Ví dụ về quản lý nhà nước và quản lý hành chính nhà nước
Có thể bạn quan tâm
- Hệ Mặt trời gồm có Mặt trời và bao nhiêu hành tinh khác nhau
- Bộ phim nào sẽ phát hành vào năm 2023?
- Danh sách ngày lễ của chính quyền trung ương 2023 Tây Bengal
- Inicet sẽ được tiến hành vào tháng 11 năm 2023?
- Hội chợ Irapuato 2023 Nhà hát Nhân dân
Quản lý hành chính nhà nước
Tài liệu “Quản lý hành chính nhà nước” gồm 7 bài trình bày về khái quát chung về luật hành chính, các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước, quy phạm và quan hệ pháp luật hành chính, cơ quan hành chính nhà nước, quy chế pháp lý hành chính của viên chức nhà nước,… » Xem thêm
Cùng tham khảo nhé.
» Thu gọn
Chủ đề:
- Quản lý hành chính nhà nước
- Quản lý hành chính
- Luật hành chính
- Nguyên tắc quản lý hành chính
- Quan hệ pháp luật hành chính
- Cơ quan hành chính nhà nước
Download
Xem online
Tóm tắt nội dung tài liệu
- KHÁI NIỆM VỀ
QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC - BÀI 1:KHÁI UÁT CHUNG VỀ LUẬT HC
I. KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1.Khái niệm và đặc điểm quản lý
Có nhiều cách giải thích khác nhau cho thuật ngữ “hành chính” và “luật hành chính”.
Tuy nhiên, tất cả đều thống nhất ở một điểm chung: Luật Hành chính là ngành luật về
quản lý nhà nước. Do vậy, thuật ngữ “hành chính” luôn luôn đi kèm và được giải thích
thông qua khái niệm “quản lý” và “quản lý nhà nước”.
a. Quản lý
Khái niệm quản lý
Một cách tổng quát nhất, quản lý được xem là quá trình “tổ chức và điều khiển các
hoạt động theo những yêu cầu nhất định”[1], đó là sự kết hợp giữa tri thức và lao động
trên phương diện điều hành. Dưới góc độ chính trị: quản lý được hiểu là hành chính,
là cai trị; nhưng dưới góc độ xã hội: quản lý là điều hành, điều khiển, chỉ huy. Dù duới
góc độ nào đi chăng nữa, quản lý vẫn phải dựa những cơ sở, nguyên tắc đã được định
sẳn và nhằm đạt được hiệu quả của việc quản lý, tức là mục đích của quản lý.
Tóm lại, quản lý là sự điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào
những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng cho hệ thống hay quá trình ấy
vận động theo đúng ý muốn của người quản lý nhằm đạt được mục đích đã đặt ra từ
trước. Là một yếu tố thiết yếu quan trọng, quản lý không thể thiếu được trong đời
sống xã hội. Xã hội càng phát triển cao thì vai trò của quản lý càng lớn và nội dung
càng phức tạp. Từ đó, quản lý thể hiện các đặc điểm:
Ðặc điểm của quản lý
+ Quản lý là sự tác động có mục đích đã được đề ra theo đúng ý chí của chủ thể quản
lý đối với các đối tượng chịu sự quản lý. “Ðúng ý chí của người quản lý” cũng đồng
nghĩa với việc trả lời câu hỏi tai sao phải quản lý và quản lý để làm gì.
+ Quản lý là sự đòi hỏi tất yếu khiùù có hoạt động chung của con người. C.Mác coi
quản lý xã hội là chức năng đặc biệt sinh ra từ tính chất xã hội hoá lao động.
+ Quản lý trong thời kỳ nào, xã hội nào thì phản ánh bản chất của thời kỳ đó, xã hội
đó. Ví dụ: ở thời kỳ công xã nguyên thủy thì hoạt động quản lý còn mang tính chất
thuần túy, đơn giản vì lúc này con người lao động chung, hưởng thụ chung, hoạt động
lao động chủ yếu dựa vào săn bắn, hái lượm, người quản lý bấy giờ là các trưởng
làng, tù trưởng. Thời kỳ này chưa có nhà nước nên hoạt động quản lý dựa vào các
phong tục, tập quán chứ chưa có pháp luật để điều chỉnh. - + Quản lý muốn được thực hiện phải dựa trên cơ sở tổ chức và quyền uy. Quyền uy
là thể thống nhất của quyền lực và uy tín. Quyền lực là công cụ để quản lý bao gồm
hệ thống pháp luật và hệ thống kỷ luật nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ và phân cấp quản lý rành mạch. Uy tín thể hiện ở kiến
thức chuyên môn vững chắc, có năng lực điều hành, cùng với phẩm chất đạo đức cách
mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng, đảm bảo cả hai yếu tố “tài” và đức”. Uy tín
luôn gắn liền với việc biết đổi mới, biết tổ chức và điều hành, thực hiện “liêm chính,
chí công, vô tư”. Nói một cách ngắn gọn, có quyền uy thì mới đảm bảo sự phục tùng
của cá nhân đối với tổ chức. Quyền uy là phương tiện quan trọng để chủ thể quản lý
điều khiển, chỉ đạo cũng như bắt buộc đối với đối tượng quản lý trong việc thực hiện
các mệnh lệnh, yêu cầu mà chủ thể quản lý đề ra.
2. Quản lý nhà nước
Nhà nước
Hệ thống chính trị của nhà nước ta bao gồm: Ðảng Cộng sản Việt nam, Mặt trận tổ
quốc Việt nam, các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội khác và Nhà nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt nam. Trong cơ chế tổng hợp quản lý đất nước, nhà nước là chủ
thể duy nhất thực hiện chức năng quản lý (quản lý nhà nước). Sự quản lý của nhà
nước trên cơ sở đại diện cho toàn xã hội, cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân, thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, theo pháp luật.
Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực
nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội chủ yếu và quan trọng của con người.
Ðiểm khác nhau cơ bản giữa quản lý nhà nước và các hình thức quản lý khác (ví dụ:
quản lý của các tổ chức xã hội…), là tính quyền lực nhà nước gắn liền với cưỡng chế
nhà nước khi cần. Từ khi xuất hiện, nhà nuớc điều chỉnh các quan hệ xã hội được
xem là quan trọng, cần thiết. Quản lý nhà nước được thực hiện bởi toàn bộ hoạt động
của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối
ngoại của nhà nước.
