nhiên được xóa án tích và xóa án tích theo quyết định của Tòa án, cụ thể:
(1) Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự (các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh). Điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 là quy định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích sớm hơn so với Bộ luật Hình sựnăm 1999 theo hướng kể từ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án[1]; đồng thời, rút ngắn thời hạn để được xóa án tích theo hướng còn 02 năm (đối với trường hợp bị phạt tù đến 05 năm); 03 năm (đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm) và 05 năm (đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án) (khoản 2, 3 Điều 70).
Đặc biệt, Bộ luật Hình sựnăm 2015 đã bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, mà giao trách nhiệm cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (LLTP)cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu LLTP xác nhận không có án tích nếu có đủ điều kiện theo quy định củaBộ luật Hình sự[2]. Tại Khoản 4, điều 70, Bộ luật Hình sự năm 2015, quy định: Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu LLTP xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này. Đồng thời, khoản 1 Điều 369 của Bộ luật tố tụng hình sựnăm 2015 quy định: Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của người được đương nhiên xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cấp Phiếu LLTP là họ không có án tích
(2) Xóa án tích theo quyết định của Tòa án được áp dụng đối với người bị kết án về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự. Khác với trường hợp đương nhiên được xóa án tích, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền quyết định việc xóa án tích đối với những người đã bị kết án về các tội nêu trên (Điều 71 Bộ luật Hình sự 2015).Người bị kết án phải có đơn gửi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Nếu xét thấy đủ điều kiện, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định xóa án tích; trường hợp chưa đủ điều kiện thì quyết định bác đơn xin xóa án tích (khoản 2 Điều 369 Bộ luật tố tụng hình sự).
Ngoài ra, Bộ luật Hình sự 2015 (Điều 72) cũng quy định về việc xóa án tích trong trường hợp đặc biệt, theo đó trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.
2. Quy định của pháp luật về LLTP liên quan đến vấn đề xóa án tích
Luật Lý lịch tư phápnăm 2009 cũng có quy định liên quan đến việc xóa án tích. Điều 33 Luật này quy định: Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cập nhật, xử lý thông tin LLTP trong trường hợp người bị kết án được xóa án tích, cụ thể: (1) khi nhận được giấy chứng nhận xóa án tích hoặc quyết định xoá án tích của Toà án thì ghi “đã được xoá án tích” vào LLTP của người đó và (2) khi xác định một người có đủ điều kiện đương nhiên được xoá án tích theo quy định của Bộ luật hình sựthì ghi “đã được xoá án tích” vào LLTP của người đó.
Như vậy, theo quy định của Luật LLTP, trong quá trình cập nhật thông tin của người bị kết xóa án,khi xác định được người bị kết án đã có đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích,Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cập nhật thông tin, ghi rõ việc “đã được xóa án tích” vào LLTP của người bị kết án; trường hợp có yêu cầu thì cấp Phiếu LLTP cho người đó và ghi là “không có án tích”.
Để hướng dẫn chi tiết nội dung này, Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật LLTP (Điều 17) đã xác định rõ trách nhiệm của Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp trong việc xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người bị kết án.Theo đó, việc xác minh được tiến hành trong trường hợp người bị kết án đã có đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự, nhưng Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư phápchưa nhận được Giấy chứng nhận đương nhiên xóa án tích đối với người đó do Tòa án gửi đến.
Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư phápcó nhiệm vụ xác minh về việc người đó có bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời hạn đang có án tích hay không. Việc xác minh được thực hiện tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, làm việc sau khi chấp hành xong bản án. Cán bộ tư pháp – hộ tịch cấp xã có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân thực hiện phối hợp xác minh. Trong quá trình xác minh tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức, nếu thấy cần thiết thì xác minh tại cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan. Trình tự, thủ tục xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích cũng được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin LLTP (Điều 25).
Ngoài việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP như đã nêu ở trên, Luật LLTP (Khoản 3 Điều 44) cũng có quy định việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu LLTP, đó là“trong trường hợp cần thiết, Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP”.Vì vậy, trong trường hợp thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người bị kết án chưa được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP, chủ yếu là đối với thông tin có trước ngày 01/7/2010 (ngày Luật LLTP có hiệu lực pháp luật), Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu LLTP. Quy trình xác minh cũng tương tự như đối với trường hợp xác minh thông tin để cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP.
