văn học & nghệ thuật

1. Một số giới thuyết

 

1.1. Văn học thời trung đại

1.1.1. Khái niệm thời trung đại

Thời trung đại là khái niệm mà các nhà nhân đạo chủ nghĩa châu Âu dùng để chỉ thời đại lịch sử ở giữ thời cổ đại, tính từ khi chế độ đế quốc La Mã sụp đổ vào TK thứ V cho đến thời đại Phục Hưng vào TK XV.

Về mặt văn hoá, thời trung đại không đơn giản là một bước lùi trong tiến trình văn minh mà là một bước tiến. Đó là thời đại văn hoá lớn trong lịch sử nhân loại. Đối với các quốc gia phương Đông như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, … thời trung đại là thời kỳ hình thành toàn bộ những di sản văn háo thành văn của minh.

Về mặt thời gian, các sử gia chia thời trung đại Châu Âu ra làm ba:

– Sơ kỳ: Từ TK V – TK XI

– Trung kỳ: Từ TK XII – TK XV.

– Mạt kỳ: Từ TK XVI – TK XVII.

Cần chú ý độ dài cụ thể của thời trung đại ở từng khu vực, từng quốc gia có những điểm xê dịch đánh kể.

 

Thời cận đại là thời quá độ, giao thời chuyển hoá từ thời trung đại lên hiện đại. Ở Châu Âu người ta tính từ TK XVI – TK XVII, tức là ngay từ mạt kỳ trung đại. Ở Trung Quốc và Việt Nam, Nhật Bản, tính từ thời điểm xâm nhập của tư bản phương Tây, cũng tức là thời suy tàn của chế độ phong kiến.

Cũng cần nói thêm rằng vấn đề này hiện nay còn đang tranh luận chưa thống nhất, bởi nếu xét theo sự phát triển của đô thị, ý thức thị dân thì thời cận đại Việt Nam có thể tính ngược lên TK XVII – XVIII. Trước nay, học giới xác định là 1930, thời điểm ngọn cờ lãnh đạo cách mạng chuyển sang giai cấp vô sản, nhưng nếu xét về thời điểm chấm dứt chế độ phong kiến thì phải đến 1945.

 

Nếu thừa nhận thời hiện đại là thời đại chung của mọi dân tộc và khu vực thì có cơ sở để thấy rằng thời cận đại của các nước Phương Đông như Việt Nam, Trung Quốc trên thực tế là rất mờ nhạt, không rõ nét, hoặc bị teo đi. Bởi vì thời cận đại ở đây không phải xuất hiện do sự phát triển tự thân mạnh mẽ các quan hệ xã hội, mà chủ yếu do các nguyên nhân bên ngoài, cho nên nó không thể kéo dài.

Xét về bình diện văn hoá thì phải tính đến cái mốc tiếp nhận và sáng tạo các hình thái văn háo mới. Mốc ấy chưa có ở giữa TK XIX của Việt Nam. Mặc dù có ảnh hưởng của Pháp và chữ Quốc ngữ bắt đầu truyền bá rộng rãi dưới dạng hiện đại từ giữ TK XIX, nhưng phải sang đầu TK XX mới được sử dụng phổ biến. Các phong trào Cách mạng đầu TK XX đã sử dụng đắc lực chữ Quốc ngữ. Khoa thi chữ Hán cuối cùng diễn ra năm 1917. Đó là lý do để các nhà nghiên cứu văn học trước đây xác định thời hiện đại của văn học Việt Nam từ đầu TK XX.

 

1.1.2. Khái niệm văn học trung đại

Văn học trung đại được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau: văn học cổ; văn học cổ điển; văn học thời  phong kiến,… Nhưng năm 1980, Nicôlin, đề nghị dùng khái niệm văn học trung đại, sau đó nhiều người dùng nên trở thành quen thuộc.

 

Văn học trung đại Việt Nam là một thời kỳ văn học, một quá trình của văn học dân tộc, trải dài suốt mười thế kỷ. Dùng khái niệm văn học trung đại để chỉ thời kỳ này của văn học Việt Nam là có cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn, đấy là văn học chịu sự chi phối của tư tưởng, quan điểm, thẩm mỹ thời trung đại. Hết TK XIX, văn học trung đại cũng hết vai trò lịch sử và nó được thay thế bằng văn học thuộc loại hình khác – loại hình văn học hiện đại mang đậm tính hiện đại của văn học thế giới từ đầu TK XX.  

 

Văn học trung đại Việt Nam rất khó xác định cụ thể năm bắt đầu và năm kết thúc mà chỉ nên nói bắt đầu vào TK X và kết thúc vào những năm cuối TK XIX. Đây là quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu văn học hiện nay quy ước và đang chờ đợi sự bàn bạc sâu thêm.

 

1.1.3. Phân kỳ văn học Việt Nam trung đại

Phan Phu Thiên (TK XV) lấy tiêu chí Văn học xếp theo triều  đại, chia thành các giai đoạn Văn học Trần; Lê.

N.I.Niculin lấy tiêu chí Chức năng ngoài văn học chia thành: TK X – TKXII: thời kỳ tiền (thượng) trung đại: với lý do là thể loại hành chức ngoài văn học chiếm ưu thế. TK XIII – XVII: thời kỳ trung đại phát triển. TK XVIII – nửa đầu TK XIX: thời kỳ hạ trung đại.

Nguyễn Lộc chia thành TK X – TK XV: thời kỳ văn học khẳng định dân tộc trên cơ sở khẳng định chế độ phong kiến. Nc TK XV – nđ TKXVIII: văn học khẳng định nhà nước phong kiến. Nc TK XVIII – nđ TK XIX: văn học khẳng định con người.

Lê Trí Viễn, chia thành TK X – TK XV:  văn học trung đại thượng kỳ.

TK XVI – TK XIX:  văn học trung đại hạ kỳ

 

Các tác giả của “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam” chia thành TK X – TK XVII: chia ra làm hai giai đoạn: X – XIV: sự hình thành và chín muồi của các thể loại văn học chữ Hán; XV – XVII: sự manh nha và phồn thịnh của văn học Nôm. TK XVIII – TK XIX: sự chín muồi đạt đến đỉnh cao của văn học Nôm và sự phát triển phong phú thêm của văn học chữ Hán với các thể loại truyện ký mới mang tính chất văn học.

Nguyễn Đăng Na chia TK X – TK XIV: thế kỷ lấy văn học dân gian và văn học chức năng làm cơ sở. TK XV – TK XVI: thời kỳ đột khởi của văn xuôi tự sự TK XVIII – TK XIX: thế kỷ của ký và tiểu thuyết chương hồi.