3. Quản lý hành chính nhà nước
Khái niệm
Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan hành
chính nhà nước, của các cơ quan nhà nước khác và các tổ chức được nhà nước ủy
quyền quản lý trên cơ sở của luật và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng tổ
chức, quản lý, điều hành các quá trình xã hội của nhà nước. Nói cách khác, quản lý
hành chính nhà nước (nói tắt là quản lý nhà nước) chính là quản lý nhà nước trong lĩnh
vực hành pháp – được thực hiện bởi ít nhất một bên có thẩm quyền hành chính nhà
nước trong quan hệ chấp hành, điều hành. - Quản lý hành chính nhà nước trước hết và chủ yếu được thực hiện bởi hệ thống cơ
quan hành chính nhà nước: Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương các cấp,
không kể một số tổ chức thuộc nhà nước mà không nằm trong cơ cấu quyền lực như
các doanh nghiệp.
Ðặc điểm của quản lý hành chính nhà nước
1. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động vừa mang tính chấp hành, vừa mang tính
điều hành.
– Các cơ quan hành chính nhà nước thực thi quyền hành pháp, không có quyền lập pháp
và tư pháp nhưng góp phần quan trọng vào qui trình lập pháp và tư pháp. Tính chấp
hành của hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thể hiện ở sự thực hiện trên
thực tế các văn bản hiến pháp, luật, pháp lệnh và nghị quyết của cơ quan lập pháp-
cơ quan dân cử.
– Tính điều hành của hoạt động quản lý hành chính nhà nước thể hiện ở chổ là để
đảm bảo cho các văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực được thực hiện trên thực
tế thì các chủ thể của quản lý hành chính nhà nước phải tiến hành các hoạt động tổ
chức và chỉ đạo trực tiếp đối với các đối tượng quản lý thuộc quyền.
– Ðể đảm bảo sự thống nhất của hai yếu tố này đòi hỏi rất nhiều yêu cầu. Trong đó,
quản lý hành chính nhà nước trước hết phải bảo đảm việc chấp hành văn bản của cơ
quan dân cử đaị diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, từ đó mà thực hiện quản
lý điều hành. Mọi hoạt động chấp hành và điều hành đều phải xuất phát từ mục đích
nhằm phục vụ cho nhân dân, đảm bảo đời sống xã hội cho nhân dân về mọi mặt,
tương ứng với các lĩnh vực trong quản lý hành chính nhà nước.
2. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động mang tính chủ động và sáng
tạo. Ðiều này thể hiện ở việc các chủ thể quản lý hành chính căn cứ vào tình hình,
đặc điểm của từng đối tượng quản lý để đề ra các biện pháp quản lý thích hợp. Tính
chủ động sáng tạo còn thể hiện rõ nét trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật hành chính để điều chỉnh các hoạt động quản lý nhà nước. Tính
chủ động sáng tạo được quy định bởi chính bản thân sự phức tạp, đa dạng, phong phú
của đối tượng quản lý và đòi hỏi các chủ thể quản lý phải áp dụng biện pháp giải
quyết mọi tình huống phát sinh một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, chủ động và
sáng tạo không vượt ra ngoài phạm vi của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ
luật nhà nước. Ðể đạt được điều này, đòi hỏi tôn trọng triệt để tất cả các nguyên tắc
trong hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước.
3. Hoạt động quản lý hành chính nhà nước được bảo đảm về phương diện tổ chức bộ
máy hành chính nhà nước.
– Trước hết là bộ máy cơ quan nhà nước – đây là hệ thống cơ quan nhiều về số lượng,
biên chế; phức tạp về cơ cấu tổ chức; đa dạng về chức năng, nhiệm vụ cũng như
phương pháp hoạt động; có cơ sở vật chất to lớn, có đối tượng quản lý đông đảo, đa - dạng, chủ thể chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước, đó là điều kiện quan trọng để
thực hiện nhiệm vụ quản lý. Các cơ quan hành chính trực tiếp xử lý công việc hàng
ngày của Nhà nước, thường xuyên tiếp xúc với dân, giải quyết các yêu cầu của dân, là
cầu nối quan trọng của Ðảng, nhà nước với nhân dân. Nhân dân đánh giá chế độ, đánh
giá Ðảng trước hết thông qua hoạt động của bộ máy hành chính.
– Bảo đảm tính liên tục và ổn định trong hoạt động quản lý. Liên tục để tránh lối làm
việc hô hào, theo phong trào. Tính ổn định nhằm để đảm bảo các hoạt động như: lưu
trữ hồ sơ, giấy tờ. Ðó có thể nói là trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước đối
với xã hội.
4. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có mục tiêu chiến lược, có chương trình
và có kế hoạch để thực hiên mục tiêu. Công tác quản lý hành chính nhà nước là hoạt
động có mục đích và định hướng. Vì vậy, phải có chương trình, kế họach dài hạn,
trung hạn và hàng năm. Có các chỉ tiêu vừa mang tính định hướng, vừa mang tính pháp
lệnh; có hệ thống pháp luật vừa được áp dụng thực thi triệt để cho hoạt động quản lý,
vừa tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đặt dưới sự quản lý ấy.
5. Quản lý hành chính nhà nước XHCN không có sự cách biệt tuyệt đối về mặt xã hội
giữa chủ thể quản lý và chủ thể của quản lý (chủ thể chịu sự quản lý). Cán bộ quản
lý nhà nước phải là “công bộc” của nhân dân, biết lắng nghe ý kiến của quần chúng
nhân dân, thu hút được rộng rãi quần chúng nhân dân tham gia vào việc quản lý nhà
nước và xã hội. Chống quan liêu, cửa quyền, hách dịch, ức hiếp quần chúng.
6. Tính chuyên môn hoá và nghề nghiệp cao. Ðó chính là nghiệp vụ của một nền hành
chính văn minh, hiện đại. Khi nói đến một “nền kinh tế tri thức”- nền kinh tế mà ở đó
giá trị của tri thức, của sự hiểu biết được đặt lên hàng đầu-thì đội ngũ quản lý nền
kinh tế tri thức ấy phải có một tầm vóc tương xứng. Quản lý nhà nước khác với hoạt
động chính trị ở chổ: trình độ kiến thức chuyên môn và kỹ năng quản lý thực tiễn làm
tiêu chuẩn hàng đầu.
7. Tính không vụ lợi: Quản lý hành chính nhà nước lấy việc phục vụ lợi ích công làm
động cơ và mục đích của hoạt động. Quản lý hành chính nhà nước không phải vì lợi
ích thù lao, càng không theo đuổi mục đích kinh doanh lợi nhuận. Cán bộ hành chính vì
vậy phải bảo đảm “cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”.
