VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – VẤẤN ĐỀỀ LAO Đ NG VI T NAM HI N NAYỘ Ở Ệ Ệ Trong quá trình hội – Studocu

V

ẤẤN ĐỀỀ LAO Đ

NG

VI

T NAM HI

N NA

Y

T

rong quá

trình hội

nhập kinh

tế quốc tế,

vấn đề

lao động

có vai

trò quan trọng,

mang tính

cấp

thiết,

lâu dài

đối với

sự phát

triển

bền vững

nền kinh

tế.

V

iệc làm

giải quyết

việc làm

luôn

là vấn

đề mang tính thời

sự được quan tâm hàng đầu

nhằm đảm bảo sự phát triển

bền vững cho nền kinh

tế

hội

của

một

quốc

gia.

V

iệt

Nam

cũng

không

ngoại

lệ,

với

đặc

đi

ểm

một

nước

dân

số

trẻ,

nguồn

nhân

lực

phong

phú,

dồi

dào

đó

thế

mạnh

trong

phát

triển

kinh

tế

hội

của

chúng

ta.

Song đồng

thời nó

cũng luôn

tạo ra

sức ép về

việc làm

cho toàn

xã hội.

Qua bài

thuyết trình này

em

sẽ cùng thầy và các bạn tìm hiểu về vấn đề lao động tại V

iệt Nam hiện nay

, từ đó đưa ra được những

giải pháp cho những vấn đề còn tồn tại

.

Theo

đánh

giá

của

V

iện

Nghiên

cứu

quản

kinh

tế

T

rung

ương

(CIEM),

thị

trường

lao

động

V

iệt

Nam

vẫn

thị

trường

thừa

lao

động,

chất

lượng

việc

làm

chưa

cao;

phát

triển

không

đồng

đều, mất cân đối

cung – cầu lao động giữa

các vùng, khu vực, ngành nghề

kinh tế. Kỹ năng lao

động

của V

iệt

Nam

chỉ

xếp thứ

103

thế

giới.

Đúng

lực

lượng

lao

động

dồi

dào vốn

thế

mạnh

của

thị

trường

V

iệt

Nam

nhưng

tốc

độ

già

hóa

dân

số

diễn

ra

nhanh

nên

số

lượng

lao

động

trong

độ

tuổi

đang giảm

dần. Tính

đến cuối

tháng 3-2021,

lực lượng

lao

động từ

15

tuổi trở

lên của

cả

nước là

51

triệu người, giảm 200.000

người so với cùng kỳ năm

2020 và giảm 600.000 người

so với năm 2019.

Còn

theo

số

liệu

Tổng

cục

Thống

công

bố,

lực

lượng

lao

động

trong

độ

tuổi

lao

động

tại

thời

điểm quý III/2021

ước tính là

43,2 triệu người,

giảm 1,9 triệu

người so quý

II-2021 và giảm

ba triệu

người so cùng kỳ năm 2020.

Và cho dù nguồn lực có dồi dào thì chất lượng tay nghề v

ẫn còn là điều

đáng

để

bàn

bạc.

Kết

quả

khảo

sát

các

chủ

sử

dụng

lao

động

tại

10

quốc

gia

ASEAN

do

Tổ

chức

Lao

động

quốc

tế

(ILO)

thực

hiện

cho

thấy

,

doanh

nghiệp

trong

khối

ASEAN

hiện

đang

rất

lo

ngại

về

tình

hình

thiếu

hụt lực

lượng

lao

động có

tay

nghề

kỹ

năng;

gần

50%

chủ

sử

dụng

lao

động

trong

cuộc

khảo

sát

cho

biết,

người

lao

động

tốt

nghiệp

phổ

thông

không

được

kỹ

năng

họ

cần;

cử

nhân tốt

nghiệp

đại học

dẫu

được

trang bị

những

kỹ

năng có

ích

nhưng cũng

chưa

đáp

ứng được

nhu

cầu

của

doa

nh

nghiệp.

Do

trình

độ

phát

triển

không

đồng

đều,

nên

hiện

nay

lao

động

tay

nghề

kỹ

năng

cao

trong

khối

ASEAN

chủ

yếu

di

chuyển

vào

thị

trường

Singapore,

Malaysia

Thái

Lan.

Còn

lại

hầu

hết

các

lao

động

di

chuyển

trong

ph

ạm

vi

ASEAN

lao

động

trình

độ

kỹ

năng thấp

hoặc không có

kỹ năng. Còn

cụ thể tại V

iệt Nam thì

v

chất lượng, tỷ lệ

lao động

qua đào

tạo có bằng, chứng chỉ mới đạt 26%, chư

a đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo ngày

càng

tăng

của

các

đơn

vị,

doanh

nghiệp.

Chính

điều

này

đã

khiến

một

bộ

phận

người

lao

động

khó

tiếp cận với

cơ hội việc

làm bền vững,

trong khi nhiều

doanh nghiệp không

tuyển được nhân

sự phù

hợp.

Nguyên

nhân

chất

lượng

lao

động

thấp

bởi

lực

lượng

lao

động

nước

t

a

chủ

yếu

tập

trung

khu

vực

nông

thôn,

chiếm

khoảng

gần

70%.

Con

số

này

xu

hướng

giảm

qua

các

năm

nhưng

vẫn

mức

cao.

Cả

nước

hiện

khoảng

17

triệu

thanh

niên

nông

thôn

độ

tuổi

từ

15-30,

chiếm

70%

số

thanh

niên

60%

lao

động

nông

thôn.

T

uy

nhiên

,

80%

trong

số

này

chưa

qua

đ

ào

tạo

chuyên

môn.

Đặc

điểm

này

trở

ngại

lớn

cho

lao

động

nông

thôn

trong

tìm

kiếm

việc

làm,

chưa

đáp

ứng

được

yêu

cầu

phát

triển:

Nguồn

c

ung

lao

động

V

iệt

Nam

hiện

nay

luôn

xảy

ra

tình

trạng

thiếu

nghiêm

trọng

lao

động

kỹ

thuật

trình

độ

cao,

lao

động

một

số

ngành

dịch

vụ

(ngân

hàng,

tài

chính,

thông tin

viễn thông,

du lịch…)

và công nghiệp

mới. Tỷ lệ

lao động

được đào

tạo nghề còn

thấp, kỹ