Vai trò quản lý phát triển xã hội của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở Việt Nam
Vị trí, vai trò quan trọng của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam được quy định ở chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức. Bài viết phân tích vai trò quản lý phát triển xã hội của hệ thống chính trị cơ sở và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy vai trò quản lý phát triển xã hội của hệ thống chính trị cơ sở ở Việt Nam hiện nay.
1. Quan niệm về quản lý phát triển xã hội
Quản lý xã hội là sự tác động đến xã hội nhằm mục đích điều chỉnh, hoàn thiện và phát triển xã hội “Quản lý xã hội là sự tác động liên tục, có tổ chức của chủ thể quản lý xã hội và các khách thể có liên quan, nhằm duy trì và phát triển xã hội theo các đặc trưng và các mục tiêu mang tính xu thế phát triển khách quan của xã hội”(1). Quản lý phát triển xã hội là quá trình tác động của các chủ thể: đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức xã hội, người dân và cộng đồng đến các hoạt động phát triển xã hội bằng các công cụ luật pháp, chính sách, hành chính, kinh tế, chính trị, tư tưởng… nhằm đạt được các mục tiêu phát triển xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Từ cách cách tiếp cận phát triển xã hội theo nghĩa hẹp, nhiều ý kiến cho rằng: “Quản lý phát triển xã hội là hoạt động quản lý của nhà nước với sự phối hợp của các tổ chức ngoài nhà nước trong việc tổ chức xây dựng và thực hiện các chính sách, pháp luật, các công cụ quản lý, huy động tối đa các nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội, hướng vào việc phát triển cá nhân và cộng đồng, phát triển xã hội bền vững”(2). Hơn nữa, “quản lý phát triển xã hội là hoạt động có ý thức và có cơ sở khoa học của chủ thể quản lý tác động vào chiều cạnh xã hội của sự phát triển nhằm tạo lập một cơ cấu xã hội năng động, thống nhất trong đa dạng, phát huy những nhân tố tích cực, kịp thời khắc phục các mâu thuẫn nảy sinh, đạt tới sự đồng thuận xã hội, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân và cả cộng đồng phát huy hết tiềm năng lao động, sáng tạo trong một xã hội phát triển theo hướng nhân văn, vì mục tiêu cao nhất là hạnh phúc con người”(3).
2. Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở
Hệ thống chính trị cấp cơ sở là chỉnh thể các thiết chế và cơ chế thực thi quyền lực chính trị tại xã, phường, thị trấn (còn được gọi là cấp xã). Xét từ góc độ cấu trúc tổ chức, hệ thống chính trị cấp cơ sở bao gồm đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội cấp xã dưới sự lãnh đạo của đảng bộ nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Hệ thống chính trị cấp cơ sở là cấp gần dân nhất trong hệ thống hành chính nhà nước bốn cấp ở nước ta; là cấp chủ yếu có nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật trên địa bàn cơ sở nên tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức, phương thức hoạt động cũng như việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức hợp thành hệ thống chính trị cấp cơ sở có sự thống nhất và gắn kết chặt chẽ so với hệ thống chính trị cấp trên.
Vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội thể hiện cụ thể trên các mặt sau:
Thứ nhất, về tổng thể, vai trò quản lý phát triển xã hội của hệ thống chính trị cơ sở thể hiện trên các mặt: đại diện cho các tầng lớp nhân dân và tổ chức thực hiện quyền lực chính trị của Nhân dân ở cơ sở để quản lý phát triển xã hội; phát huy dân chủ cơ sở, đoàn kết, tập hợp quần chúng và huy động sức mạnh tổng hợp từ cơ sở để thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý phát triển xã hội; thực hiện lãnh đạo, quản lý phát triển xã hội, giữ vững kỷ luật, trật tự kỷ cương xã hội trên địa bàn cơ sở; trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách, biện pháp quản lý phát triển xã hội; tổ chức cung ứng các dịch vụ công phục vụ nhu cầu của người dân ở cơ sở; tôn trọng và bảo đảm, bảo vệ các quyền cơ bản của con người, quyền công dân tại cộng đồng cơ sở; tạo điều kiện và phối hợp với các thiết chế tự quản, các hội nghề nghiệp, văn hóa, hữu nghị, từ thiện, nhân đạo… để vận động và hướng dẫn các tổ chức đó tham gia quản lý phát triển xã hội theo quy định của pháp luật; phát hiện nhu cầu, tích hợp các sáng kiến tại cơ sở, chuyển tải các nguyện vọng của nhân dân địa phương phục vụ quá trình xây dựng chủ trương, chính sách, biện pháp phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp với đặc điểm của vùng, khu vực.