II. LUẬT HÀNH CHÍNH-MỘT NGÀNH LUẬT ĐỘC LẬP TRONG HỆ THỐNG
PHÁP LUẬT VIỆT NAM.
1. Ðối tượng điều chỉnh của luật hành chính
Ðối tượng điều chỉnh của một ngành luật nói chung là những quan hệ xã hội xác định
các đặc tính cơ bản giống nhau và do những quy phạm thuộc ngành luật đó điều chỉnh.
Cùng với phương pháp điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh là tiêu chuẩn để phân biệt
ngành luật này với ngành luật khác. - Ðối tượng điều chỉnh của luật hành chính Việt Nam là những quan hệ xã hội chủ yếu
và cơ bản hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, hay nói khác hơn đối
tượng điều chỉnh của luật hành chính là những quan hệ xã hội hầu hết phát sinh trong
hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước.
Nhìn chung, đối tượng điều chỉnh của luật hành chính bao gồm những vấn đề sau:
+ Việc thành lập, cải tiến cơ cấu bộ máy, cải tiến chế độ làm việc, hoàn chỉnh các
quan hệ công tác của các cơ quan nhà nước.
+ Các hoạt động quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, trật tự xã
hội trên từng địa phương và từng ngành.
+ Trực tiếp phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Ðây phải được xác
định là mục tiêu hàng đầu của quản lý hành chính.
+ Khen thưởng, trao danh hiệu cho các cá nhân tổ chức có đóng góp và đạt được
những thành quả nhất định trong lĩnh vực hành chính nhà nước hoặc trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội theo luật định; xử lý các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm trật
tự quản lý hành chính nhà nước.
Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh của luật hành chính Việt Nam ta
có thể chia các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật hành chính thành
hai nhóm lớn.
* Nhóm 1: Những quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình các cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trong phạm vi các
cơ quan hành chính nhà nước (ngoại trừ hoạt động trong quan hệ công tác nội
bộ), với mục đích chính là đảm bảo trật tự quản lý, hoạt động bình thường của
các cơ quan hành chính nhà nước.
Nhóm này thường được gọi ngắn gọn là nhóm hành chính công. Nói một cách ngắn
gọn, quan hệ pháp luật hành chính công được hình thành giữa các bên chủ thể đều
mang tư cách có thẩm quyền hành chính nhà nước khi tham gia vào quan hệ pháp luật
hành chính đó.
Ðây là nhóm những quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh cơ bản của luật hành chính.
Thông qua việc thiết lập những quan hệ loại này, các cơ quan hành chính nhà nước
thực hiện các chức năng cơ bản của mình. Những quan hệ này rất đa dạng, phong phú
bao gồm những quan hệ được chia thành 2 nhóm nhỏ như sau:
* Quan hệ dọc
1. Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính nhà nước cấp trên với cơ quan hành
chính nhà nước cấp dưới theo hệ thống dọc. Ðó là những cơ quan nhà nước có cấp
trên, cấp dưới phụ thuộc nhau về chuyên môn kỷ thuật, cơ cấu, tổ chức… - Ví dụ: Mối quan hệ giữa Chính phủ với UBND tỉnh Cần Thơ; Bộ Tư pháp với Sở Tư
pháp…
2. Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn
cấp trên với cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cấp dưới trực tiếp
nhằm thực hiện chức năng theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Mối quan hệ giữa Bộ Tư pháp với UBND tỉnh Cần Thơ; giữa Sở Thương mại
tỉnh Cần Thơ với UBND huyện Ô Môn…
3. Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị, cơ sở trực thuộc.
Ví dụ: Quan hệ giữa Bộ Giáo dục – Ðào tạo với Trường đại học Cần Thơ, Giữa Bộ Y
tế và các bệnh viện nhà nước.
* Quan hệ ngang
1. Quan hệ hình thành giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung với cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp.
Ví dụ: Mối quan hệ giữa UBND tỉnh Cần Thơ với Sở Thương mại tỉnh Cần Thơ ;
Giữa Chính Phủ với Bộ Tư pháp …
2. Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn cùng cấp
với nhau. Các cơ quan này không có sự phụ thuộc nhau về mặt tổ chức nhưng theo
quy định của pháp luật thì có thể thực hiện 1 trong 2 trường hợp sau:
– Một khi quyết định vấn đề gì thì cơ quan này phải được sự đồng ý, cho phép hay phê
chuẩn của cơ quan kia trong lĩnh vực mình quản lý.
Ví dụ: Mối quan hệ giữa Bộ Tài chính với Bộ Giáo dục – Ðào tạo trong việc quản lý
ngân sách Nhà nước; giữa Sở Lao động Thương binh -Xã hội với các Sở khác trong
việc thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước.
– Phải phối hợp với nhau trong một số lĩnh vực cụ thể
Ví dụ: Thông tư liên Bộ do Bộ giáo dục đào tạo phối hợp với Bộ tư pháp ban hành về
vấn đề liên quan đến việc đào tạo cử nhân Luật
Thông tư liên ngành do Bộ trưởng Bộ tư pháp phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao liên quan đến lĩnh vực tội phạm ban hành.
3. Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương với các đơn vị, cơ sở trực
thuộc trung ương đóng tại địa phương đó.
Ví dụ: quan hệ giữa UBND tỉnh Cần Thơ với Trường đại học Cần Thơ. - Thực tiễn của hoạt động quản lý hành chính nhà nước cho thấy trong một số trường
hợp pháp luật quy định có thể trao quyền thực hiện hoạt động chấp hành – điều hành
cho một số các cơ quan nhà nước khác (không phải là cơ quan hành chính nhà nước),
các tổ chức, cá nhân. Ðiều này có nghĩa là hoạt động quản lý hành chính nhà nước
không chỉ do các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành.
Hoạt động của các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức hoặc cá nhân được trao
quyền có tất cả các hậu quả pháp lý như hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước nhưng hoạt động này chỉ giới hạn trong việc thực hiện hoạt động chấp hành
điều hành
Ngoài ra, mỗi cơ quan nhà nước đều có chức năng cơ bản riêng và muốn hoàn thành
chức năng cơ bản của mình, mỗi cơ quan nhà nước phải tiến hành những hoạt động
như kiểm tra nội bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ, phối hợp
hoạt động giữa các bộ phận của cơ quan, công việc văn phòng, đảm bảo những điều
kiện vật chất cần thiết. Ðây là hoạt động tổ chức nội bộ còn gọi là quan hệ công tác
nội bộ khác với quan hệ pháp luật hành chính, nhưng có quan hệ chặt chẽ với hoạt
động hành chính. Nếu hoạt động này được tổ chức tốt thì hiệu quả hoạt động của cơ
quan hành chính ấy sẽ cao và ngược lại, nếu việc tổ chức nội bộ quá cồng kềnh thì
hoạt động hành chính của cơ quan đó sẽ mang lại hiệu quả không cao.
