XÁC ĐỊNH ĐỘ CHÍN THU HOẠCH CHO TRÁI CÂY

Sáng ngày 16/03/2021, tại Hiệp Hội rau quả Việt Nam (Vinafruit) tổ chức

tọa đàm về chất lượng quả vú sữa xuất khẩu sang thị Hoa Kỳ, thành phần tham dự gồm các doanh nghiệp thu mua, chế biến và xuất khẩu trái cây, công ty logistic

s

, cơ quan quản lý địa phương và Viện

C

ây ăn quả miền Nam (

SOFRI

). Nội dung chính của tọa đàm xoay quanh mủ/nhựa trong trái vú sữa có liên quan đến thời điểm thu hoach. Nhân dịp này

Viện

nhấn mạnh tầm quan trọng của

độ chín thu hoạch

của quả vú sữa và kỹ thuật xác định độ chín thu hoạch phù hợp sẽ làm giảm tác động của việc dính nhựa/mủ khi ăn tươi và tiêu thụ quả vú sữa.
vss
Hình 1. Độ chín thu hoạch cho quả vú sữa Lò rèn cho thị trường gần (ĐC3 và ĐC4)
và xa (ĐC2 và ĐC3)

Độ chín thu hoạch
Độ chín cho thu hoạch là điểm khởi đầu của quản lý chất lượng sau thu hoạch. Vì vậy, phải đảm bảo rằng quả đạt độ chín phù hợp nên mới được thu hoạch. Quả phải được thu hoạch khi đạt được giai đoạn phát triển thích hợp dựa trên độ chín sinh lý và canh tác. Thời gian thu hoạch thay đổi tùy theo chủng loại cây trồng. Quả được thu hoạch ở các giai đoạn chín khác nhau tùy thuộc vào việc quả sẽ được vận chuyển bao xa, bảo quản trong bao lâu và các yêu cầu đối với thị trường cụ thể. Độ chín thu hoạch luôn có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng của sản phẩm tươi cũng như khả năng bảo quản và xảy ra nhiều rối loạn hư hỏng trong quá trình bảo quản. Do các kiểu trưởng thành và quá trình chín khác nhau giữa các giống, một số giống được thu hoạch tốt nhất trước khi quả ăn ngon trong khi những giống khác không nên thu hoạch cho đến khi xuất hiện một số hương vị đặc trưng.
Xác định độ chín thu hoạch
Có nhiều nhân tố tác động sau thu hoạch lên chất lượng sản phẩm tươi nhưng một tác nhân quan trọng nhất là độ chín thu hoạch. Độ chín của quả bị ảnh hưởng bởi cấu tạo di truyền của từng giống cây trồng, môi trường trồng trọt và vị trí địa lý. Các sản xuất thực hành trước thu hoạch như quản lý tán, đất, dinh dưỡng, quản lý nguồn nước trong quá trình sinh trưởng thực vật đã chứng minh được vai trò đối với hình thái cây trồng và độ chín của quả.
Quả đạt chất lượng tốt nhất khi thu hoạch, nhưng chất lượng sau thu hoạch không thể được cải thiện mà chỉ được duy trì. Do đó, độ chín của thu hoạch là yếu tố then chốt quyết định sự thành công cho việc bảo quản lâu dài, sự hài lòng của người tiêu dùng và hoạt động tiếp thị. Độ chín phải được xác định cho từng loại và một số trường hợp đối với từng cây trồng. Việc sử dụng các thông số độ chín khác nhau cho từng loại cây trồng sẽ cung cấp cho người tiêu dùng những loại rau quả chất lượng cao. Mặc dù nhiều phương pháp đã được phát triển và thử nghiệm để xác định độ chín tối ưu thu hoạch, nhưng không có phương pháp đơn lẻ nào được chứng minh là đủ để đánh giá độ chín của thu hoạch. Việc kết hợp các chỉ số sẽ có lợi so với một phương pháp duy nhất, vì mỗi tham số cung cấp thông tin về giai đoạn sinh lý của quả và nói chung sẽ làm giảm sự biến đổi giữa quả với quả, mùa vụ và vị trí.
Các chỉ số về độ chín và thu hoạch phải được đo lường, đơn giản và dễ dàng thực hiện trong vườn cây ăn quả hoặc nhà đóng gói. Các chỉ số có thể đạt được bằng thiết bị rẻ tiền, không phá mẫu, khách quan và liên quan nhất quán đến các thông số chất lượng của sản phẩm. Trong những năm gần đây, đã có nhiều nỗ lực sử dụng các phương pháp không phá hủy mẫu để xác định thời gian thu hoạch và độ chín. Những kỹ thuật này sẽ giúp xác định thời gian thu hoạch tối ưu và sự hài lòng của người tiêu dùng.
Qua buổi tọa đàm này, Viện cũng đưa ra kiến nghị với các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả cần có những nghiên cứu về xác định độ chín thu hoạch cho từng loại quả và đảm bảo quả được thu hoạch ở giai đoạn chín thích hợp nhất để đạt được sự hài lòng của người tiêu dùng và thị trường tiêu thụ. Độ chín của trái cây khi thu hoạch ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sau thu hoạch của tất cả các loại trái cây trong chuỗi giá trị sau thu hoạch. Các chỉ số độ chín được xây dựng chính xác, hiệu lực và hiệu quả phải được áp dụng trong quá trình sản xuất để cung cấp trái cây chất lượng cao cho người tiêu dùng và nhà chế biến.