3.Thực tiễn công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích
– Trước đây,đối với những trường hợpngười dân đã có án tích đến xin cấp Phiếu LLTP, để bảo đảm thời hạn cấp Phiếu LLTP,Sở Tư pháp thườnghướng dẫn người dân đến Tòa án xin cấp giấy chứng nhận xóa án tích.Trên cơ sở giấy chứng nhận của Tòa án, Sở Tư pháp cấp Phiếu LLTP cho người dân. Chỉ có một số ít trường hợp Sở Tư pháp trực tiếp xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP. Mặc dù xác minh với số lượng rất ít, nhưng các Sở Tư pháp đã gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất của các Sở Tư pháp khi thực hiện xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích, đó là không có đủ thông tin về bản án hình sự hoặc không có đủ thông tin về quá trình thi hành các quyết định của Tòa án trong bản án (nhưngười bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, án phí, trách nhiệm dân sựcũng như thông tin về người bị kết án có phạm tội mới trong thời gian cóán tích?), đặc biệt là đối với thông tin có trước ngày 01/7/2010[3]
– Đối với các trường hợp kết quả tra cứu của cơ quan Công an xác nhận là có án tích; nếu người bị kết án đã đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích, đối với các bản án có trước ngày 01/7/2010, Sở Tư pháp phải đề nghị Tòa án đã xét xử cung cấp bản án và các cơ quan có liên quan cung cấp thông tin về quá trình thi hành án. Nhiều trường hợp, bản án đã được Tòa án tuyên khá lâu nên người bị kết án cũng như các cơ quan có liên quan không còn lưu giữ được các giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc thi hành bản án… Cơ quan cấp Phiếu LLTP còn gặp nhiều khó khăn đối với những trường hợp một người có nhiều án tích hoặc cư trú ở nhiều địa phương khác nhau. Có những trường hợp,Sở Tư pháp đã phải xác minh đến 7-8 cơ quan, trong khoảng 4-5 tháng nhưng vẫn chưa đủ căn cứ xác định rõ tình trạng án tích của công dânđể cấp Phiếu LLTP. Vì vậy, hầu hết các trường hợp phải xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích, thời hạn cấp Phiếu thường không bảo đảm được đúng quy định của Luật LLTP.
Hơn nữa, công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, sự phối hợp chặt chẽ, trách nhiệm của các cơ quan có liên quan cũng như đòi hỏi cán bộ làm công tác này phải có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu về pháp luật hình sự và pháp luật về LLTP. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ làm công tác LLTP tại các Sở Tư pháp còn thiếu về số lượng, kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nên cũng gặp khó khăn trong công tác này.
– Kể từ ngày Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực thi hành thì toàn bộ việc xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP sẽ do Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Trung tâm LLTP quốc gia và các Sở Tư pháp)thực hiện. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự 2015 quy định một trong những điều kiện đương nhiên được xóa án tích là người bị kết án không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn Bộ luật này quy định (khoản 2 Điều 70). Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 “Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”. Như vậy, có thể xác định một người thực hiện hành vi phạm tội khi người đó bị khởi tố cho đến khi bị điều tra, truy tố, xét xử. Để thực hiện nhiệm vụ quản lý, theo dõi thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của cá nhân theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP sẽ rất khó khănvì cơ sở dữ liệu LLTP hiện nay không quản lý và lưu trữ các thông tin từ giai đoạn khởi tố mà chỉ lưu trữ, quản lý thông tin từ giai đoạn có bản án có hiệu lực pháp luật.
– Có quan điểm cho rằng, trường hợp kết quả tra cứu của cơ quan Công an xác nhận là “có án tích” và người bị kết án đã có đủ điều kiện về thời gian để đương nhiên được xóa án tích thì Sở Tư pháp vẫn thực hiện cấp Phiếu LLTP với nội dung xác nhận là “có án tích”. Còn việc Sở Tư pháp thực hiện các thủ tục thu thập bản án, thông tin về quá trình thi hành bản án và điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người được cấp Phiếu LLTP không nằm trong quy trình cấp Phiếu LLTP, mà đây là một quy trình riêng trong xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP của Sở Tư pháp. Sở Tư pháp chỉ cấp Phiếu với nội dung “không có án tích” khi thông tin về việc đương nhiên được xóa án tích đã được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP.
Về vấn đề này, tác giả cho rằng, theo quy định của Luật LLTP, Phiếu LLTP là giấy tờ xác nhận cá nhân có hay không có án tích. Cũng theo quy định của Luật LLTP, cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm cập nhật thông tin về án tích và tình trạng thi hành án vào Lý lịch tư pháp của người bị kết án, bao gồm cả thông tin về việc đương nhiên được xóa án tích (Điều 33 Luật LLTP). Tuy nhiên, Luật LLTP cũng quy định, trường hợp cần thiết, Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện được đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP (khoản 3 Điều 44). Đây là quy định mang tính nhân văn của Luật LLTP, nhằm tạo ra một khả năng, một cơ hội cho người đã từng bị kết án lựa chọn cách thức xác nhận sự kiện mình được xóa án tích sao cho tiện lợi nhất.Phiếu LLTP trong đó ghi “không có án tích” sẽ tạo điều kiện cho người bị kết án tái hoà nhập cộng đồng, bớt mặc cảm và không bị cộng đồng phân biệt đối xử. Thực tế cho thấy người đã được xoá án tích có thể tham gia vào các quan hệ xã hội như xin việc làm, xuất khẩu lao động, du học, thăm thân nhân, xuất cảnh, thành lập doanh nghiệp… khi có Phiếu LLTP “sạch” xác nhận nội dung “không có án tích”. Với việc xác nhận của Phiếu LLTP, người được xoá án tích mới “thực sự” được coi như chưa bị kết án và hoà nhập cộng đồng một cách dễ dàng hơn.