* Nhóm 2: Các quan hệ quản lý hình thành khi các cơ quan hành chính nhà nước
thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trong các trường hợp cụ thể liên
quan trực tiếp tới các đối tượng không có thẩm quyền hành chính nhà nước hoặc
tham gia vào quan hệ đó không với tư cách của cơ quan hành chính nhà nước, với
mục đích chính là phục vụ trực tiếp nhân dân, đáp ứng các quyền và lợi hợp pháp
của công dân, tổ chức.
Nói ngắn gọn, đây là quan hệ pháp luật hành chính tư, hình thành giữa một bên chủ
thể tham gia với tư cách chủ thể có thẩm quyền hành chính nhà nước và một bên chủ
thể tham gia không với tư cách chủ thể có thẩm quyền hành chính nhà nước. Nhóm
này được gọi ngắn gọn là nhóm hành chính tư”. Ðây là mục đích cao nhất của quản lý
hành chính nhà nước khi cơ quan hành chính- cơ quan được xem là công bộc của nhân
dân, quản lý hành chính vì quyền lợi nhân dân, vì trật tự chung cho toàn xã hội, bao
gồm các quan hệ cụ thể sau đây:
1. Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các đơn vị kinh tế thuộc các thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh. Các đơn vị kinh tế này được đặt dưới sự quản lý
thường xuyên của cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền.
Ví dụ: Giữa UBND huyện Ô Môn với Hợp tác xã sản xuất nhà nước trên địa bàn
huyện Ô Môn.
2. Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức xã hội, đoàn thể quần
chúng. - Ví dụ: Quan hệ giữa Chính phủ với Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận.
3. Quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân Việt Nam, người nước
ngoài, người không quốc tịch đang làm ăn cư trú tại Việt Nam.
Ví dụ: quan hệ giữa cảnh sát với cá nhân (gồm công dân Việt Nam, người nước ngoài,
người không quốc tịch) vi phạm luật lệ giao thông.
* Mối liên hệ giữa hành chính tư và hành chính công
Thật ra mọi sự phân chia chỉ mang tính chất tương đối để tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trính nghiên cứu. Hai lĩnh vực hành chính tư và hành chính công liên quan trực tiếp
và tương hỗ cho mục đích của quản lý hành chính nhà nước. Quản lý hành chính công
là cơ sở để bảo đảm hoạt đông bình thườỡng của cơ quan hành chính nhà nước. Trong
khi đó, quản lý hành chính tư thể hiện rõ trực tiếp mục đích của quản lý hành chính,
giữ gìn trật tự quản lý xã hội theo nguyên vọng của nhân dân. Trong quá trình quản lý,
có những công việc liên quan đền cả hai lĩnh vực hoặc rất khó phân biệt giữa hai
phạm vi: hành chính tư và hành chính công. Chẳng hạn như khi nhận được đơn khiếu
nại về việc cấp giấy phép xây dựng cho một cá nhân công dân đối với cơ quan hành
chính nhà nước cấp dưới, cơ quan cấp trên trực tiếp ra chỉ thị buộc cơ quan hành chính
cấp dưới phải xem xét lại quyết định của cơ quan ấy. Trường hợp này phát sinh này
có 3 quan hệ pháp luật hành chính. (hai quan hệ pháp luật hành chính tư, một quan hệ
pháp luật hành chính công).
Trên cơ sở phân tích đặc điểm của các vấn đề liên quan đến luật hành chính, đối
tượng điều chỉnh của luật hành chính, có thể đưa ra định nghĩa luật hành chính như
sau:
Luật hành chính là một ngành luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý hành chính nhà nước
của các cơ quan hành chính nhà nước, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
các cơ quan nhà nước xây dựng và ổn định chế độ công tác nội bộ của mình, các quan
hệ xã hội trong quá trình các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cá nhân thực hiện
hoạt động quản lý hành chính nhà nước đối với các vấn đề cụ thể do pháp luật quy
định.
Ngoài ra có thể định nghĩa luật hành chính một cách ngắn gọn hơn: Luật hành chính là
một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm tổng thể các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện
hoạt động chấp hành – điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước.
Như vậy, qua định nghĩa trên ta thấy rằng chỉ có thể nói đến điều chỉnh bằng pháp
luật hành chính khi trong quan hệ quản lý phải có ít nhất một bên có thẩm quyền với
tư cách là chủ thể thực hiện chức năng chấp hành và điều hành của nhà nước. Nếu
cơ quan hành chính nhà nước hoạt động không phải trong phạm vi, lĩnh vực thẩm - quyền của mình, không sử dụng quyền lực nhà nước, thì hoạt động đó được thực hiện
không phải thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật hành chính.
2. Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính Việt Nam
Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là cách thức tác động đến các quan hệ xã
hội bằng pháp luật. Phương pháp điều chỉnh là yếu tố quan trọng để xác định ngành
luật đó có phải là ngành luật độc lập hay không. Ngoài ra, phương pháp điều chỉnh còn
góp phần xác định phạm vi điều chỉnh của các ngành luật trong trường hợp những
quan hệ xã hội có chỗ gần kề hoặc đan xen với nhau.
Ðặc trưng của phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là tính mệnh lệnh đơn
phương, xuất phát từ quan hệ quyền uy – phục tùng giữa một bên có quyền nhân danh
nhà nước và ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên có nghĩa vụ phục tùng. Sự áp
đặt ý chí được thể hiện trong các trường hợp sau:
– Cả hai bên đều có những quyền hạn nhất định do pháp luật quy định nhưng bên này
quyết định vấn đề gì thì phải được bên kia cho phép, phê chuẩn. Ðây là quan hệ đặc
trưng của hành chính công.
– Một bên có quyền đưa ra những yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có thẩm quyền xem
xét, giải quyết, có thể thỏa mãn những yêu cầu, kiến nghị này hoặc có thể bác bỏ.
– Một bên có quyền ra các mệnh lệnh yêu cầu còn bên kia phải phục tùng các yêu cầu,
mệnh lệnh đó.
– Một bên có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính buộc đối tượng
quản lý phải thực hiện mệnh lệnh của mình. Sự bất bình đẳng còn thể hiện rõ nét
trong tính chất đơn phương và bắt buộc của các quyết định hành chính.