 

Ngữ Văn 10 (Trần Đình Sử, tổng chủ biên) chia như sau: TK X – TK XIV: thời kỳ khôi phục và xây dựng nền văn hiến dân tộc, trong đó có văn học; thời kỳ đặt nền mống có tính chất định hướng cho văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung; nội dung chủ yếu là khẳng định và ca ngợi dân tộc. TK XV – TK XVII: Sự phát triển của thơ ca quốc âm; ba thể thơ dân tộc ra đời: lục bát, song thất lục bát và hát nói; văn chính luận và văn tự sự phát triển rất mạnh; ngoài nội dung yêu nước, văn học giai đoạn này còn chú ý đến số phận con người, bắt đầu những biểu hiện phi Nho giáo. TK XVIII – nđ TK XIX: Con người ý thức được vai trò của mình, do đó tạo ra được trào lưu đòi giải phóng tình cảm cá nhân, tự do yêu đương, … Nội dung văn học thêm phong phú, đa dạng; ngôn ngữ văn học trưởng thành vượt bậc, đặc biệt là ngôn ngữ dân tộc; các loại hình văn học nở rộ và đều đạt đến đỉnh cao. Nc TK XIX: văn chương yêu nước phát triển mạnh, Ngoài thơ ca, văn chính luận, đặc biệt là loại văn điều trần cũng rất phát triển; văn học trung đại viết bằng chữ Hán và chữ Nôm rơi vào bế tắc; Chữ quốc ngữ và văn xuôi quốc ngữ bắt đầu xuất hiện ở Nam Bộ.

 

Ngữ văn 10, Phan Trọng Luận (tổng chủ biên). Nxb Giáo Dục. H. 2006, chia TK X – TK XIV; TK XV – TK XVII: tư duy văn học chịu sự chi phối mạnh mẽ của quan điểm văn sử triết bất phân, thi ngôn chí, văn dĩ tải đạo. Cảm hứng chủ đạo của văn học giai đoạn này là cảm hứng yêu nước. Thể loại văn học chủ yếu là tiếp thu từ phương Bắc, là quá trình dân tộc hoá thể loại văn học nước ngoài, nhiều thể loại mang tính chức năng, ngôn ngữ chủ yếu là chữ Hán nhưng từ TK XV, chữ Nôm đã có một vị trí quan trọng trong sáng tác thơ ca.

 

TK XVIII – nđ TK XIX; nc TKXIX: tư duy văn học đã có sự phân biệt văn với sử, với triết, đã chịu sự chi phối của quan niệm sáng tác từ “những điều trông thấy”. Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng nhân đạo, là khẳng định con người. Thể loại văn học dân tộc đạt được những thành tựu lớn, là văn chương hình tượng. Văn học chữ Nôm có sự phát triển vượt bậc với những thành tựu hết sức rực rỡ.

 

1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người

 

Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lý giải, cảm thụ của chủ thể

Thi pháp học cho rằng: Văn học là  nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần linh, ma quỉ, đồ vật, hoặc đơn giản là miêu tả các nhân vật, văn học đều thể hiện con người. Mặt khác, người ta không thể miêu tả về con người, nếu không hiểu biết, cảm nhận và có các phương tiện, biện pháp nhất định. Điều này tạo thành chiều sâu, tính độc đáo của hình tượng con người trong văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tượng nhân vật trong đó.

 

Nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong văn học, tuy nhiên trước nay người ta chỉ chú ý tới phương diện khách thể của nó. Nhân vật mang những phẩm chất gì? Tính cách nhân vật như thế nào? Ngoại hình được khắc họa ra sao, tâm lý nhân vật có gì đặc sắc? Ngôn ngữ nhân vật có được cá tính hóa hay không? Đó là những vấn đề không thể bỏ qua khi phân tích nhân vật như một khách thể. Từ đó, cũng nhiều khi người ta phân tích nhân vật như những con người có thật ở ngoài đời.

 

Đối với nhân vật trong hệ thống hình tượng tự sự, có nhiều cách hình dung về chức năng và cấu tạo. Về loại hình nhân vật, người ta chia ra nhân vật chính, phụ, nhân vật chính diện, phản diện. Về mặt cấu trúc có người chia ra nhân vật mặt nạ, nhân vật loại hình, nhân vật tính cánh, nhân vật tư tưởng. Sự chú trọng đến hình tượng khách thể của con người là cần thiết, song xem nhẹ việc tìm hiểu các nguyên tắc lý giải, cảm thụ của chủ thể trong hình tượng sẽ dẫn đến việc giản đơn hóa bản chất của sáng tác văn học, đặc biệt là vai trò sáng tạo tư tưởng của nhà văn, rút gọn tiêu chuẩn tính chân thực vào một điểm là miêu tả giống hay không giống so với đối tượng.

 

Quan niệm nghệ thuật về con người hướng người ta khám phá cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống so với đối tượng

 

1.3. Từ khái niệm vô ngã, hữu ngã của Phật giáo  đến con người phi ngã, bản ngã trong văn học Việt Nam trung đại.

 

1.3.1. Từ khái niệm vô ngã và hữu ngã …

 

Theo Từ điển Phật học, vô ngã (無我, sa. anātman, pi. anattā), là một trong Ba tính chất (sa. trilakṣaṇa) của sự vật. Quan điểm vô ngã là giáo pháp cơ bản của đạo Phật, cho rằng, không có một Ngã (sa. ātman, pi. attā), một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm trong sự vật. Như thế, theo đạo Phật, cái ngã (hữu ngã) là cái “tôi”, cái “tôi” cũng chỉ là một tập hợp của Ngũ uẩn (sa. pañcaskandha), luôn luôn thay đổi, mất mát và, vì vậy, “tôi” chỉ là một sự giả hợp, gắn liền với cái Khổ.

 

1.3.2. … đến khái niệm phi ngã – bản ngã.

Từ khái niệm triết học của vô ngã và hữu ngã đó, có thời văn học Việt Nam trung đại đã dùng khái niệm phi ngã và bản ngã để nó đến hình tượng con người cá nhân và con người cộng đồng trong các tác phẩm ra đời trong thời kỳ này. Tuy nhiên khái niệm này, hiện tại sách giáo khoa hiện hành rất ít sử dụng.

 

Từ điển tiếng Việt giải thích, phi: không, chẳng phải, sái quấy. Ngã: ta. Phi ngã là cái ngoại tại, không phải ta, tức là sự vật ngoại giới, đối lập với bản ngã. Phi ngã đồng nghĩa với vô ngã

Bản ngã: cái làm nên tính cách riêng biệt của mỗi người.

