Vai trò của phúc lợi xã hội trong việc đảm bảo tính bền vững của chính sách xã hội

Có thể xem xét phúc lợi xã hội trên 3 khía cạnh: (1) Phúc lợi xã hội là một bộ phận thu nhập quốc dân được sử dụng để góp phần thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong xã hội; (2) Thực hiện phúc lợi xã hội là thực hiện phân phối lại ngoài phân phối theo lao động; (3) Phúc lợi xã hội là biện pháp nhằm giảm bớt sự không công bằng xã hội (dưới nhiều góc độ khác nhau).

leftcenterrightdel

Các đồng chí chủ trì tại Hội thảo

Chính sách xã hội là chính sách của Nhà nước giải quyết các vấn đề phát sinh từ các quan hệ xã hội, liên quan đến lợi ích và sự phát triển con người, cộng đồng dân cư, đó là những vấn đề có ý nghĩa chính trị cốt lõi của mỗi quốc gia, dân tộc. Tiến bộ xã hội là con đường tiến lên của xã hội, là quá trình phát triển của xã hội loài người từ thấp lên cao, từ một hình thái kinh tế – xã hội này đến một hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn, đem lại những giá trị vật chất và tinh thần tốt đẹp hơn cho sự hoàn thiện bản chất con người. Công bằng xã hội là bảo đảm sự “ngang nhau” giữa người với người trong mối quan hệ giữa cống hiến với hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ, vinh dự với trách nhiệm.

1. Nhận thức về vai trò của phúc lợi xã hội trong việc bảo đảm tính bền vững của chính sách xã hội, sự tiến bộ và công bằng xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

Cả phúc lợi xã hội và chính sách xã hội đều là những chương trình phân phối lại thu nhập. Cả hai đều hướng đến sự phát triển xã hội, đặc biệt là hỗ trợ các nhóm yếu thế. Tuy nhiên, trong khi phúc lợi xã hội là hướng tới công bằng xã hội, cải thiện công bằng xã hội, nâng cao hạnh phúc của người dân, phúc lợi xã hội bao trùm mọi đối tượng như là một quyền thiết yếu; thì chính sách xã hội là một trong các công cụ, biện pháp để Nhà nước tiến hành phát triển toàn diện con người, trong đó có yếu tố công bằng giữa các giai tầng trong xã hội. Chính sách xã hội là chính sách đối với con người, nó phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực con người trong việc ổn định và phát triển xã hội, nó ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của xã hội. Nhiệm vụ của chính sách xã hội là căn cứ trên các yếu tố kinh tế xã hội để đề ra và thực thi biện pháp, các giải pháp làm cho con người, cho nhân dân lao động có điều kiện sống ngày càng tốt hơn về cả vật chất lẫn tinh thần. Các chính sách xã hội được xây dựng dựa trên nhu cầu hợp lý và lành mạnh của con người cả về vật chất lẫn tinh thần, dựa trên những dự báo khuynh hướng phát triển của con người, của nền kinh tế xã hội để khơi dậy tính tích cực, kích thích kinh tế xã hội phát triển. Nó góp phần điều tiết quan hệ xã hội nhằm bảo đảm và thiết lập xã hội công bằng, văn minh, để con người chăm lo làm việc tốt cho mình và cho xã hội. Chính sách xã hội như một công cụ để khắc phục những phân hóa, mâu thuẫn và khác biệt xã hội, để điều tiết các quan hệ xã hội nhằm phát huy khả năng của toàn xã hội vào những mục tiêu chung. Chính sách xã hội còn có vai trò quan trọng để hướng tới sự công bằng xã hội, tạo tính tích cực, năng động xã hội, làm cho xã hội phát triển bền vững. Với ý nghĩa đó, chính sách xã hội thật sự là một nhân tố ảnh hưởng thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Vì vậy, trong xây dựng và thực thi chính sách cần thiết có sự lồng ghép, kết hợp hai vấn đề này cho hiệu quả. Sẽ là khiếm khuyết nếu chỉ nói đến chính sách xã hội mà bỏ qua nội dung phúc lợi xã hội. Nhìn một cách chung nhất, phúc lợi xã hội là mục tiêu cao nhất mà chính sách xã hội hướng tới, là nội dung bảo đảm tính bền vững của chính sách xã hội, là biểu hiện cụ thể bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, tác động trực tiếp đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ. Thực tế cách mạng Việt Nam đã chứng minh vai trò của phúc lợi xã hội trong việc bảo đảm tính bền vững của các chính sách xã hội góp phần thành công vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta.