Thứ hai, hệ thống chính trị cấp cơ sở có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội cấp trên thông qua vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở để phát huy vai trò lãnh đạo, quản lý phát triển xã hội, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cấp xã là cấp gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”(4).
Vị trí, vai trò quan trọng của hệ thống chính trị cấp cơ sở được quy định trước hết và tập trung ở chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức cấu thành và tính chất rộng khắp, xét cả về không gian địa lý, quy mô dân số, cũng như môi trường hoạt động kinh tế, xã hội của dân cư.
Tính đến tháng 6/2020, cả nước có 10.616 xã, phường, thị trấn(5). Nhân dân quan hệ, tiếp xúc với các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trước hết và trực tiếp là với các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở, do đó, bản chất ưu việt, hình ảnh về một hệ thống chính trị của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; sự vi phạm, những mâu thuẫn phát sinh trong quan hệ giữa tổ chức đảng, chính quyền với Nhân dân, đều bộc lộ trực tiếp ở các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở. Với tính chất là “nền tảng của hành chính”, các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp cơ sở có vững mạnh thì hệ thống chính trị của đất nước mới thực sự vững mạnh và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả.
Trên thực tế, cấp cơ sở là nơi tập trung giải quyết các công việc của công dân, trung bình một hộ gia đình có 1,9 lần/năm (đối với khu vực nông thôn), hay 2,6 lần/năm (đối với khu vực thành thị), trong khi đó một hộ gia đình trung bình chỉ liên hệ với cấp huyện 0,1 lần/năm. Có 90% số lần giải quyết các vụ việc của người dân là do chính quyền cấp cơ sở thực hiện, trong đó 80% ở khu vực nông thôn và 90% ở khu vực đô thị. Cấp huyện thực hiện khoảng 10% số lần (11% ở nông thôn và 7% ở đô thị), cấp tỉnh, thành phố giải quyết 1% số lần ở nông thôn và 3% số lần ở đô thị(6). Như vậy, cấp cơ sở đóng vai trò chủ chốt trong việc đáp ứng các nhu cầu giải quyết công việc cho người dân. Việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở và nâng cao chất lượng phục vụ, quản lý của chính quyền cơ sở là tiền đề cho sự ổn định và phát triển xã hội.
Thứ ba, hệ thống chính trị cấp cơ sở vừa là cấp trực tiếp thực hiện quyền lực chính trị ở cơ sở, vừa là cấp trực tiếp đại diện cho ý chí, quyền lợi, nguyện vọng của người dân. Do vậy, hệ thống chính trị cấp cơ sở trở thành “cầu nối” trực tiếp giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Người dân gắn với Đảng và Nhà nước trước hết và trực tiếp thông qua hệ thống chính trị cấp cơ sở. Hệ thống chính trị cấp cơ sở có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước để người dân hiểu và thực hiện; qua đó trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân, đồng thời kiểm nghiệm sự đúng đắn, chính xác hay không trong đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Thực tế ở nước ta cho thấy việc xa dân, không hiểu được tâm tư, nguyện vọng của người dân của các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên sẽ dẫn đến tình trạng quan liêu, tham nhũng và mất lòng tin của Nhân dân. Hầu hết các vụ việc khiếu kiện, mất ổn định đều có nguyên nhân là do hệ thống chính trị cấp cơ sở quan liêu, xa dân và hoạt động chưa hiệu quả hoặc chưa đúng các nguyên tắc.