 

2. Những biểu hiện của con người công dân và con người cá nhân trong văn học Việt Nam trung đại.

 

2.1. Xét trên bình diện nội dung

2.1.1. Con người công dân biểu hiện qua các bình diện

 

Thứ nhất, là con người gắn bó trách nhiệm với vận mệnh của dân tộc: Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn); Hịch tướng sĩ văn (Trần Quốc Tuấn); Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão); Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)…

 

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

(Thơ Thần – Lý Thường Kiệt ?)

 

Thứ hai, là con người có lý tưởng, hoài bão và khát vọng cao cả: Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải); Cảm hoài (Đặng Dung); hay bài thơ Ngôn hoài sau đây của Dương Không Lộ:

 

Trạch đắc long xà địa khả cư

Dã tình chung nhật lạc vô dư

Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.

 

Thứ ba, có tầm hồn phóng khoáng, hồn hậu, chân thành: Thơ Nguyễn Trãi, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Minh Tông, …

 

Sóc phong xuy hải khí lăng lăng

Khinh khởi ngâm phàm quá Bạch Đằng

Ngạc đoạn kinh khô  sơn khúc khúc

Qua trầm kích chiết ngạn tằng tằng

Quan hà bách nhị do thiên thiết

Hào kiệt công danh thử địa tằng

Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ

Lâm lưu phủ ảnh ý nan thăng.

(Bạch Đằng hải khẩu – Nguyễn Trãi)

 

Đây cũng chính là hình tượng của những con người gắn liền với cảm hứng yêu nước trong dòng chảy của văn học Việt Nam trung đại.

 

2.1.2. Con người cá nhân biểu hiện qua các bình diện

 

Thứ nhất, con người cá nhân với ý thức khẳng định vẻ đẹp và tài năng của mình: thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, …

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)

Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà!

Rắn đầu biếng học quyết không tha

Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,

Nay thét, mai gầm rát cổ cha.

Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo,

Lằn lưng chẳng khỏi vết roi da.

Từ nay Châu Lỗ xin siêng học,

Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!

(Rắn đầu biếng học – Lê Quý Đôn)

 

Thứ hai, con người cá nhân với nhu cầu bộc lộ tình cảm riêng tư, tâm sự u ẩn: Thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, cá nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ), …

 

Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Lao xao chợ cá làng ngư phủ

Dắng dõi cầm ve lầu tịch dương

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ, khắp đòi phương

(Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi)

 

Thứ ba, con người với khát vọng tự do, bình đẳng, khát vọng tình yêu và hạnh phúc: thể hiện tiêu biểu trong các ngâm khúc hình thức song thất lục bát như Chinh phụ ngâm khúc (bản dịch của Đoàn Thị Điểm?); Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Ai tư vãn (Lê Ngọc Hân); Tự tình khúc (Cao Bá Nhạ), Thu dạ lữ hoài ngâm (Đinh Nhật Thận), Bần nữ thán (khuyết danh), …

 

Hồn bay ngàn dặm cũng gần,

Trong năm mươi khắc năm lần thấy cha.

Chợp, sực thức, la đà, gối bị,

Nằm, lại ngồi, rầu rĩ chiếu manh,

Hoá công khéo giữ nhân tình,

Đem người yên thuỷ bỏ vành lao lung!

(Tự tình khúc – Cao Bá Nhạ)

 

Hay

Buồn thay nhẽ, xuân về hoa ở,

Mối sầu riêng ai gỡ cho xong,

Quyết liều mong vẹn chữ tòng,

Trên rường nào ngại giữa dòng nào e.

Con trứng nước thương vì đôi chút,

Chữ tình thâm chưa thoát được đi,

Vậy nên nấn ná đòi khi,

Hình tuy còn ở, phách thì đã theo

(Ai tư vãn – Lê Ngọc Hân)

 

Thứ tư, cảm hứng hành lạc và khát vọng nhu cầu trần thế của con người cá nhân

Cao hơn khát vọng tự do, khát vọng tự khẳng định vẻ đẹp hình thể, trí tuệ của mình, văn học Việt Nam trung đại những năm cuối thế kỷ XVIII đến hết TK XIX còn thể hiện cảm hứng hành. Tất cả chuyện phòng the, chăn gối được Hồ Xuân Hương mở màn như phát súng lệnh:

 

Bốn mảnh quần hồng bay phất phới

Hai hàng chân ngọc duỗi song song

 

Hay:

Hiền nhân quân tử ai là chẳng

Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo

 

Đến Nguyễn Công Trứ, con người ngất ngưởng ấy tự trào khi nằm cạnh cô đào trẻ về tuổi của mình rằng: Ngũ thập niên tiền nhị thập tam,  và cũng đã không ít lần ông “tương tư”, ông “bỡn đào già”, “bỡn vợ lẽ”, …

 

Đây, một đoạn trong bài thơ Lời tiểu thiếp tự tình

 

Chốn cô phòng nănn nỉ với cầm chi

Đường viễn hoạch ngxo hầu tình chăng nhẽ?

Sau ông, Tú Xương không ngại ngần thể hiện:

Một trà một rượu một đàn bà

Ba cái lăng nhăng nó hại ta

Chừa được thứ nào hay thứ ấy

Có chăng chừa rượu với chừa trà.

 

Những bình diện của hình tượng con người cá nhân trong văn học Việt Nam trung đại gắn liền với nội dung cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự đời tư của các nhà văn, nhà thơ.

 

2.2. Xét trên bình diện hình thức nghệ thuật

2.2.1. Ở cấp độ thể loại

 

Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy, hình tượng con người công dân thường xuất hiện ở các thể loại hành chức. Không khó để nhận ra hình tượng của những minh quân, lương tướng, những nhân vật anh hùng hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc. Những con người công dân ấy xuất hiện trong Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn), Hịch tướng sĩ văn (Trần Quốc Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), Chiếu cầu hiền (một bài của Nguyễn Trãi, một bài của Ngô Thì Nhậm), …, qua những bài thư, luận, tấu, thuyết của Nguyễn Trãi, Nguyễn Trường Tộ, Phan Đình Phùng, …

 

Ở thể loại sử ký hình tượng con người công dân cũng in đậm nét. Đó là một Trưng vương, một Ngô Quyền, một Thái sư Trần Thủ Độ, một anh hùng Trần Quốc Tuấn, … qua những trang sử của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, …

 

Các thể loại văn học nghệ thuật hình tượng, con người công dân vẫn xuất hiện như nhân vật Quang Trung (Hoàng Lê nhất thống chí – Ngô gia văn phái), hay Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn trong Nam triều công nghiệp chí của Nguyễn Khoa Chiêm, hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, … Song tần số xuất hiện ít hơn so với hình tượng con người cá nhân.