Như vậy, trường hợp người bị kết án đã đủ điều kiện được đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự nhưng thông tin này chưa được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP thì Sở Tư pháp, Trung tâm LLTP quốc gia có trách nhiệm xác minh về điều kiện được đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP. Quy trình xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 111/2010/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT/BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP như đã nêu tại Mục 2 trên đây.
4. Một số đề xuất, kiến nghị
Để bảo đảmthi hành những quy định mới củaBộ luật Hình sựnăm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xóa án tích, đồng thời khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích trong thời gian qua,chúng tôi có một số đề xuất, cụ thể như sau:
Thứ nhất,Bộ luật Hình sự năm 2015 đã giao hẳn trách nhiệm cho Cơ quan quản lý CSDL LLTP trong việc theo dõi vấn đề xóa án tích đương nhiên của người bị kết án. Do đó, để phục vụ việc xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích, bảo đảm thời hạn cấp Phiếu LLTP cho cá nhân theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như đã nêu trên, cần thiết phải bổ sung quy định cụ thể về cơ chế phối hợp, cung cấp thông tingiữa cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP và các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự, UBND cấp xã…về điều kiện đương nhiên xóa án tích của người bị kết án, đặc biệt là thông tin về hành vi phạm tội mới trong thời gian có án tích của người bị kết án.Cũng cần nghiên cứu, bổ sung quy định trường hợp những bản án được tuyên trước đây nhưng các cơ quan có thẩm quyền không còn lưu trữ được hồ sơ bản án, quá trình thi hành án nên không cung cấp được thông tin về án tích của người đã bị kết án thì cơ quan cấp Phiếu LLTP được xác nhận người đó “không có án tích” trong Phiếu LLTP.
Thứ hai,tăng cường công tác cung cấp, tiếp nhận thông tin LLTP để xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP, chủ động rà soát, cập nhật thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người đã bị kết án vào Cơ sở dữ liệu LLTP, bảo đảm vai trò chủ động của Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp trong xây dựng, quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP.
Thứ ba,tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, trong đó chú trọng bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cấp Phiếu LLTP, những nội dung mới của Bộ luật Hình sự 2015 liên quan đến công tác LLTP, đặc biệt là nghiệp vụ xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích.
Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác LLTP, áp dụng các phương thức cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính, cấp Phiếu trực tuyến, đẩy mạnh cải cách hành chính, rút ngắn thời hạn cấp Phiếu LLTP, tạo thuận lợi nhất cho cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Đỗ Thị Thúy Lan
Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia[1] Trước đây, theo quy định của Bộ luật Hình sự 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), thời điểm để tính thời hạn xóa án tích là kể từ khi người bị kết án chấp hành xong bản án (chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác trong bản án (nghĩa vụ dân sự, án phí…) hoặc kể từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.[2] Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015[3] Theo quy định của Luật LLTP, Cơ sở dữ liệu LLTP được xây dựng từ ngày 01/7/2010. Đối với thông tin có trước ngày 01/7/2010, cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án, Viện Kiểm sát và các cơ quan có liên quan xác minh, thu thập thông tin để cấp Phiếu LLTP.
Xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp – Những vướng mắc từ thực tiễn
Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14) (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015) có nhiều quy định mới về vấn đề xóa án tích, bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, giao cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhậnkhông có án tích, nếu có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trên thực tiễn công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp đang gặp phải những vướng mắc, bất cập…
1. Quy định của pháp luật hình sự về vấn đề xóa án tích
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. Bộ luật Hình sự quy định có 02 loại xóa án tích: đương nhiên được xóa án tích và xóa án tích theo quyết định của Tòa án, cụ thể:
(1) Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự (các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh). Điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 là quy định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích sớm hơn so với Bộ luật Hình sựnăm 1999 theo hướng kể từ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án
Đặc biệt, Bộ luật Hình sựnăm 2015 đã bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, mà giao trách nhiệm cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (LLTP)cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu LLTP xác nhận không có án tích nếu có đủ điều kiện theo quy định củaBộ luật Hình sự
(2) Xóa án tích theo quyết định của Tòa án được áp dụng đối với người bị kết án về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự. Khác với trường hợp đương nhiên được xóa án tích, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền quyết định việc xóa án tích đối với những người đã bị kết án về các tội nêu trên (Điều 71 Bộ luật Hình sự 2015).Người bị kết án phải có đơn gửi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Nếu xét thấy đủ điều kiện, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định xóa án tích; trường hợp chưa đủ điều kiện thì quyết định bác đơn xin xóa án tích (khoản 2 Điều 369 Bộ luật tố tụng hình sự).
Ngoài ra, Bộ luật Hình sự 2015 (Điều 72) cũng quy định về việc xóa án tích trong trường hợp đặc biệt, theo đó trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.