Thứ tư, vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở trong quản lý phát triển xã hội được thể hiện bởi vai trò của các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị ở cơ sở. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, được Đại hội ĐBTQ lần thứ XI của Đảng thông qua, hệ thống tổ chức của Đảng được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. Trong đó, “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Tổ chức cơ sở đảng lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được cụ thể hóa và được thực hiện thắng lợi.
Tổ chức cơ sở đảng có các nhiệm vụ chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả; xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên; lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị – xã hội trong sạch, vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; kiểm tra, giám sát việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Tổ chức đảng ở cơ sở thực hiện tốt sự lãnh đạo trên cả ba phương diện chủ yếu:
Một là, lãnh đạo hoạt động xây dựng Đảng làm cho tổ chức đảng ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng; lãnh đạo các tổ chức đảng trực thuộc, đội ngũ cán bộ, đảng viên thực hiện các nhiệm vụ xây dựng Đảng.
Hai là, lãnh đạo chính quyền cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm vụ phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của mỗi cơ quan; thể chế đầy đủ, chính xác đường lối, chủ trương phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội của Đảng; thực hiện nghiêm Hiến pháp và pháp luật.
Ba là, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trên địa bàn thực hiện chức năng, nhiệm vụ và điều lệ của mỗi đoàn thể; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
Chính quyền cơ sở được tổ chức và hoạt động theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, có các nhiệm vụ, quyền hạn: 1) Tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trên địa bàn cơ sở; 2) Quyết định những vấn đề của cơ sở trong phạm vi được phân quyền, phân cấp; 3) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do cơ quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền; 4) Chịu trách nhiệm trước chính quyền địa phương cấp huyện về kết quả thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở cấp cơ sở; 5) Quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động các nguồn lực xã hội để xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn.
Chính quyền cấp cơ sở trực tiếp tổ chức thực hiện quy định của Hiến pháp và pháp luật về công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân không chỉ thông qua chức năng quản lý nhà nước theo luật định, mà còn tổ chức phát triển kinh tế – xã hội, cung ứng các dịch vụ công cơ bản và thiết yếu, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân trên địa bàn. Do vậy, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp cơ sở là nền tảng quan trọng để tạo lập hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý phát triển xã hội của cả bộ máy nhà nước(7).
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội ở cơ sở đại diện lợi ích của quần chúng nhân dân, của giai cấp, tầng lớp, giới; phản ánh trung thực tâm tư, nguyện vọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; tập hợp lực lượng các giai cấp, các tầng lớp, các giới, vận động thành các phong trào cách mạng thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chấp hành pháp luật của Nhà nước, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân ở cơ sở.
Đồng thời, với vị thế là người đại diện quyền và lợi ích hợp pháp của quần chúng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội giám sát hoạt động của chính quyền cấp cơ sở, giám sát hành vi của đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên ở cơ sở; tham gia quản lý nhà nước với tư cách là người giám sát, phản biện xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật, kế hoạch, biện pháp điều hành các hoạt động của chính quyền về quản lý phát triển xã hội.
Thứ năm, hệ thống chính trị cấp cơ sở gắn bó chặt chẽ, hướng dẫn, tạo điều kiện cho các tổ chức tự quản, cộng đồng dân cư tham gia quản lý phát triển xã hội ở cơ sở.