 

Nói khác đi, ở những thể loại văn học nghệ thuật (chúng tôi phân biệt văn h Việt Nam trung đại xét về chức năng có thể loại chính: văn học hành chức (cáo chiếu, hịch, biểu, thư, luận, thuyết, …) và văn học mang tính hình tượng (phú, thơ Đường luật, truyện thơ lục bát, ngâm khúc, hát nói, …), hình tượng con người cá nhân thể hiện rõ nét hơn.

 

Tuy nhiên, ta không thể và cũng không cần phân biệt rạch ròi giữa hai hình tượng con người công dân và con người cá nhân trong cùng một … con người! Bởi nó luôn luôn tồn tại những hai mặt của cuộc sống. Sự ảnh hưởng qua lại này, thấy rõ ở quan niệm xuất – xử của các tác gia Nho sĩ mà chúng tôi đề cập ở phần loại hình tác gia, phía sau .

 

Thể loại thơ Đường luật sự vận động từ con người công dân đến con người cá nhân rõ nét hơn. Ta dễ dàng nhận thấy hình tượng của những nhân vật trữ tình nguyện một lòng vì dân vì nước (con người công dân) như trong Quốc tộ (Đỗ Pháp Thuận), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão), Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải), Cảm hoài (Đặng Dung), … đến những bài thơ thất ngôn xen lục ngôn trong tập Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi), …

 

Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiên lí thái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh

(Quốc tộ – Pháp Thuận)

 

Và đến nửa cuối TK XVIII cho đến hết TK XIX, hình tượng con người cá nhân trong thơ Đường luật lại chiếm ưu thế cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Nhiều bài thơ mang cảm hững thế sự của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, … nhiều nhân vật khẳng định cái đẹp bản thể, cái tài hoa, sự sáng tạo của mình qua thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát, …

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo

Kìa, đền thái thú đứng cheo leo

Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu

(Đề đền Sầm Nghi Đống – Hồ Xuân Hương)

 

Ở truyện thơ lục bát, các ngâm khúc hình thức song thất lục bát, các bài hát nói, hình tượng con nhân cá nhân chiếm ưu thế tuyệt đối so với con người công dân.

 

2.2.2. Xét ở cấp độ ngôn từ

Thứ nhất, hình tượng con người công dân gắn liền với những hình ảnh và từ ngữ mang tính điển phạm. Và, điều dễ nhận thấy nhất khi xây dựng con người công dân, các nhà thơ luôn dùng hệ thống điển tích, lớp từ Hán Việt như một điều tất yếu. Xin đọc đoạn đầu trong Hịch tướng sĩ, hay mấy câu phú của Trương Hán Siêu sau đây để minh hoạ:

 

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương

Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt

Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt

….

Học Tử Trường chừ thú tiêu dao

Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều

Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều, …

 

Đại từ nhân xưng cũng mang tính ước lệ: ta, khanh, thiên tử, bề tôi, … được dùng phổ biến.

Thứ hai, hình tượng con người cá nhân gắn liền với lớp từ thuần Nôm, dân gian, từ láy, từ tự xưng, thậm chí cả những câu chửi, tiếng gào, …

 

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

 (Độc Tiểu Thanh ký – Nguyễn Du)

 

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Nửa đắp chăn bông nửa lạnh lùng

(Làm lẽ – Hồ Xuân Hương)

 

Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng

(Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ)

 

Đù mẹ nhân tình đù mẹ đời

Lạt như nước ốc, bạc như vôi

(Thói đời – Nguyễn Công Trứ)

2.2.3. Sự manh nha của câu thơ điệu nói

 

Các nhà thi pháp học cho rằng câu thơ, giọng thơ của văn học Việt Nam trung đại là câu thơ điệu ngâm. Tức là câu thơ không thể hiện dấu ấn cá nhân của chủ thể trữ tình. Song, từ thực tế khảo sát văn học Việt Nam trung đại đặc biệt từ Hồ Xuân Hương trở về sau, chúng tôi thấy đã có sự manh nha của câu thơ điệu nói.

Ở câu thơ điệu nói các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, câu thơ điệu nói có thể cho phép nhà thơ thể hiện rõ ràng, dứt khoát lập trường tư tưởng, tình cảm của cá nhân trữ tình. Câu thơ trở thành lời nói cá thể, nó có ngữ khí từ, câu hỏi, câu cảm thán, hướng tới một ai đó, hoặc hướng tới chính người đọc, theo kiểu tự bộc bạch, tâm sự với bạn bè.

 

Câu thơ điệu nói giải phóng giọng điệu cá thể, làm cho nó hiện ra trên bề mặt, đồng thời cải tạo lại chất nhạc của thơ – không phải nhạc trầm bỗng réo rắc do phối hợp bằng trắc tạo nên mà là do tiếng người, ngữ điệu người, giọng điệu người.

Thành phần của lời thơ trữ tình điệu nói rất đa dạng. Có các hư từ, các cách lập luận, các khẩu hiệu, có tiếng hô lời chào, lời chêm, câu hỏi, đối đáp, có cách vắt dòng, nhiều khi cả khổ thơ chỉ là một câu.    

Đọc thơ Nguyễn Công Trứ, không khó để ta có thể chọn dẫn chứng minh hoạ:

 

Tao ở nhà tao tao nhớ mi

Nhớ mi tao mới bước chân đi

(Bỡn nhân tình)

 

Nguyễn Khuyến có khi dùng hàng loạt những hư từ để đưa vào thể thơ được cho là niêm luật phải chặt chẽ nhất: thơ Đường luật:

 

Cũng cờ cũng biển cũng cân đai

Cũng gọi ông nghè có kém ai

 

Một Tú Xương chửi đổng:

 

Đù cha đù mẹ cái dát giường

Đêm nằm chỉ thấy những đau thương

Đến mai mua nứa ông mần lại

Đù mẹ đù cha cái dát giường

(Chửi dát giường)

 

Chúng tôi cho rằng đó là sự manh nha của câu thơ điệu nói, điều đặc biệt quan trọng làm nên sự thành công vang dội của phong trao thơ mới ở thập niên 30 – 40 của thế kỷ XX.