Phúc lợi xã hội có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tiến bộ và công bằng xã hội. Trong đó giúp cho quá trình phân phối lợi ích – thước đo của sự bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, được thực hiện một cách triệt để nhất… Do vậy, nó vừa tạo nên trạng thái ổn định của xã hội, vừa tạo nên những điều kiện cần thiết thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng tiến bộ, đem lại những giá trị vật chất và tinh thần tốt đẹp hơn cho sự hoàn thiện bản chất con người; bảo đảm sự “ngang nhau” giữa người với người trong mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ, vinh dự và trách nhiệm.

Hiện nay, trên thế giới, vấn đề chia rẽ sắc tộc, suy thoái, bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội… thường có nguyên nhân từ sự bất bình đẳng, nghèo đói, không bảo đảm về quyền con người, các vấn đề về lao động, việc làm, thu nhập…, suy cho cùng là do sự bất cập trong thực hiện phúc lợi xã hội. Vì vậy, mỗi bước đạt được của tiến bộ và công bằng xã hội có một phần không nhỏ là do thực hiện tốt phúc lợi xã hội.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, một trong những giải pháp để bảo đảm cho tiến bộ và công bằng xã hội trở thành hiện thực trên đất nước ta là thực hiện tốt phúc lợi xã hội, là việc xóa đói giảm nghèo, thu hẹp sự chênh lệch giàu – nghèo, đặc biệt là các nhóm yếu thế. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng cho thấy sự không ngừng chăm lo cho phúc lợi xã hội – một trong hai trụ cột bảo đảm cho tiến bộ và công bằng xã hội. Đây cũng chính là điều kiện tiên quyết bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.

2. Chủ trương của Đảng và thực tiễn phát huy vai trò phúc lợi xã hội trong việc bảo đảm tính bền vững của chính sách xã hội, sự tiến bộ và công bằng xã hội:

2.1. Chủ trương của Đảng và thực tiễn phát huy vai trò phúc lợi xã hội trong việc bảo đảm tính bền vững của chính sách xã hội:

Sau thành công của Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến bảo đảm phúc lợi xã hội, trong quá trình xây dựng chính sách xã hội, phải thực hiện ngay: 1) Làm cho dân có ăn; 2) Làm cho dân có mặc; 3) Làm cho dân có chỗ ở; 4) Làm cho dân được học hành.[1]

Với tinh thần đó, nội dung phúc lợi xã hội luôn được thể hiện rõ nét trong đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Bước vào công cuộc đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng định: “Tạo cơ sở phát triển sức sản xuất, tăng thêm thu nhập quốc dân, từng bước mở rộng quĩ tiêu dùng xã hội, làm cho nó giữ vị trí ngày càng lớn trong việc phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa và các sự nghiệp phúc lợi khác”[2]. Và từ Đại hội IX đến Đại hội XI, với chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa trong thực hiện các chính sách xã hội, vấn đề phúc lợi không được đề cập trong các văn kiện của Đảng, thay vào đó vấn đề an sinh xã hội được đề cao, nhiều nội dung của phúc lợi xã hội được lồng ghép vào an sinh xã hội. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 định hướng: “Không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất”[3]. Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh, gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới. Đại hội đã chỉ rõ phải bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội[4].

Đến Đại hội XIII của Đảng, vấn đề phúc lợi xã hội được nhấn mạnh, đề cao cùng với an sinh xã hội. Văn kiện Đại hội XIII đã có 09 lần nhắc đến vấn đề phúc lợi xã hội, đặt phúc lợi xã hội trên an sinh xã hội với những định hướng rõ ràng: “Quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội”; “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người”; “Chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, cố gắng bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm”; “Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân” [5]

Trên cơ sở các nghị quyết của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật về phúc lợi xã hội của nước ta về cơ bản đã khá toàn diện, chủ yếu được triển khai thực hiện dựa trên 3 nguồn tài chính: (1) Đóng góp của các chủ thể tham gia thị trường; (2) ngân sách nhà nước đảm bảo; (3) huy động từ cộng đồng.