2. Quy định của pháp luật về LLTP liên quan đến vấn đề xóa án tích
Luật Lý lịch tư phápnăm 2009 cũng có quy định liên quan đến việc xóa án tích. Điều 33 Luật này quy định: Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cập nhật, xử lý thông tin LLTP trong trường hợp người bị kết án được xóa án tích, cụ thể: (1) khi nhận được giấy chứng nhận xóa án tích hoặc quyết định xoá án tích của Toà án thì ghi “đã được xoá án tích” vào LLTP của người đó và (2) khi xác định một người có đủ điều kiện đương nhiên được xoá án tích theo quy định của Bộ luật hình sựthì ghi “đã được xoá án tích” vào LLTP của người đó.
Như vậy, theo quy định của Luật LLTP, trong quá trình cập nhật thông tin của người bị kết xóa án,khi xác định được người bị kết án đã có đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích,Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cập nhật thông tin, ghi rõ việc “đã được xóa án tích” vào LLTP của người bị kết án; trường hợp có yêu cầu thì cấp Phiếu LLTP cho người đó và ghi là “không có án tích”.
Để hướng dẫn chi tiết nội dung này, Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật LLTP (Điều 17) đã xác định rõ trách nhiệm của Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp trong việc xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người bị kết án.Theo đó, việc xác minh được tiến hành trong trường hợp người bị kết án đã có đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự, nhưng Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư phápchưa nhận được Giấy chứng nhận đương nhiên xóa án tích đối với người đó do Tòa án gửi đến.
Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư phápcó nhiệm vụ xác minh về việc người đó có bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời hạn đang có án tích hay không. Việc xác minh được thực hiện tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, làm việc sau khi chấp hành xong bản án. Cán bộ tư pháp – hộ tịch cấp xã có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân thực hiện phối hợp xác minh. Trong quá trình xác minh tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức, nếu thấy cần thiết thì xác minh tại cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan. Trình tự, thủ tục xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích cũng được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin LLTP (Điều 25).
Ngoài việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP như đã nêu ở trên, Luật LLTP (Khoản 3 Điều 44) cũng có quy định việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu LLTP, đó là“trong trường hợp cần thiết, Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP”.Vì vậy, trong trường hợp thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người bị kết án chưa được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP, chủ yếu là đối với thông tin có trước ngày 01/7/2010 (ngày Luật LLTP có hiệu lực pháp luật), Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu LLTP. Quy trình xác minh cũng tương tự như đối với trường hợp xác minh thông tin để cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP.
3.Thực tiễn công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích
– Trước đây,đối với những trường hợpngười dân đã có án tích đến xin cấp Phiếu LLTP, để bảo đảm thời hạn cấp Phiếu LLTP,Sở Tư pháp thườnghướng dẫn người dân đến Tòa án xin cấp giấy chứng nhận xóa án tích.Trên cơ sở giấy chứng nhận của Tòa án, Sở Tư pháp cấp Phiếu LLTP cho người dân. Chỉ có một số ít trường hợp Sở Tư pháp trực tiếp xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP. Mặc dù xác minh với số lượng rất ít, nhưng các Sở Tư pháp đã gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất của các Sở Tư pháp khi thực hiện xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích, đó là không có đủ thông tin về bản án hình sự hoặc không có đủ thông tin về quá trình thi hành các quyết định của Tòa án trong bản án (nhưngười bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, án phí, trách nhiệm dân sựcũng như thông tin về người bị kết án có phạm tội mới trong thời gian cóán tích?), đặc biệt là đối với thông tin có trước ngày 01/7/2010
– Đối với các trường hợp kết quả tra cứu của cơ quan Công an xác nhận là có án tích; nếu người bị kết án đã đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích, đối với các bản án có trước ngày 01/7/2010, Sở Tư pháp phải đề nghị Tòa án đã xét xử cung cấp bản án và các cơ quan có liên quan cung cấp thông tin về quá trình thi hành án. Nhiều trường hợp, bản án đã được Tòa án tuyên khá lâu nên người bị kết án cũng như các cơ quan có liên quan không còn lưu giữ được các giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc thi hành bản án… Cơ quan cấp Phiếu LLTP còn gặp nhiều khó khăn đối với những trường hợp một người có nhiều án tích hoặc cư trú ở nhiều địa phương khác nhau. Có những trường hợp,Sở Tư pháp đã phải xác minh đến 7-8 cơ quan, trong khoảng 4-5 tháng nhưng vẫn chưa đủ căn cứ xác định rõ tình trạng án tích của công dânđể cấp Phiếu LLTP. Vì vậy, hầu hết các trường hợp phải xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích, thời hạn cấp Phiếu thường không bảo đảm được đúng quy định của Luật LLTP.
Hơn nữa, công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, sự phối hợp chặt chẽ, trách nhiệm của các cơ quan có liên quan cũng như đòi hỏi cán bộ làm công tác này phải có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu về pháp luật hình sự và pháp luật về LLTP. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ làm công tác LLTP tại các Sở Tư pháp còn thiếu về số lượng, kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nên cũng gặp khó khăn trong công tác này.