Các cơ quan hành chính nhà nước và các chủ thể quản lý hành chính nhà nước, dựa
vào thẩm quyền của mình trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình có quyền ra những
mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp quản lý thích hợp đối với từng đối tượng quản lý
cụ thể. Những quyết định ấy có tính chất đơn phương vì chúng thể hiện ý chí của chủ
thể quản lý hành chính nhà nước trên cơ sở quyền lực đã được pháp luật quy định.
Ngoài ra, có những trường hợp phương pháp thoả thuận được áp dụng trong quan hệ
pháp luật hành chính, còn gọi là “quan hệ pháp luật hành chính theo chiều ngang”. Cụ
thể như khi ban hành các văn bản liên bộ, liên ngành, liên tịch…(ví dụ: Thông tư Liên
Bộ của Bộ Tư pháp và Bộ Xây dựng; Thông tư liên tịch giữa Mặt trận Tổ Quốc Việt
nam và Bộ giáo dục…). Tuy nhiên, các “quan hệ pháp luật hành chính theo chiều
ngang” cũng là tiền đề cho sự xuất hiện “quan hệ pháp luật hành chính theo chiều
dọc”. Suy cho cùng, các quan hệ pháp luật hành chính cũng không hoàn toàn bình đẳng
tuyệt đối. Trên những đặc quyền hành chính và thể chế hành chính, các bên chấp nhận
những đề nghị của nhau, cùng phục vụ cho mục đích quản lý hành chính nhà nước. - Tóm lại: Phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật hành chính Việt Nam là phương
pháp mệnh lệnh đơn phương. Nó được xây dựng trên các nguyên tắc sau:
– Một bên được nhân danh nhà nước sử dụng quyền lực để đưa ra các quyết định hành
chính còn bên kia phải tuân theo những quyết định ấy.
– Quyết định hành chính phải thuộc phạm vi thẩm quyền của bên nhân danh nhà nước,
vì lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, trên cơ sở pháp luật có hiệu lực bắt buộc thi hành
đối với các bên hữu quan và được đảm bảo thi hành bằng sự cưỡng chế nhà nước.
Từ các phân tích trên, có thể kết luận được Luật Hành chính là ngành luật độc lập
trong hệ thống pháp luật Việt nam, có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều
chỉnh đặc thù gắn liền với khái niệm quản lý hành chính nhà nước.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA LUẬT HÀNH CHÍNH VỚI MỘT SỐ NGÀNH LUẬT
KHÁC.
Hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật khác nhau, mỗi ngành luật
điều chỉnh những quan hệ xã hội nhất định với những đối tượng riêng và bằng những
phương pháp điều chỉnh nhất định. Ngoài việc phân biệt các ngành luật với nhau
nhằm làm rõ sự đặc thù của mỗi ngành luật, còn phải thấy được mối quan hệ giữa
chúng trong một chỉnh thể hoàn chỉnh: hệ thống pháp luật Việt nam.
1. Luật hành chính và luật hiến pháp
Luật hiến pháp là ngành luật có đối tượng điều chỉnh là những quan hệ xã hội cơ bản
nhất, quan trọng nhất như chính sách cơ bản của nhà nước trong lĩnh vực đối nội đối
ngoại; chế độ kinh tế – chính trị; các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị của nước ta; thiết lập bộ máy nhà nước. Ðối tượng điều chỉnh của luật hiến
pháp rộng hơn đối tượng điều chỉnh của luật hành chính.
Luật hành chính giữ vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa, chi tiết hóa các quy
phạm pháp luật nhà nước để từ đó điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong
hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước. Ngược lại, các vấn đề quyền công
dân, về tổ chức bộ máy bộ máy nhà nước được qui định cơ bản trong hiến pháp, thể
hiện rõ tính ưu việt trong các qui phạm pháp luật hành chính.
2. Luật hành chính và luật đất đai
Luật Hành chính nói ngắn gọn là ngành luật về quản lý nhà nước. Quản lý hành chính
nhà nước trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội là những mảng tương ứng của luật
hành chính. Luật đấi đai là một ví dụ. Luật đất đai, về phương diện hành chính là
ngành luật về quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực đất đai, xuất hiện, thay đổi
và chấm dứt khi có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước. - Tuy nhiên, các quan hệ pháp luật này có những nét đặc thù riêng. ở nước ta, “đất đai
thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý”[1]. Vì vậy không có khái
niệm “chuyển nhượng quyền sở hữu đất”, mà chỉ có khái niệm “chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”. Hơn nữa, luật đất đai không chỉ được cơ quan hành chính nhà
nước điều chỉnh như một lĩnh vực có tính đặc thù riêng, mà còn được điều chỉnh trên
cơ sở quan hệ pháp luật dân sự liên quan đến các hợp đồng cầm cố, thế chấp đất đai.
Vì vậy, theo quan điểm được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay thống nhất, luật đất đai
là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt nam, có quan hệ chặt chẽ sơ khởi với
quan hệ pháp luật hành chính:
– Luật đất đai là ngành luật điều chỉnh quan hệ giữa nhà nước, với tư cách là chủ sở
hữu duy nhất đối với đất đai.
– Trong quan hệ pháp luật đất đai, nhà nước có tư cách vừa là chủ sở hữu, vừa là
người thực hiện quyền lực nhà nước.
3. Luật hành chính và luật hình sự
Cả hai ngành luật này đều có các chế định pháp lý quy định hành vi vi phạm pháp luật
và các hình thức xử lý đối với người vi phạm. Trong cả hai quan hệ pháp luật này, ít
nhất là một bên trong quan hệ nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước.
– Hơn nữa, việc phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm hành chính đôi khi khá phức
tạp, nhất là những trường hợp vi phạm hành chính “chuyển hoá” thành tội phạm.
– Luật hành chính qui định nhiều nguyên tắc có tính bắt buộc chung, ví dụ như: qui tắc
an toàn giao thông, qui tắc phòng cháy chữa cháy, qui tắc lưu thông hàng hoá, văn hoá
phẩm. Trong một số trường hợp, khi vi phạm qui tắc ấy có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Ví dụ như: hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, trốn
thuế…Những hành vi nêu trên nếu được thực hiện lần đầu với số lượng không lớn thì
là vi phạm hành chính, còn nếu với số lượng lớn hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn
tái phạm thì đó là tội phạm. Tuy nhiên, giữa chúng có sự khác biệt cơ bản sau:
Luật hình sự quy định hành vi nào là tội phạm, hình phạt nào áp dụng cho hành vi
phạm tội, điều kiện, thủ tục áp dụng. Ðể xác định hành vi nào thuộc đối tượng điều
chỉnh của luật hình sự cần phải xem xét các yếu tố cấu thành của tội phạm về mặt
chủ quan, khách quan, chủ thể, khách thể. Thêm nữa, luật hình sự phân biệt với luật
hành chính ở tính chất hành vi có tính chất nguy hiểm cao, mức độ thiệt hại lớn hơn.