(1) Thực hiện phúc lợi xã hội bằng nguồn tài chính dựa trên đóng góp: Nhà nước xây dựng các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Các quỹ này thực hiện theo nguyên tắc đóng – hưởng nhưng hoạt động theo cơ chế chia sẻ rủi ro, phân phối lại không hoàn toàn dựa trên đóng góp. Người đóng góp nếu không bị rủi ro, không được hưởng; người bị rủi ro nhiều được hưởng nhiều hơn; người sống thọ hơn được hưởng nhiều hơn. Tính đến hết 31/12/2021, có 16,547 triệu người tham gia BHXH (tăng 358 nghìn người so với năm 2020); gần 13,4 triệu người tham gia BHTN (tăng 52,4 nghìn người 0,4% so với 2020); hơn 88,837 triệu người tham gia BHYT (tăng 794 nghìn người 0,9% so với năm 2020), đạt tỷ lệ bao phủ 91,01% dân số (hoàn thành chỉ tiêu). Hiện có hơn 3 triệu người đang hưởng các chế độ hưu trí và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng. Hàng năm, có hàng triệu lượt người hưởng trợ cấp một lần, mai táng phí, trợ cấp ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức; trên 500 nghìn người hưởng trợ cấp thất nghiệp.

(2) Thực hiện phúc lợi xã hội bằng ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước thực hiện phúc lợi xã hội chủ yếu theo nguyên tắc thụ hưởng có điều kiện, tức là người dân đáp ứng những tiêu chuẩn, điều kiện nhất định thì được hưởng chế độ phúc lợi xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện bằng nguồn ngân sách nhà nước đảm bảo. Người có công với cách mạng và thân nhân tùy theo trường hợp sẽ được hưởng một hoặc một số chế độ ưu đãi xã hội (trợ cấp và phụ cấp ưu đãi hàng tháng, một lần; hỗ trợ về nhà ở; phương tiện chỉnh hình, phục hồi chức năng; điều dưỡng định kỳ; cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí; miễn học phí v.v.). Tính đến ngày 31/12/2021, số người có công đang hưởng trợ cấp hàng tháng là gần 1,2 triệu người và hơn 280.000 thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng. Mỗi năm giải quyết chế độ trợ cấp 1 lần cho 6 nghìn đến 8 nghìn trường hợp, đưa trên 580 nghìn lượt người có công đi điều dưỡng định kỳ và hỗ trợ giáo dục cho khoảng 40 nghìn lượt người. Người nghèo, hộ gia đình nghèo được nhận các chính sách hỗ trợ tín dụng ưu đãi phát triển sản xuất; miễn giảm học phí; tín dụng học sinh, sinh viên… Người từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, người nghèo trên 60 tuổi không có người có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác như người khuyết tật nặng, đặc biệt nặng, trẻ mồ côi … được nhận trợ cấp thường xuyên với mức chuẩn trợ cấp 360.000 đồng/tháng…; Chương trình dinh dưỡng quốc gia, dinh dưỡng học đường; tiêm chủng mở rộng; cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi, hỗ trợ một phần kinh phí (30%-100%) cho học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế …; Chương trình nhà ở xã hội được triển khai mạnh mẽ trong những năm gần đây để thực hiện mục tiêu mọi người dân đều có nhà ở an toàn. Chương trình Mục tiêu Quốc gia Xây dựng nông thôn mới góp phần cải thiện điều kiện vệ sinh nông thôn, nâng cao chất lượng sống cho người dân nông thôn, vùng dân tộc thiểu số…