– Kể từ ngày Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực thi hành thì toàn bộ việc xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP sẽ do Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Trung tâm LLTP quốc gia và các Sở Tư pháp)thực hiện. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự 2015 quy định một trong những điều kiện đương nhiên được xóa án tích là người bị kết án không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn Bộ luật này quy định (khoản 2 Điều 70). Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 “Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”. Như vậy, có thể xác định một người thực hiện hành vi phạm tội khi người đó bị khởi tố cho đến khi bị điều tra, truy tố, xét xử. Để thực hiện nhiệm vụ quản lý, theo dõi thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của cá nhân theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP sẽ rất khó khănvì cơ sở dữ liệu LLTP hiện nay không quản lý và lưu trữ các thông tin từ giai đoạn khởi tố mà chỉ lưu trữ, quản lý thông tin từ giai đoạn có bản án có hiệu lực pháp luật.
– Có quan điểm cho rằng, trường hợp kết quả tra cứu của cơ quan Công an xác nhận là “có án tích” và người bị kết án đã có đủ điều kiện về thời gian để đương nhiên được xóa án tích thì Sở Tư pháp vẫn thực hiện cấp Phiếu LLTP với nội dung xác nhận là “có án tích”. Còn việc Sở Tư pháp thực hiện các thủ tục thu thập bản án, thông tin về quá trình thi hành bản án và điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người được cấp Phiếu LLTP không nằm trong quy trình cấp Phiếu LLTP, mà đây là một quy trình riêng trong xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP của Sở Tư pháp. Sở Tư pháp chỉ cấp Phiếu với nội dung “không có án tích” khi thông tin về việc đương nhiên được xóa án tích đã được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP.
Về vấn đề này, tác giả cho rằng, theo quy định của Luật LLTP, Phiếu LLTP là giấy tờ xác nhận cá nhân có hay không có án tích. Cũng theo quy định của Luật LLTP, cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm cập nhật thông tin về án tích và tình trạng thi hành án vào Lý lịch tư pháp của người bị kết án, bao gồm cả thông tin về việc đương nhiên được xóa án tích (Điều 33 Luật LLTP). Tuy nhiên, Luật LLTP cũng quy định, trường hợp cần thiết, Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện được đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP (khoản 3 Điều 44). Đây là quy định mang tính nhân văn của Luật LLTP, nhằm tạo ra một khả năng, một cơ hội cho người đã từng bị kết án lựa chọn cách thức xác nhận sự kiện mình được xóa án tích sao cho tiện lợi nhất.Phiếu LLTP trong đó ghi “không có án tích” sẽ tạo điều kiện cho người bị kết án tái hoà nhập cộng đồng, bớt mặc cảm và không bị cộng đồng phân biệt đối xử. Thực tế cho thấy người đã được xoá án tích có thể tham gia vào các quan hệ xã hội như xin việc làm, xuất khẩu lao động, du học, thăm thân nhân, xuất cảnh, thành lập doanh nghiệp… khi có Phiếu LLTP “sạch” xác nhận nội dung “không có án tích”. Với việc xác nhận của Phiếu LLTP, người được xoá án tích mới “thực sự” được coi như chưa bị kết án và hoà nhập cộng đồng một cách dễ dàng hơn.
Như vậy, trường hợp người bị kết án đã đủ điều kiện được đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự nhưng thông tin này chưa được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP thì Sở Tư pháp, Trung tâm LLTP quốc gia có trách nhiệm xác minh về điều kiện được đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP. Quy trình xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 111/2010/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT/BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP như đã nêu tại Mục 2 trên đây.
4. Một số đề xuất, kiến nghị
Để bảo đảmthi hành những quy định mới củaBộ luật Hình sựnăm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xóa án tích, đồng thời khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích trong thời gian qua,chúng tôi có một số đề xuất, cụ thể như sau:
Thứ nhất,Bộ luật Hình sự năm 2015 đã giao hẳn trách nhiệm cho Cơ quan quản lý CSDL LLTP trong việc theo dõi vấn đề xóa án tích đương nhiên của người bị kết án. Do đó, để phục vụ việc xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích, bảo đảm thời hạn cấp Phiếu LLTP cho cá nhân theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như đã nêu trên, cần thiết phải bổ sung quy định cụ thể về cơ chế phối hợp, cung cấp thông tingiữa cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP và các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự, UBND cấp xã…về điều kiện đương nhiên xóa án tích của người bị kết án, đặc biệt là thông tin về hành vi phạm tội mới trong thời gian có án tích của người bị kết án.Cũng cần nghiên cứu, bổ sung quy định trường hợp những bản án được tuyên trước đây nhưng các cơ quan có thẩm quyền không còn lưu trữ được hồ sơ bản án, quá trình thi hành án nên không cung cấp được thông tin về án tích của người đã bị kết án thì cơ quan cấp Phiếu LLTP được xác nhận người đó “không có án tích” trong Phiếu LLTP.