Còn luật hành chính lại quy định về các hành vi vi phạm hành chính, các hình thức xử
lý vi phạm hành chính và các vấn đề khác liên quan đến việc xử lý đối với cá nhân, tổ
chức vi phạm hành chính. Sự khác nhau giữa hai ngành luật này là ở tính chất, mức độ
của hành vi vi phạm.
Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, các hình thức xử phạt vi phạm hành chính không
phải là hình phạt vi phạm hành chính mà là chế tài đối với vi phạm hành chính. “Hình - phạt” trong hệ thống pháp luật Việt nam chỉ được qui định và áp dụng trong luật hình
sự mà thôi.
4. Luật hành chính và luật dân sự
Ðối tượng điều chỉnh của luật dân sự là những quan hệ tài sản mang tính chất hàng
hóa tiền tệ và các quan hệ nhân thân phi tài sản. Luật dân sự quy định nội dung quyền
sở hữu, những hình thức chuyển nhượng, sử dụng, định đoạt tài sản…và phương pháp
điều chỉnh của luật dân sự là phương pháp bình đẳng, thỏa thuận. Trong quan hệ pháp
luật dân sự các chủ thể bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Trong khi đó đối
tượng điều chỉnh của luật hành chính là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
chấp hành-điều hành. Luật hành chính quy định những vấn đề như thẩm quyền của
các cơ quan nhà nước trong quản lý nhà vắng chủ, trưng mua tài sản…
Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là mệnh lệnh đơn phương, dựa trên
nguyên tắc quyền uy – phục tùng. Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thể
trực tiếp điều chỉnh quan hệ tài sản thông qua việc ban hành quyết định chuyển giao
tài sản giữa các cơ quan, tổ chức đó. Một số cơ quan quản lý có quyền ra quyết định
tịch thu, kê kiên tài sản hoặc phạt tiền. Nhưng trong cơ chế quản lý mới hiện nay, các
cơ quan quản lý nhà nước chủ yếu điều chỉnh quan hệ tài sản một cách gián tiếp
thông qua các quyết định về kế hoạch, tiêu chuẩn, chất lượng, về cơ chế định giá…
Mặt khác, trong nhiều trường hợp, các cơ quan quản lý nhà nước cũng tham gia trực
tiếp vào quan hệ pháp luật dân sự. Nhưng ở đây, các cơ quan đó không hoạt động với
tư cách trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước, mà tham gia với tư cách một
pháp nhân, do vậy không thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật hành chính.
5. Luật hành chính và luật lao động
Nhiều qui phạm của Luật Hành chính và Luật lao động đan xen, phối hợp để điều
chỉnh những vấn đề cụ thể liên quan tới hoạt động công vụ, lao động viên chức, tuyển
dụng, cho thôi việc đối với viên chức nhà nước, nhưng điều chỉnh từ những góc độ
khác nhau. Nếu luật lao động “nội dung” của việc quản lý trong lĩnh vực quan hệ lao
động, “trình tự ban hành” các quan hệ lao động ấy lại được qui định trong luật hành
chính. Nói một cách cụ thể:
Luật lao động điều chỉnh những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của
người lao động như quyền nghỉ ngơi, quyền được trả lương, quyền hưởng bảo hiểm
xã hội và bảo hộ lao động…
Luật hành chính xác định thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước trong lĩnh
vực lao động, đồng thời điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến việc tổ chức
quá trình lao động và chế độ công vụ, thủ tục tuyển dụng, thôi việc, khen thưởng …
Hai ngành luật này quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện: - – Quan hệ pháp luật hành chính là phương tiện thực hiện quan hệ pháp luật lao động.
Ví dụ: Sau khi thi đậu và được công nhận vào ngạch công chức, cán bộ A được hưởng
các chế độ nghỉ lễ, tử tuất do luật lao động qui định.
– Quan hệ pháp luật lao động lại là tiền đề của quan hệ pháp luật hành chính.
Ví dụ: Sau khi ký hợp đồng lao động với xí nghiệp (doanh nghiệp nhà nước), cá nhân
A với tư cách là thành viên của tập thể lao động xí nghiệp đó, có quyền tham gia quản
lý trong doanh nghiệp theo nhiệm vụ được phân công.
6. Luật hành chính và luật tài chính
Luật tài chính là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực hoạt động tài
chính của nhà nước, trong đó bao gồm cả các lĩnh vực về thu chi ngân sách, phân phối
nguồn vốn của nhà nước mang tính chất tiền tệ liên quan đến nguồn thu nhập quốc
dân. Nhìn một cách tổng quát, luật tài chính và luật hành chính đều điều chỉnh hoạt
động tài chính của nhà nước:
+ Là một bộ phận chấp hành, điều hành nhà nước, luật tài chính cũng sử dụng phổ
biến phương pháp mệnh lệnh.
+ Luật hành chính qui định cơ chế kiểm toán nhằm đảm bảo tính đúng đắn trong các
quan hệ tài chính.
+ Luật hành chính chứa đựng các QPPL qui định thẩm quyền của các cơ quan của các
công tác tài chính vừa là qui phạm của luật hành chính, đồng thời là nguồn của luật tài
chính.
Tuy vậy, không chỉ có nguồn gốc liên quan chặt chẽ đến luật hành chính, mà còn có
mối quan hệ với luật hiến pháp và một phần của luật dân sự. Các nguyên tắc của luật
dân sự được áp dụng trong một số hoạt động tài chính như tín dụng, thuế… còn luật
tài chính đa phần là điều chỉnh chính các quan hệ tín dụng, thuế…ấy.
IV. HỆ THỐNG NGÀNH LUẬT HÀNH CHÍNH VÀ VAI TRÒ LUẬT HÀNH
CHÍNH VIỆT NAM.
1. Hệ thống ngành luật hành chính Việt nam
Luật hành chính gồm tổng thể những quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ
quản lý nhà nước trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, có mối quan hệ mật
thiết với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất gọi là hệ thống ngành luật hành
chính Việt Nam. Hệ thống này được phân chia theo các tiêu chí sau:
1. Theo chủ thể quản lý và chủ thể của quản lý: - – Qui phạm pháp luật Hành chính công.
– Qui phạm pháp luật Hành chính tư.