 

3. Những nét đặc thù trong cảm thức và việc ảnh hưởng của nó đối với việc xây dựng hình tượng con người công dân, con người nhân trong văn học Việt Nam trung đại

 

3.1. Những tiền đề xã hội ảnh hưởng đến việc xây dựng hình tượng con người công dân trong văn học Việt Nam trung đại

 

3.1.1. Cơ sở lịch sử xã hội

 

Mười thế kỷ trung đại là mười thế kỷ nhân dân ta không ngừng chiến đấu chống xâm lăng bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước thống nhất. Tư tưởng đó gắn liền với hình tượng người công dân Đại Việt ái quốc, trung quân. Hơn thế, như T.S Nguyễn Kim Châu, đã chỉ ra căn nguyên của vấn đề

 

Gắn bó với thiên nhiên, với đời sống nông nghiệp và nền kinh tế tự cấp, tự túc, có thói quen sống quẩn tụ trong cộng đồng làng xã, gia đình, tộc họ, có nhu cầu liên kết với cộng đồng để canh tác, đắp đê chống lũ, dẫn nước chống hạn, thích sự ổn định, ngại thay đổi sáng tạo, con người thời cổ luôn có xu hướng hoà nhập vào cộng động, chỉ tìm thấy sự tồn tại đích thực của mình trong cộng đồng và ý thức rõ trách nhiệm của mình trong cộng đồng và ý thức rõ trách nhiệm của mình đối với cộng đồng, thậm chí có thể sẵn sàng hy sinh cá nhân để phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng. Đặc điểm nêu trên là cơ sở hình thành những cảm thức xã hội đặc thù của con người trung đại.

 

3.1.1.1. Xã hội trong cảm thức của con người thời cổ là một xã hội ổn định, bất biến như chính cuộc sống canh tác ngàn đời của người nông dân, bởi lẽ những cách tân mới mẻ chưa được kiểm chứng qua thực tế đôi khi phải trả bằng một giá rất đắt. Tốt nhất là học tập, sử dụng kinh nghiệm của người xưa, xem đó là mẫu mực. Hệ quả của nhu cầu ổn định trong hoạt động nông nghiệp là nhu cầu về sự ổn định của thiết chế xã hội, của những quy định nghiêm ngặt mà mọi thành viên trong cộng đồng buộc phải tuân thủ.

 

3.1.1.2. Sự ổn định của thiết chế xã hội phản ánh rõ qua việc phân chia, quy định cụ thể, chặt chẽ về vị trí, quyền lợi của các tầng lớp, đẳng cấp tạo nên một trật tự bất di, bất dịch, cha truyền con nối, đòi hỏi mỗi thành viên trong cộng đồng phải tuyệt đối tuân thủ, trẻ phải kính trọng già, người ở đẳng cấp thấp phải phục tùng người ở đẳng cấp cao.

 

3.1.1.3. Sự phục tùng tuyệt đối trật tự xã hội dẫn đến việc đặc biệt đề cao chữ “LỄ” trong cách ứng xử, quan hệ ở mọi môi trường sống, từ gia đình, trường học, đến xã hội, quốc gia. Điều này được Khổng Tử nhắc đến như một nguyên tắc, một tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá nhân cách con người: Khắc kỷ phục lễ vi nhân.

 

3.1.1.4. Lễ trong mọi cách ứng xử, quan hệ được thể hiện cụ thể bằng một hệ thống vô cùng phong phú và phức tạp những quy ước, những ký hiệu mang tính chất tượng trưng, ước lệ, từ những chi tiết nhỏ nhặt như cách ăn mặc, nói năng, giao tiếp, màu sắc trang phục, đến cái lớn lao như các biểu hiện quyền lực, nghi thức cúng tế, thiết triều, … với cộng đồng, ít có ý thức về cá tính, nói tiếng nói chung của cộng đồng, phục vụ mọi quy định của cộng đồng.

 

3.1.2. Cơ sở văn hoá, văn học

 

Thứ nhất, tam giáo đồng nguyên (Nho, Phật, Lão) với tất cả những gì ưu tú nhất của nó đã được người Việt Nam tiếp nhận. Cùng với những sáng tạo và tiếp biến tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo đã trở thành một phần của bản sắc văn học Đại Việt.

 

Thứ hai, lực lượng sáng tác phần lớn là những người theo cửa Khổng, sân Trình, nhiều người là những nhà sư có công lớn với triều đình (TK X – XII), là vua, quan, những bậc công thần, những đấng anh hùng. Có thể nó không quá rằng, họ cũng chính là thế hệ của những nhà văn vừa là chiến tướng, vừa là thi sĩ. Chính vì thế, hình tượng mà họ trực tiếp tạo ra gắn liền với công việc, nhiệm vụ của cả dân tộc.

 

Ngay cả khi “thưởng lãm”, khẩu khí của bậc đế vương cũng kịp dựng lên hình tượng con người của cộng đồng quốc gia:

 

Cảnh thanh u vật diệc thanh u,

Thập nhất tiên châu thử nhất châu.

Bách bộ sinh ca, cầm bách thiệt,

Thiên hàng nô bộc, quất thiên đầu,

Nguyệt vô sự chiếu nhân vô sự.

Thủy hữu thu hàm thiên hữu thu.

Tứ hải dĩ thanh, trần dĩ tịnh,

Kim niên du thắng tích niên du.

(Trần Thánh Tông – Hạnh Thiên Trường hành cung)

 

3.2. Những tiền đề xã hội ảnh hưởng đến việc xây dựng hình tượng con người cá trong văn học Việt Nam trung đại

 

3.2.1. Cơ sở lịch sử, xã hội, kinh tế, văn hoá

 

Năm 1497 (cuối TK XV), vị minh quân Lê Thánh Tông băng hà, nhà Lê bắt đầu bước vào thời kỳ khủng hoảng. Bước vào TK XVI, những mâu thuẫn trong lòng chế độ phong kiến đã bộc lộ một cách dữ dội, dẫn đến sự bùng nổ phong trào nông dân khởi nghĩa và những cuộc xung đột triền miên giữa các tập đoàn phong kiến nhà Lê. Quốc gia phong kiến bước vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và kéo dài.

 

Ba mươi năm (1497 – 1527), có đến sáu hoàng đế nhà Lê thay nhau ở ngôi. Không có ai để lại dấu ấn gì trên vũ đài chính trị, có chăng là một Lê Uy Mục nghiện rượu, hiếu sát, hoang dâm, thích ra oai,  người đương thời gọi đó là Vua Quỷ [Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ thực lục, kỉ nhà Lê, quyển 14, tờ 39-a], hay Lê Tương Dực chơi bời vô độ, xây dựng liên miên, dân nghèo mất cơ nghiệp, trộm cướp nổi lên, nguy cơ bị diệt vong bắt đầu ở đây [Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ thực lục, kỉ nhà Lê, quyển 15, tờ 1-a], sự khủng hoảng trầm trọng trong cung đình và hiện tượng xung đột diễn ra gay gắt (nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân do Lê Hy, Trịnh Hưng và Lê Minh Triệt lãnh đạo ở Nghệ An, năm 1512; khởi nghĩa của Trần Công Ninh ở Yên Lãng – Vĩnh Phúc, năm 1516, …) đã đẩy nhà Lê lao nhanh xuống vực thẳm của sự diệt vong.