Thứ hai,tăng cường công tác cung cấp, tiếp nhận thông tin LLTP để
Thứ ba,tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, trong đó chú trọng bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cấp Phiếu LLTP, những nội dung mới của Bộ luật Hình sự 2015 liên quan đến công tác LLTP, đặc biệt là nghiệp vụ xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích.
Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác LLTP, áp dụng các phương thức cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính, cấp Phiếu trực tuyến, đẩy mạnh cải cách hành chính, rút ngắn thời hạn cấp Phiếu LLTP, tạo thuận lợi nhất cho cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Đỗ Thị Thúy Lan
Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia
[1] Trước đây, theo quy định của Bộ luật Hình sự 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), thời điểm để tính thời hạn xóa án tích là kể từ khi người bị kết án chấp hành xong bản án (chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác trong bản án (nghĩa vụ dân sự, án phí…) hoặc kể từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.[2] Điều 70 Bộ luật Hình sự 2015[3] Theo quy định của Luật LLTP, Cơ sở dữ liệu LLTP được xây dựng từ ngày 01/7/2010. Đối với thông tin có trước ngày 01/7/2010, cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án, Viện Kiểm sát và các cơ quan có liên quan xác minh, thu thập thông tin để cấp Phiếu LLTP.
Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. Bộ luật Hình sự quy định có 02 loại xóa án tích: đương nhiên được xóa án tích và xóa án tích theo quyết định của Tòa án, cụ thể:(1) Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự (các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh). Điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 là quy định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích sớm hơn so với Bộ luật Hình sựnăm 1999 theo hướng kể từ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án [1] ; đồng thời, rút ngắn thời hạn để được xóa án tích theo hướng còn 02 năm (đối với trường hợp bị phạt tù đến 05 năm); 03 năm (đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm) và 05 năm (đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án) (khoản 2, 3 Điều 70).Đặc biệt, Bộ luật Hình sựnăm 2015 đã bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, mà giao trách nhiệm cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (LLTP)cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu LLTP xác nhận không có án tích nếu có đủ điều kiện theo quy định củaBộ luật Hình sự [2] . Tại Khoản 4, điều 70, Bộ luật Hình sự năm 2015, quy định: “Cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu LLTP xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này”. Đồng thời, khoản 1 Điều 369 của Bộ luật tố tụng hình sựnăm 2015 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của người được đương nhiên xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP cấp Phiếu LLTP là họ không có án tích”.(2) Xóa án tích theo quyết định của Tòa án được áp dụng đối với người bị kết án về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật Hình sự. Khác với trường hợp đương nhiên được xóa án tích, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền quyết định việc xóa án tích đối với những người đã bị kết án về các tội nêu trên (Điều 71 Bộ luật Hình sự 2015).Người bị kết án phải có đơn gửi Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Nếu xét thấy đủ điều kiện, Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định xóa án tích; trường hợp chưa đủ điều kiện thì quyết định bác đơn xin xóa án tích (khoản 2 Điều 369 Bộ luật tố tụng hình sự).Ngoài ra, Bộ luật Hình sự 2015 (Điều 72) cũng quy định về việc xóa án tích trong trường hợp đặc biệt, theo đó trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú đề nghị, thì Tòa án quyết định việc xóa án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 và khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.Luật Lý lịch tư phápnăm 2009 cũng có quy định liên quan đến việc xóa án tích. Điều 33 Luật này quy định: Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cập nhật, xử lý thông tin LLTP trong trường hợp người bị kết án được xóa án tích, cụ thể: (1) khi nhận được giấy chứng nhận xóa án tích hoặc quyết định xoá án tích của Toà án thì ghi “đã được xoá án tích” vào LLTP của người đó và (2) khi xác định một người có đủ điều kiện đương nhiên được xoá án tích theo quy định của Bộ luật hình sựthì ghi “đã được xoá án tích” vào LLTP của người đó.Như vậy, theo quy định của Luật LLTP, trong quá trình cập nhật thông tin của người bị kết xóa án,khi xác định được người bị kết án đã có đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích,Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cập nhật thông tin, ghi rõ việc “đã được xóa án tích” vào LLTP của người bị kết án; trường hợp có yêu cầu thì cấp Phiếu LLTP cho người đó và ghi là “không có án tích”.Để hướng dẫn chi tiết nội dung này, Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật LLTP (Điều 17) đã xác định rõ trách nhiệm của Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp trong việc xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người bị kết án.Theo đó, việc xác minh được tiến hành trong trường hợp người bị kết án đã có đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự, nhưng Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư phápchưa nhận được Giấy chứng nhận đương nhiên xóa án tích đối với người đó do Tòa án gửi đến.Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư phápcó nhiệm vụ xác minh về việc người đó có bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời hạn đang có án tích hay không. Việc xác minh được thực hiện tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, làm việc sau khi chấp hành xong bản án. Cán bộ tư pháp – hộ tịch cấp xã có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân thực hiện phối hợp xác minh. Trong quá trình xác minh tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức, nếu thấy cần thiết thì xác minh tại cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan. Trình tự, thủ tục xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích cũng được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin LLTP (Điều 25).Ngoài việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP như đã nêu ở trên, Luật LLTP (Khoản 3 Điều 44) cũng có quy định việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu LLTP, đó là“trong trường hợp cần thiết, Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP”.Vì vậy, trong trường hợp thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người bị kết án chưa được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP, chủ yếu là đối với thông tin có trước ngày 01/7/2010 (ngày Luật LLTP có hiệu lực pháp luật), Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu LLTP. Quy trình xác minh cũng tương tự như đối với trường hợp xác minh thông tin để cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP.- Trước đây,đối với những trường hợpngười dân đã có án tích đến xin cấp Phiếu LLTP, để bảo đảm thời hạn cấp Phiếu LLTP,Sở Tư pháp thườnghướng dẫn người dân đến Tòa án xin cấp giấy chứng nhận xóa án tích.Trên cơ sở giấy chứng nhận của Tòa án, Sở Tư pháp cấp Phiếu LLTP cho người dân. Chỉ có một số ít trường hợp Sở Tư pháp trực tiếp xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP. Mặc dù xác minh với số lượng rất ít, nhưng các Sở Tư pháp đã gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất của các Sở Tư pháp khi thực hiện xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích, đó là không có đủ thông tin về bản án hình sự hoặc không có đủ thông tin về quá trình thi hành các quyết định của Tòa án trong bản án (nhưngười bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, án phí, trách nhiệm dân sựcũng như thông tin về người bị kết án có phạm tội mới trong thời gian cóán tích?), đặc biệt là đối với thông tin có trước ngày 01/7/2010 [3] – Đối với các trường hợp kết quả tra cứu của cơ quan Công an xác nhận là có án tích; nếu người bị kết án đã đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích, đối với các bản án có trước ngày 01/7/2010, Sở Tư pháp phải đề nghị Tòa án đã xét xử cung cấp bản án và các cơ quan có liên quan cung cấp thông tin về quá trình thi hành án. Nhiều trường hợp, bản án đã được Tòa án tuyên khá lâu nên người bị kết án cũng như các cơ quan có liên quan không còn lưu giữ được các giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc thi hành bản án… Cơ quan cấp Phiếu LLTP còn gặp nhiều khó khăn đối với những trường hợp một người có nhiều án tích hoặc cư trú ở nhiều địa phương khác nhau. Có những trường hợp,Sở Tư pháp đã phải xác minh đến 7-8 cơ quan, trong khoảng 4-5 tháng nhưng vẫn chưa đủ căn cứ xác định rõ tình trạng án tích của công dânđể cấp Phiếu LLTP. Vì vậy, hầu hết các trường hợp phải xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích, thời hạn cấp Phiếu thường không bảo đảm được đúng quy định của Luật LLTP.Hơn nữa, công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, sự phối hợp chặt chẽ, trách nhiệm của các cơ quan có liên quan cũng như đòi hỏi cán bộ làm công tác này phải có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu về pháp luật hình sự và pháp luật về LLTP. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ làm công tác LLTP tại các Sở Tư pháp còn thiếu về số lượng, kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nên cũng gặp khó khăn trong công tác này.- Kể từ ngày Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực thi hành thì toàn bộ việc xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP sẽ do Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP (Trung tâm LLTP quốc gia và các Sở Tư pháp)thực hiện. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự 2015 quy định một trong những điều kiện đương nhiên được xóa án tích là người bị kết ántrong thời hạn Bộ luật này quy định (khoản 2 Điều 70). Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 “Khi có đủ căn cứ để xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can”. Như vậy, có thể xác định một người thực hiện hành vi phạm tội khi người đó bị khởi tố cho đến khi bị điều tra, truy tố, xét xử. Để thực hiện nhiệm vụ quản lý, theo dõi thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của cá nhân theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP sẽ rất khó khănvì cơ sở dữ liệu LLTP hiện nay không quản lý và lưu trữ các thông tin từ giai đoạn khởi tố mà chỉ lưu trữ, quản lý thông tin từ giai đoạn có bản án có hiệu lực pháp luật.