Một hệ thống chính trị cấp cơ sở có chất lượng, hoạt động hiệu quả cần có sự liên hệ, gắn bó chặt chẽ với các thiết chế truyền thống khác đang tồn tại ở địa phương và có sự hỗ trợ, tạo điều kiện để các thiết chế đó phát huy được vai trò tích cực, giảm bớt những tác động tiêu cực đến đời sống của đồng bào, cư dân ở địa phương. Cùng với sự phát triển và biến đổi, cấu trúc tự quản của cộng đồng ở cơ sở hiện nay bao gồm nhiều thiết chế: bí thư chi bộ; trưởng, phó thôn (bản, tổ dân phố); trưởng ban công tác mặt trận, già làng; công an viên; thôn đội, dân quân, chi hội phụ nữ, hội nông dân, đoàn thanh niên, y tế, cộng tác viên dân số…
Cấp cơ sở, nhất là ở nông thôn là nơi lưu giữ các giá trị văn hóa truyền thống, phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư. Hệ thống chính trị cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc gắn kết giữa các thành viên trong gia đình, cộng đồng dân cư, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phát triển các giá trị con người – giá trị văn hóa – giá trị xã hội, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn. Điều đó đòi hỏi hệ thống chính trị cấp cơ sở phải khơi dậy và phát huy được tính cộng đồng (như huy động đóng góp xây dựng đường sá, trường học, đảm bảo an ninh – trật tự xã hội, xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo, đấu tranh chống tiêu cực…). Do vậy, tính cộng đồng nếu không được phát huy đúng, hoặc bị lợi dụng cho các mục đích sai lệch sẽ dẫn đến sự trì trệ, mất đoàn kết, nảy sinh các vấn đề tiêu cực xã hội trong nông thôn.
3. Một số giải pháp phát huy vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở
Để phát huy vai trò quản lý phát triển xã hội của hệ thống chính trị cấp cơ sở, cần nhận thức đúng về tầm quan trọng của phát triển xã hội và vai trò của hệ thống chính trị cấp cơ sở đối với quản lý phát triển xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Trên cơ sở đó, xác định rõ, cụ thể chức năng, nhiệm vụ quản lý phát triển xã hội của các tổ chức hợp thành hệ thống chính trị cấp cơ sở.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ đối với chính quyền xã nhằm làm cho chính quyền cơ sở mạnh lên, phát huy tính chủ động, sáng tạo và hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp cơ sở đối với quản lý phát triển xã hội trên địa bàn. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã để bảo đảm thực sự đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, có thực quyền quyết định các vấn đề liên quan đến lợi ích của cộng đồng dân cư tại địa bàn; xây dựng và hoàn thiện quy chế làm việc của Ủy ban nhân dân cấp xã, trong đó, xác định rõ trách nhiệm của từng cán bộ, công chức cấp xã, nhất là của cá nhân người đứng đầu.
Nâng cao khả năng tập hợp, động viên hội viên, đoàn viên của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế – xã hội; nâng cao khả năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Hoàn thiện cơ chế, chính sách bầu cử, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật, chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Điều chỉnh những bất hợp lý trong quy định về số lượng và vị trí, chức danh cán bộ, công chức cơ sở theo hướng nới rộng khung giới hạn tối thiểu và tối đa số lượng cán bộ, công chức cơ sở căn cứ vào phân loại xã và đặc điểm riêng biệt của từng xã, phường, thị trấn trong mỗi giai đoạn phát triển. Bảo đảm điều kiện kinh phí hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở theo hướng phân cấp tối đa nguồn thu tại chỗ, đảm bảo có nguồn thu cân đối được các nhiệm vụ thường xuyên./.
————————————–
Ghi chú:
(1) Đỗ Hoàng Toàn, Quản lý xã hội, Nxb Khoa học, kỹ thuật, H.2000, tr. 6.
(2) Hoàng Chí Bảo (Chủ biên), Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nxb CTQG, H.2010, tr.36.
(3) Phạm Xuân Nam, Xã hội, phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội, Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2008.
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H.2000, tr.371-372.
(5) Sau khi đã giảm được 546 đơn vị hành chính cấp xã theo Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 ngày 12/3/2019 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019-2021.
(6) Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Xuân Mai, Những biến đổi kinh tế – xã hội của hộ gia đình, Nxb KHXH, H.2007, tr.395-400.
(7) Nguyễn Minh Phương, Vai trò của chính quyền xã đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb CTQG-ST, H.2017, tr.76.
PGS.TS Nguyễn Minh Phương – Nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
tcnn.vn