 

Năm 1527, Mạc Đăng Dung tiếm ngôi, lập nên nhà Mạc. Nhưng rồi nhà Mạc cũng có những hạn chế nhất định trong công cuộc chấn hưng lại đất nước.

 

Từ đây bắt đầu cuộc tranh giành Lê – Mạc (Đàng Trong và Đàng Ngoài). Sau khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung không thu phục được lòng người, nhiều bậc nho sĩ tài năng hoặc bỏ đi ở ẩn, hoặc lẩn tránh tìm phò nhà Lê. Năm 1533, Nguyễn Kim tôn Lê Ninh xưng là Lê Chiêu Tông ở Thanh Hóa (Nam triều). Cuộc chiến tranh Lê – Mạc diễn ra [sử cũ còn gọi đây là cuộc chiến tranh Nam –  Bắc triều]. 60 năm (1533 – 1592), hai bên huy động mọi lực lượng đánh nhau cả thảy 38 trận, kết quả cuối cùng Nam triều đè bẹp được Bắc triều. Kể từ năm 1592, nhà Lê lại đóng đô tại kinh thành Thăng Long (sử cũ gọi đây là triều đại Lê Trung Hưng).

 

Chiến tranh Lê – Mạc vừa dứt, lại bắt đầu cuộc chiến Trịnh – Nguyễn. Phò nhà Lê chưa đạt thành sở nguyện, năm 1545 Nguyễn Kim bị một hàng tướng của nhà Mạc đầu độc chết. Con rễ của Kim là Trịnh Kiểm thâu tóm quyền bính. Con trai của Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng nhanh trí tìm đường vào Nam mưu nghiệp dài lâu. Cuộc đối đầu lâu dài và quyết liệt giữa họ Nguyễn và nhà Trịnh thực sự bắt đầu từ năm 1627. Liên tiếp trong 45 năm trời (1627 – 1672) hai bên đánh nhau cả thảy 7 trận lớn nhỏ nhưng bất phân thắng bại. Cuối cùng hai bên lấy sông Gianh làm giới tuyến.

 

Nhà Nguyễn sau khi định đô ở Thuận Hóa, các chúa Nguyễn bằng nhiều cách thức khác nhau không ngừng mở rộng lãnh thổ xuống phương Nam. Đến cuối TK XVII, đất Đàng Trong đã mở tới vùng Sài Gòn – Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh). Đất Thuận Hoá (Huế) trở thành kinh đô mới kể từ thời gian này.

 

Sang TK XVIII, lịch sử, xã hội Việt Nam có những biến động lớn.

Dưới sự thống trị của triều đình phong kiến chuyên chế, cùng với sự áp bức bóc lột của bọn quan lại, cường hào địa phương, đời sống của người nông dân ngày càng bần cùng khổ sở. Mất mùa, thiên tai xảy ra liên tiếp trong những năm đầu TK XVI, làm cho đời sống của nông dân lại càng thêm điêu đứng. Tình hình đó đã tất yếu dẫn tới sự bùng nổ hàng loạt các cuộc nông dân khởi nghĩa nhằm lật đổ bộ máy thống trị chuyên chế. Nguyễn Danh Phương (1741 – 1751) lập căn cứ ở Tam Đảo rồi làm chủ được một vùng đất rộng lớn ở Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Cạn, Phú Thọ, …; Nguyễn Hữu Cầu (1741 – 1751) nối chí lớn của lãnh tụ Nguyễn Cừ gây chấn động dữ dội khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra còn có các cuộc khởi nghĩa lớn khác của Hoàng Công Chất (1739 – 1769), Lê Duy Mật (1738 – 1770). Đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của ba anh em nhà Tây Sơn (1771 – 1802). Hơn một thế kỷ thanh gươm yên ngựa, anh em nhà Nguyễn Tây Sơn mà tiêu biểu là vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã ghi những dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc. Năm 1785, Nguyễn Huệ chỉ huy đội chiến thuyền phá tan tành hơn 5 vạn quân Xiêm tại Rạch Gầm – Xoài Mút. Năm 1788, Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh phò Lê, cưới công chúa Ngọc Hân (con vua Lê Hiển Tông). Năm 1789, Nguyễn Huệ xưng hoàng đế rồi kéo quân ra Bắc phá tan tành 29 vạn quân Thanh xâm lược bằng trận Ngọc Hồi – Đống Đa lịch sử.

 

Phong trào nông dân đã liên tục nổ ra như bão táp. Một mặt nó làm lay động đến tận gốc rễ nền thống trị vốn đã mục nát của triều đình nhà Lê, góp phần đẩy nhanh triều đại này tới chỗ diệt vong. Nhưng mặt khác, nó cũng góp phần làm thức tỉnh ở người dân ý thức, dân chủ, tự do, tinh thần đấu tranh vì công bằng xã hội, đồng thời cũng làm cho họ ngày càng hiểu rõ hơn về vai trò và sứ mạng của mình trước lịch sử.

 

Sau khi Quang Trung Nguyễn Huệ đột ngột qua đời, triều đình Tây Sơn lại lục đục mâu thuẫn. Điều kiện đó đã tạo cơ hội cho Nguyễn Ánh nhanh chóng giành lại quyền cai trị đất nước. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, đặt quốc hiệu Việt Nam, lãnh thổ nước ta thống nhất hoàn toàn và có hình dạng cơ bản giống như ngày nay. Do sự bảo thủ, bế quan toả cảng nghiêm ngặt, năm 1858 bằng nhiều lý do khác nhau, Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Lịch sử dân tộc bước sang trang mới.

Về kinh tế và văn hoá cũng có nhiều biến động.

 

Với tiềm lực lao động mạnh mẽ của nhân dân lao động cùng với chính sách khuyến khích thương nghiệp của các chúa Trịnh, nền kinh tế hàng hóa nước ta ở TK XVII đã có nhiều chuyển biến; thành thị trở nên phồn thịnh, sầm uất.

Thủ công nghiệp với tính chất là nghề phụ gia đình của nông dân ngày càng phát triển rộng khắp. Trong những nghề thủ công đương thời, nghề làm giấy và nghề khắc ván in phát triển. Đây là tiền đề hết sức quan trọng cho việc truyền bá và lưu hành văn chương. 