2. Theo phạm vi quản lý:
– Quản lý hành chính nhà nước nói chung.
– Quản lý nhà nước trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
3. Theo cách thức tiếp cận:
– Quản lý hành chính nhà nước và chủ thể quản lý và chủ thể của quản lý hành chính
nhà nước.
– Cách thức quản lý hành chính nhà nước, những phương thức nhằm bảo đảm pháp
chế XHCN và kỷ luật nhà nước.
– Quản lý hành chính nhà nước trong trong lĩnh vực qui hoạch xây dựng.
– Tố tụng hành chính và các vấn đề có liên quan.
Trên cơ sở kết hợp các cách phân loại trên, luật hành chính sẽ được nghiên cứu tập
trung các phần cơ bản và thiết yếu nhất, sẽ được trình bày chi tiết ở phần: môn học
luật Hành chính.
2. Vai trò của luật Hành chính Việt nam
Luật hành chính Việt Nam là một ngành luật về quản lý nhà nước, đóng một vai trò
hết sức quan trọng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Cụ thể:
a. Về phương diện chính trị:
– Tạo cơ sở vững chắc cho việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện bộ máy nhà
nước, việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội;
– Góp phần quan trọng trong việc bảo vệ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
b. Về phương diện kinh tế
– Ðóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân;
– Thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế phát triển đồng bộ, nâng cao đời sống nhân dân.
c Về phương diện xã hội - – Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, của tập thể, của nhà
nước;
– Hướng tới mục tiêu cao cả nhất của thể chế hành chính, đồng thời cũng là bản chất
của chế độ XHCN là phục vụ cho nhân dân và “công bộc” của nhân dân.
V. KHOA HỌC LUẬT HÀNH CHÍNH.
Khoa học luật hành chính là một ngành khoa học pháùp lý chuyên ngành, bao gồm một
hệ thống những cơ sở lý luận, học thuyết khoa học, phạm trù, quan niệm về ngành
Luật Hành chính. Sự phát triển của môn khoa học này liên quan chặt chẽ đến quá trình
ra đời và phát triển của hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý hành
chính nhà nước.
1.Ðối tượng nghiên cứu
Là hoạt động quản lý hành chính nhà nước, những quan hệ hình thành trong quá trình
quản lý hành chính nhà nước và việc điều chỉnh những quan hệ ấy, hệ thống pháp
luật hành chính và hiệu quả của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Cụ thể như
sau:
– Quản lý hành chính nhà nước, chủ thể quản lý và chủ thể của quản lý hành chính
nhà nước.
– Cách thức quản lý hành chính nhà nước.
– Những phương thức nhằm bảo đảm pháp chế XHCN và kỷ luật nhà nước.
– Quản lý hành chính nhà nước trong trong lĩnh vực qui hoạch xây dựng: những phát
hiện mới mẻ trong lĩnh vực hành chính tư..
– Tố tụng hành chính và các vấn đề có liên quan.
– Quản lý hành chính nhà nước trong một số lĩnh vực của đời sống xã hội.
2. Nhiệm vụ của khoa học luật hành chính
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước, nghiên cứu tổng kết thực
tiễn hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, thực tiễn xây dựng và áp dụng
pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước, đề xuất những ý kiến nhằm hoàn thiện
các chế định pháp luật hành chính. Cải cách nền hành chính, đảm bảo bộ máy hành
chính thực sự là công bộc của nhân dân.
3. Phương pháp nghiên cứu
a. Khái niệm - Phương pháp luận của luật hành chính là cách thức tiếp cận vấn đề mà luật hành
chính điều chỉnh
b. Các phương pháp
– Theo phép duy vật biện chứng (nhìn nhận sự vật hiện tượng trong trạng thái vận
động không ngừng).
– Theo chủ nghĩa Mac-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðặc biệt, những tác phẩm, bài
viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật, pháp chế; nhiệm vụ của chính
quyền các cấp, về bộ máy nhà nước, về cán bộ, về mối quan hệ giữa cán bộ nhà
nước và nhân dân… là những tài liệu hết sức quí báu cho việc định hướng hoạt động
quản lý nhà nước.
– Các nghị quyết của đại hội Ðảng Cộng Sản Việt nam với những chủ trương đường
lối, chính sách, đề ra những nguyên tắc cơ bản, những biện pháp chủ yếu nhằm đổi
mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước, mà trước hết là bộ máy hành chính nhà nước.
– Khoa học luật hành chính có mối quan hệ mật thiết với các ngành khoa học xã hội cơ
bản như: triết học, kinh tế chính trị, lý luận nhà nước và pháp luật, khoa học luật hiến
pháp…
– Khoa học luật hành chính cũng có mối liên hệ mật thiết với nhiều môn khoa học
nghiên cứu về hoạt động nghiên cứu, đặc biệt là khoa học quản lý. Sự phát triển của
cả các ngành khoa học này là yếu tố quan trọng góp phần và tăng cường hiệu lực quản
lý của nhà nước.
Ngoài ra, khoa học luật hành chính cũng sử dụng hàng loạt phương pháp cụ thể để
nghiên cứu về những quan hệ xã hội về hành chính như: phương pháp lịch sử, phương
pháp so sánh pháp luật, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp thống kê,
phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp thực nghiệm…
4. Nguồn tài liệu
Nghiên cứu luật hành chính và quản lý hành chính nhà nước trên cơ sở đường lối,
chính sách của Ðảng, học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà
nước “dân là gốc”
Thông qua thực tiễn của hoạt động quản lý, bổ sung và rút kinh nghiêm.
VI. MÔN HỌC LUẬT HÀNH CHÍNH.
Luật hành chính là một ngành Luật độc lập, gắn liền với sự phát triển nhà nước và
pháp luật, có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt nam. Ðể
đánh giá hiệu quả hoạt động của một bộ máy nhà nước, người ta không thể không
xem xét đến hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan được xem là “bộ
mặt” của bộ máy nhà nước, trãi dài từ trung ương đến địa phương với đội ngũ viên - chức đông đảo nhất. Luật Hành chính, vì thế là một ngành luật có phạm vi nghiên cứu
rộng, trên tất các các lĩnh vực của đời sống xã hội về phương diện quản lý nhà nước.