- Có quan điểm cho rằng, trường hợp kết quả tra cứu của cơ quan Công an xác nhận là “có án tích” và người bị kết án đã có đủ điều kiện về thời gian để đương nhiên được xóa án tích thì Sở Tư pháp vẫn thực hiện cấp Phiếu LLTP với nội dung xác nhận là “có án tích”. Còn việc Sở Tư pháp thực hiện các thủ tục thu thập bản án, thông tin về quá trình thi hành bản án và điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người được cấp Phiếu LLTP không nằm trong quy trình cấp Phiếu LLTP, mà đây là một quy trình riêng trong xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP của Sở Tư pháp. Sở Tư pháp chỉ cấp Phiếu với nội dung “không có án tích” khi thông tin về việc đương nhiên được xóa án tích đã được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP.Về vấn đề này, tác giả cho rằng, theo quy định của Luật LLTP, Phiếu LLTP là giấy tờ xác nhận cá nhân có hay không có án tích. Cũng theo quy định của Luật LLTP, cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP có trách nhiệm cập nhật thông tin về án tích và tình trạng thi hành án vào Lý lịch tư pháp của người bị kết án, bao gồm cả thông tin về việc đương nhiên được xóa án tích (Điều 33 Luật LLTP). Tuy nhiên, Luật LLTP cũng quy định, trường hợp cần thiết, Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện được đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP (khoản 3 Điều 44). Đây là quy định mang tính nhân văn của Luật LLTP, nhằm tạo ra một khả năng, một cơ hội cho người đã từng bị kết án lựa chọn cách thức xác nhận sự kiện mình được xóa án tích sao cho tiện lợi nhất.Phiếu LLTP trong đó ghi “không có án tích” sẽ tạo điều kiện cho người bị kết án tái hoà nhập cộng đồng, bớt mặc cảm và không bị cộng đồng phân biệt đối xử. Thực tế cho thấy người đã được xoá án tích có thể tham gia vào các quan hệ xã hội như xin việc làm, xuất khẩu lao động, du học, thăm thân nhân, xuất cảnh, thành lập doanh nghiệp… khi có Phiếu LLTP “sạch” xác nhận nội dung “không có án tích”. Với việc xác nhận của Phiếu LLTP, người được xoá án tích mới “thực sự” được coi như chưa bị kết án và hoà nhập cộng đồng một cách dễ dàng hơn.Như vậy, trường hợp người bị kết án đã đủ điều kiện được đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự nhưng thông tin này chưa được cập nhật vào Cơ sở dữ liệu LLTP thì Sở Tư pháp, Trung tâm LLTP quốc gia có trách nhiệm xác minh về điều kiện được đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu LLTP. Quy trình xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 111/2010/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT/BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP như đã nêu tại Mục 2 trên đây.Để bảo đảmthi hành những quy định mới củaBộ luật Hình sựnăm 2015 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xóa án tích, đồng thời khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích trong thời gian qua,chúng tôi có một số đề xuất, cụ thể như sau:Bộ luật Hình sự năm 2015 đã giao hẳn trách nhiệm cho Cơ quan quản lý CSDL LLTP trong việc theo dõi vấn đề xóa án tích đương nhiên của người bị kết án. Do đó, để phục vụ việc xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích, bảo đảm thời hạn cấp Phiếu LLTP cho cá nhân theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như đã nêu trên, cần thiết phải bổ sung quy định cụ thể về cơ chế phối hợp, cung cấp thông tingiữa cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu LLTP và các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án dân sự, UBND cấp xã…về điều kiện đương nhiên xóa án tích của người bị kết án, đặc biệt là thông tin vềtrong thời gian có án tích của người bị kết án.Cũng cần nghiên cứu, bổ sung quy định trường hợp những bản án được tuyên trước đây nhưng các cơ quan có thẩm quyền không còn lưu trữ được hồ sơ bản án, quá trình thi hành án nên không cung cấp được thông tin về án tích của người đã bị kết án thì cơ quan cấp Phiếu LLTP được xác nhận người đó “không có án tích” trong Phiếu LLTP.tăng cường công tác cung cấp, tiếp nhận thông tin LLTP để xây dựng cơ sở dữ liệu LLTP, chủ động rà soát, cập nhật thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người đã bị kết án vào Cơ sở dữ liệu LLTP, bảo đảm vai trò chủ động của Trung tâm LLTP quốc gia, Sở Tư pháp trong xây dựng, quản lý Cơ sở dữ liệu LLTP.tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, trong đó chú trọng bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cấp Phiếu LLTP, những nội dung mới của Bộ luật Hình sự 2015 liên quan đến công tác LLTP, đặc biệt là nghiệp vụ xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích.tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác LLTP, áp dụng các phương thức cấp Phiếu LLTP qua dịch vụ bưu chính, cấp Phiếu trực tuyến, đẩy mạnh cải cách hành chính, rút ngắn thời hạn cấp Phiếu LLTP, tạo thuận lợi nhất cho cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Các tin khác
-
Xác định thời điểm và địa điểm mở thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam
(01/03/2018)
-
Một số nguyên nhân ảnh hưởng hiệu quả thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự
(28/02/2018)
-
Hoàn thiện quy định pháp luật về dịch vụ giám định thương mại trong Luật Thương mại năm 2005
(09/02/2018)
-
Nội quy lao động – một số vấn đề pháp lý và thực tiễn
(07/02/2018)
-
Một số ý kiến về thủ tục tố tụng cạnh tranh trong dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi)
(31/01/2018)
-
Một số đề xuất nghiên cứu, sửa đổi Thông tư hướng dẫn nghiệp vụ trợ giúp pháp lý
(30/01/2018)
-
Cấp phiếu lý lịch tư pháp và ghi nhận việc xóa án tích trong cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp
(29/01/2018)