 

Sự mục ruỗng của guồng máy nhà nước phong kiến thống trị đương thời đã trực tiếp tạo những ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu sắc  đến toàn bộ quá trình suy vi của Nho giáo. Chế độ thi cử thời vua Lê, chúa Trịnh không ổn định. Theo Phan Huy Chú chỉ trong vòng chưa đầy trăm năm 1678 – 1765, các đời vua Lê, chúa Trịnh nối nhau đã có đến 12 lần thay đổi phép thi Hương [146, 70]. Chính sự mất ổn định trầm trọng này đã góp phần không nhỏ vào việc tạo ra sự chán chường trong tâm lý chung của các thế hệ học trò đương thời. Triều đình lại cho bán học vị công khai với giá cả rõ ràng, sinh đồ ba quan là một ví dụ điển hình. 

 

Sau sự kiện 1527, tầng lớp Nho sĩ xuất hiện hai xu hướng:

Xu hướng thứ nhất chịu ra làm quan (tức xuất sĩ) tuy thu hút được nhiều Nho sĩ, nhưng lực lượng của xu hướng này có hai vấn đề rất đáng lưu ý: một là họ bị phân chia thành hai khối, hai phe đối nghịch nhau, hoặc là theo Nam triều (triều Lê) hoặc là theo Bắc triều (triều Mạc). Họ cùng học chung sách vở, nghe giảng chung một đạo lý, nhưng lại hiển đạt ở hai nơi và đứng trên hai chiến tuyến. Họ thường công kích nhau. Nhưng dù theo Lê hay Mạc thì Nho gia vẫn cứ là Nho gia, họ cũng có nhiều điểm tương đồng trong nhận thức. Hai là: đối với lực lượng Nho sĩ lập danh chốn quan trường này là bản thân sự liên giữa họ với nhau cũng rất lỏng lẻo. Sống giữa thời loạn, việc thiếu niềm tin cậy lẫn nhau cũng là điều bình thường. Và chính điều bình thường này đã góp phần làm cho thời loạn càng thêm loạn. 

 

Xu hướng thứ hai của lực lượng Nho sĩ sau sự kiện năm 1527 là lánh mình ẩn dật (tức là xử sĩ). Thực ra, rất ít ai vừa đỗ đạt xong lại chịu xa lánh quan trường. Lực lượng xử sĩ trong giai đoạn này gồm hai bộ phận chính: một là những người thật sự uyên thâm, đa văn quảng kiến nhưng không chịu đi thi. Số này không nhiều và trong thực tế, ảnh hưởng xã hội của họ cũng không rộng lắm. Hai là những người từng đỗ đạt, từng được bổ nhiệm làm quan nhưng chỉ trong một thời gian ngắn thì buồn nản, trao trả chức tước cho triều đình rồi trở về. Số này đông hơn và ảnh hưởng của họ đối với xã hội cũng rộng lớn hơn.

 

Nho giáo suy thoái, Phật giáo lại có cơ hội phát triển. Từ đầu TK XV, ngay sau khi rút khỏi vũ đài chính trị và tư tưởng (nhường chỗ cho Nho giáo), Phật giáo đã tìm cách phát triển và củng cố vị trí của mình trong lòng xã hội. Từ TK XVI trở đi, ở Đàng Ngoài, chùa chiền được trùng tu và xây dựng liên tiếp, người xuất gia tu hành ngày một đông. Trong số họ nhiều khi có cả những người đã từng là môn đồ của cửa Khổng sân Trình trước đây (Phạm Thái là một ví dụ điển hình; Nguyễn Du; Nguyễn Gia Thiều ảnh hưởng từ Phật giáo cũng không ít).

 

Một số dòng Thiền tông cũ hồi sinh, nổi bật nhất là dòng Lâm Tế, dòng Thiền tông mới là Lân Giác ra đời; trong đời sống tư tưởng của đông đảo xã hội Đàng Ngoài, những quy phạm có nguồn gốc đạo đức từ Phật giáo ngày càng được đề cao và chùa chiền thực sự trở thành trung tâm sinh hoạt văn hoá có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với mọi tầng lớp. 

 

Ở Đàng Trong, ngay từ đầu Phật giáo rất được đề cao. Và từ đó đến mãi các thế kỷ sau, Phật giáo chiếm vai trò quan trong về mặt tư tưởng của cư dân xứ hoang hoá này.

 

Cũng có thể nói, ở thời kỳ này có cuộc hội nhập giữa Đạo giáo với văn hoá dân tộc. Ở Đàng Ngoài, vua Lê – chúa Trịnh nhiều lần đến viếng hoặc cầu đảo ở các đền, miếu và Đạo quán. Ở Đàng Trong chúa Nguyễn cũng rất cởi mở với Phật giáo và Đạo giáo. Tóm lại, lúc bấy giờ nhiều người lên tiếng quảng bá cho quan điểm Tam giáo đồng nguyên hoặc Tam giáo đồng quy nhưng đời sống tư tưởng cũng chẳng phải vì thế mà có được cuộc hội nhập thực sự hài hoà giữa Nho, Phật và Đạo.

 

3.2.2. Cơ sở văn học

 

Trước hết cần nói đến lực lượng sáng tác.

Trong văn học Việt Nam trung đại, nhà Nho vẫn là lực lượng sáng tác cơ bản. Đối với nhà Nho đỗ đạt, vấn đề xuất – xử tương ứng với hai thái độ ứng xử; hành – tàng luôn luôn đặt ra (phần lớn là ngay trong bản thân từng nhà Nho)… Đây chính là chỗ khó khăn cho nhà nghiên cứu khi phân thành hai loại hình tác giả. Tuy nhiên có thể thấy, cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, bối cảnh không gian, thời gian tồn tại cho từng loại, kéo theo đó là cái nhìn, quan niệm của họ về con người và thế giới có những điểm khác nhau… Từ đây, trên một mức độ nhất định cũng có thể khái quát thành hai loại nhà Nho hành đạo và ẩn dật  hai loại hình được coi là chính thống trong văn học trung đại Việt Nam. Nhà Nho hành đạo muốn thực hành những nguyên tắc của đạo lý Nho gia, sẵn sàng dấn thân nhập cuộc thực hiện lí tưởng trí quân trạch dân, mong ước một xã hội phong kiến mẫu mực theo mô hình Nghiêu Thuấn. Hình tượng tác giả hiện lên trong sáng tác của họ luôn với tư cách là con người hành động, thực tiễn, ưu thời mẫn thế, sẵn sàng xả thân vì Nghĩa. Sáng tác của nhà Nho hành đạo mang đậm màu sắc đạo lý, mang tính quy phạm cao; quy phạm trên cả hai phương diện nội dung, tư tưởng và hình thức, thể loại, ngôn ngữ.