Môn học trang bị cho sinh viên những kiến thức lý luận khoa học luật hành chính và
khà năng áp dụng những kiến thức thực tiễn trên một số lĩnh vực quản lý cơ bản của
đời sống xã hội vào thực tế. Trong môn học Luật Hành chính, sinh viên sẽ nghiên cứu
những nội dung tương ứng với các bốn phần sau đây:
BÀI 2:CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động có mục đích. Những mục đích, mục
tiêu cơ bản định ra trước cho hoạt động quản lý và kết quả của việc đạt được mục
đích, mục tiêu đó phản ánh hiệu quả của việc quản lý. Hiệu quả của quản lý vì vậy
phải được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Ðặc biệt, khi Luật hành
chính thực định vẫn còn chưa được tập trung- chỉ là tập hợp các văn bản về quản lý
nhà nước, tồn tại dưới nhiều hình thức văn bản pháp lý không cao, thì nguyên tắc
quản lý hành chính nhà nước là một đòi hỏi bức thiết và sự tuân thủ hệ thống các
nguyên tắc càng đòi hỏi chặt chẽ.
I. KHÁI NIỆM VÀ HỆ THỐNG CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN
LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.
1. Khái niệm TOP
a) Thế nào là nguyên tắc?
Nguyên tắc trước hết được hiểu là “Ðiều cơ bản định ra, nhất thiết phái tuân theo
trong một loạt việc làm”[1]. Trong quản lý hành chính nhà nước, các nguyên tắc cơ
bản là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý,
từ bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật làm nền tảng cho hoạt động
quản lý hành chính nhà nước.
Dưới góc độ của luật hành chính, nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước là
tổng thể những quy phạm pháp luật hành chính có nội dung đề cập tới những tư
tưởng chủ đạo làm cơ sở để tổ chức thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà
nước. Mỗi nguyên tắc quản lý đều có những hình thức biểu hiện khác nhau.
b) Ðược qui định ở đâu?
Các nguyên tắc quản lý nhà nước nói chung và những nguyên tắc quản lý hành chính
nhà nước nói riêng đã được quy định trong pháp luật như quy định trong hiến pháp,
luật, văn bản dưới luật. Những nguyên tắc được quy định trong hiến pháp được xem
là nguyên tắc cơ bản nhất. - c) Ðặc điểm
1. Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước mang tính chất khách quan bởi vì
chúng được xây dựng, đúc kết từ thực tế cuộc sống và phản ánh các quy luật phát
triển khách quan. Tuy nhiên, các nguyên tắc trên cũng mang yếu tố chủ quan bởi vì
chúng được xây dựng bởi con người mà con người dựa trên những nhận thức chủ
quan để xây dựng.
2. Các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có tính ổn định cao nhưng không phải
là nguyên tắc bất di bất dịch. Nó gắn liền với quá trình phát triển của xã hội, tích lũy
kinh nghiệm, thành quả của khoa học về quản lý hành chính nhà nước.
3. Tính độc lập tương đối với chính trị. Hệ thống chính trị của nhà nước Việt nam
được thực hiện thông qua: các tổ chức chính trị xã hội (Ðảng, Mặt trận tổ quốc…), và
bộ máy nhà nước (Lập pháp, hành pháp, tư pháp). Trong hệ thống nguyên tắc quản lý
hành chính nhà nước có cả những nguyên tắc riêng, đặc thù trong hoạt động quản lý
hành chính nhà nước. Tuy nhiên giữa hoạt động chính trị và quản lý nhà nước có mối
quan hệ hữu cơ chặt chẽ. Các quan điểm chính trị là cơ sở của việc tổ chức hoạt động
quản lý hành chính nhà nước và hoạt động quản lý hành chính nhà nước thực hiện tốt
không chỉ đòi hỏi được trên pháp luật (luật), mà còn phải thực hiện đúng đắn các quan
điểm chính trị (chính sách).
4. Mỗi nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có nội dung riêng, phản ánh những
khía cạnh khác nhau của quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, những nguyên tắc
này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất. Việc thực hiện
tốt nguyên tắc này sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện có hiệu quả nguyên tắc khác. Vì
thế nên các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước luôn thể hiện tính hệ thống, tính
thống nhất và đây là một thuộc tính vốn có của chúng.
2. Hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong quản lý hành chính nhà nước
Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước có nội dung đa dạng, có tính thống
nhất và liên hệ chặt chẽ với nhau. Vì thế cần phải xác định được chúng gồm những
nguyên tắc cơ bản nào, cần phải phân loại chúng một cách khoa học để xác định được
vị trí, vai trò của từng nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước, từ đó xây dựng
và áp dụng hệ thống các nguyên tắc một cách có hiệu quả vào thực tiễn quản lý hành
chính nhà nước.
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước được biểu hiện cụ thể trong hoạt động tổ
chức, nó bao gồm hai mặt: tổ chức chính trị và tổ chức kỹ thuật. Dựa trên những cơ sở
khoa học về quản lý nhà nước ta chia các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà
nước thành hai nhóm là nhóm những nguyên tắc chính trị-xã hội và nhóm những
nguyên tắc tổ chức kỹ thuật. Tuy nhiên, sự phân chia này cũng chỉ mang tính chất
tương đối vì yếu tố tổ chức kỹ thuật và chính trị trong quản lý hành chính nhà nước có
mối liên hệ chặt chẽ nhau. Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức kỹ thuật là để thực - hiện một cách đúng đắn các nguyên tắc chính trị-xã hội và việc thực các nguyên tắc
chính trị – xã hội là cơ sở để thực hiện các nguyên tắc tổ chức kỹ thuật.
Hệ thống các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước bao gồm:
Nhóm những nguyên tắc chính trị-xã hội
1. Nguyên tắc Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước;
2. Nguyên tắc nhân dân tham gia vào quản lý hành chính nhà nước;
3. Nguyên tắc tập trung dân chủ;
4. Nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc;
5. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa;
Nhóm những nguyên tắc tổ chức kỹ thuật
6. Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo lãnh thổ;
7. Nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp với quản lý theo chức năng.
8. Phân định chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh.
II. CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC.
A. Các nguyên tắc chính trị-xã hội
1. Nguyên tắc Ðảng lãnh đạo trong quản lý hành chính nhà nước
a) Cơ sở pháp lý
Ðiều 4-Hiến pháp 1992 quy định: Ðảng cộng sản Việt Nam-đội ngũ tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội.
b) Nội dung nguyên tắc
Thực tế lịch sử đã chỉ rõ, sự lãnh đạo của Ðảng là hạt nhân của mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Bằng những hình thức và phương pháp lãnh đạo của mình,
Ðảng cộng sản giữ vai trò quyết định đối với việc xác định phương hướng hoạt động
của nhà nước trên mọi lĩnh vực; sự lãnh đạo của Ðảng đối với nhà nước mang tính
toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội…Sự lãnh đạo đó chính là việc định