 

Nhà Nho ẩn dật, vẻ ngoài lại như là một biểu hiện đối cực của loại nhà Nho hành đạo. Họ phủ nhận việc hành đạo nhưng là loại hành đạo ngu trung, thiếu tỉnh táo. Tác giả ẩn dật (không chỉ có riêng nhà Nho) trong văn học Việt Nam có thể kể từ Huyền Quang Lý Đạo Tái, Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ đến Ngô Thế Lân, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Khuyến. Đề cao và bảo toàn Danh – Tiết là đặc điểm cơ bản, chủ đạo trong ý thức, tư tưởng của tác giả ẩn dật. Để thực hiện điều này trước hết họ tìm đến một môi trường, một không gian vô trần, cô tịch, tránh mọi mối liên hệ xã hội (Thực ra cũng khó tránh được những dăng mắc của lưới đời, không ít trường hợp phải chấp nhận bi kịch. Câu chuyện Sư Huyền Quang và nàng Điểm Bích; giấc mơ làm một Đào Tiềm của Yên Đổ là những bằng chứng sinh động cho bi kịch vừa nêu). Họ coi thường danh lợi, quên cả dòng thời gian thế sự vì trong núi không có lịch, tự nhận về mình bao nhiêu thứ dại dột, ngu hèn, tăm tối (chỉ là một cách nói phản ngữ). Hình tượng nhà Nho giữ Tiết là hình tượng đẹp nhất trong sáng tác của tác giả ẩn dật.

Khác với hai loại trên, nhà Nho tài tử ra đời muộn (từ TK XVIII), khi trong xã hội đã xuất hiện những yếu tố mới: đô thị, tư tưởng thị dân. Con người phát hiện ra mình là một thực thể tồn tại thực sự với những nhu cầu, khát vọng sống cá nhân. Nhà Nho tài tử, gốc, dĩ nhiên vẫn là Nho nhưng càng ngày càng xa rời những quy phạm, chuẩn mực khắt khe, giáo điều của đạo lý Nho giáo. Giá trị cao nhất trong quan niệm về con người, về nhân sinh đối với họ là Tài (nhất là tài văn chương nghệ thuật cầm, kỳ, thi, hoạ) và Tình (đặc biệt là tình đối và giai nhân). Tài gắn liền với Tình, với Sắc, với hưởng thụ. Chính họ là lớp nhà Nho tạo nên trào lưu nhân đạo chủ nghĩa độc đáo trong văn học nửa sau TK XVIII – nửa đầu TK XIX. Kiểu tác gia này rất nhạy cảm với các vấn đề mới nảy sinh, trong đó tự ý thức về bản thân mình, khẳng định cái tài hoa, độc đáo, sự sáng tạo trong nghệ thuật là khát vọng vươn tâm thời đại lúc bấy giờ.

Thứ hai, truyền thống trữ tình của văn học dân tộc và sự trỗi dậy của những tư tưởng, tình cảm mới, văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học trung đại, đậm tính trữ tình. Đây là cơ sở tốt nhất để các tác giả tự bộc lộ tư tưởng, tình cảm cá nhân của riêng mình.

 

Từ TK XVI, đặc biệt là từ TK XVIII, con người luôn sống trong tâm trạng lo âu, phấp phỏng, sầu buồn, họ chìm trong triền miên đau khổ bởi nhiều nguyên nhân, mà nguyên nhân sâu xa gây nên là các thế lực thống trị Chính vì thế chưa bao giờ hình tượng con người cá nhân xuất hiện trong văn học nhiều như thế.

 

Thời kỳ này, con người phát hiện ra mình là một thực thể tồn tại thực sự với tất cả những nhu cầu khát vọng cao nhất của nó.

 

4. Kết luận

 

Thứ nhất, ở thời kỳ ổn định và phát triển của nhà nước phong kiến, mối quan tâm hàng đầu của văn học chính là hình tượng con người công dân gắn bó với những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước. Ý thức trách nhiệm, những tình cảm công dân lớn lao, cao cả được đặc biệt đề cao.

 

Thứ hai, trong giai đoạn nhà nước phong kiến trượt dài trên cái dốc suy thoái, con người cá nhân với ý thức cá tính, tài năng với nhu cầu tự khẳng định và khát vọng mãnh liệt về tự do, tình yêu, hạnh phúc lại là hình tượng trung tâm của các tác phẩm chứa đựng tinh thần nhân văn cao cả. Sự chuyển biến từ chỗ đặc biệt quan tâm đến hình tượng con người công dân đến chỗ đặc biệt quan tâm đến hình tượng con người cá nhân thể hiện rõ nét đặc trưng của văn học Việt Nam trung đại.

 

Thứ ba, con người cá nhân hình thành và phát triển mạnh mẽ ở văn Việt Nam trung đại giai đoạn hậu kỳ đã trở thành một động lực nội sinh quan trong góp phần hình thành phong trào Thơ Mới xuất sắc 1932 – 1945./.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

1. Lại Nguyên Ân (chủ biên), Bùi Văn Trọng Cường (1997), Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

3. Nguyễn Đổng Chi (1993), Việt Nam cổ văn học sử, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh.

4. Nguyễn Đình Chú – Nguyễn Lộc (chủ biên, 2000), Văn học 10, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5. Biện Minh Điền (2008), Vấn đề tác giả và phong cách cá nhân nhà văn trong văn học Việt Nam trung đại, Đại học Vinh, Nghệ An.

6. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Dương Quảng Hàm (1961), Việt Nam văn học, Bộ Giáo dục Quốc gia, Sài Gòn.

8. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu Sài Gòn.

9. Phan Trọng Luận (tổng chủ biên, 2006), Ngữ văn 10, tập 1 và tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Nguyễn Đăng Na (2001), Đặc điểm văn học trung đại Việt Nam – Những vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 

11. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 2: Văn học lịch triều Việt văn, Nxb Đồng Tháp, Đồng Tháp.

12. B.L.Riftin (2007), Thể loại văn học Trung Quốc thời trung đại, Tạp chí Văn học, số 11.

13. Trần Đình Sử (tổng chủ biên, 2006), Ngữ văn 10 , tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

14. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Bùi Duy Tân (chủ biên, 2004), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (TK X –  TK XIX), (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Bùi Duy Tân (chủ biên, 2007), Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (TK X –  TK XIX), (tập 2), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

17. Trần Minh Thương (2009), Điển tích qua các tác phẩm ngâm khúc hình thức song thất lục bát trong văn học Việt Nam trung đại, Tạp chí Ngôn ngữ, số 5 (240), Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.