(3) Thực hiện phúc lợi xã hội bằng nguồn tài chính huy động từ cộng đồng: Các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp và các nhà hảo tâm đã đóng góp một phần tài chính đáng kể vào thực hiện hỗ trợ người có công với cách mạng, người nghèo, người yếu thế; góp phần quan trọng trong việc tăng cường tính gắn kết xã hội, xây dựng xã hội nhân ái, hài hòa, tiến bộ. Các phong trào đền ơn đáp nghĩa với người và gia đình người có công với cách mạng đã được thực hiện sâu, rộng và hiệu quả. Ngoài ra, các mô hình chỉnh hình phục hồi chức năng cho người khuyết tật, trẻ em khuyết tật dựa vào cộng đồng; mô hình “Ngôi nhà tạm lánh” cung cấp dịch vụ tạm lánh, hỗ trợ tâm lý, bảo vệ phụ nữ và trẻ em bị bạo lực gia đình; mô hình “Ngôi nhà bình yên” bảo vệ chăm sóc cho phụ nữ và trẻ em bị mua bán trở về cũng ngày càng khẳng định vai trò trong hỗ trợ các nhóm đối tượng yếu thế, bị rủi ro.

Có thể nói rằng, sự phát triển của hệ thống phúc lợi xã hội có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm tính bền vững của chính sách xã hội, góp phần tạo nên những thành tựu lớn về chính sách xã hội, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.

3.2. Chủ trương của Đảng và thực tiễn phát huy vai trò phúc lợi xã hội trong việc bảo đảm sự tiến bộ và công bằng xã hội:

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là tư tưởng chủ đạo và chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới đất nước và phúc lợi xã hội được thực hiện để bảo đảm tư tưởng, chủ trương đó trong suốt hơn 35 năm đổi mới và đã đạt được những thành tựu quan trọng:

Một là, phúc lợi xã hội góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững; thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, hạn chế tình trạng bất bình đẳng xã hội. Bình quân hằng năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm 2%: đến năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước là 2,23%, tỷ lệ hộ cận nghèo là 3,11%[6]; chỉ số GINI năm 2020 ở mức 35,7, tương đối thấp so với một số quốc gia trong khu vực[7]. Thế giới đánh giá cao thành tựu nổi bật này của Việt Nam.

Hai là, phúc lợi xã hội thiết thực mang lại những lợi ích thiết yếu của người lao động thông qua các chương trình tạo việc làm mới; các chương trình hỗ trợ người lao động (các gói cứu trợ, giãn thuế, giãn nợ, giảm thuế…); các chương trình đào tạo nghề và hỗ trợ giáo dục, đào tạo, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống dịch bệnh, nhất là phòng chống đại dịch COVID-19 những năm 2019 – 2022; chương trình phát triển nhà ở xã hội…

Ba là, phúc lợi xã hội từng bước góp phần thực hiện công bằng trong phân phối, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, bổ sung cho những hạn chế của phân phối theo kết quả lao động và những đóng góp vào quá trình sản xuất.

Bốn là, chính sách xã hội được quan tâm, ngày càng hoàn thiện và thực hiện có kết quả, góp phần củng cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ, bảo đảm sự ổn định chính trị – xã hội để phát triển đất nước.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phúc lợi xã hội còn có những hạn chế, vướng mắc như sau:

Thứ nhất, nhận thức về phúc lợi xã hội còn có những điểm chưa đầy đủ, chưa thống nhất, nhất là vấn đề về mối quan hệ giữa phúc lợi và tăng trưởng; do vậy chưa có một chiến lược tổng thể về phúc lợi xã hội đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Trong khi đó, phúc lợi xã hội tất yếu phải dựa trên tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế tạo ra cơ sở vật chất để giải quyết các vấn đề phúc lợi, là tiền đề để tổ chức các hoạt động phúc lợi. Phúc lợi xã hội giúp cho những người đang ở trong những điều kiện bất lợi, thiệt thòi có cơ hội vươn lên và đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng thuế và chuyển nhượng giúp giảm đáng kể nghèo đói ở hầu hết các quốc gia và những nước thành công trong tăng trưởng kinh tế cũng là những nước thành công trong giảm nghèo.

Thứ hai, diện bao phủ của phúc lợi xã hội trên thực tế còn giới hạn cả về số lượng và chất lượng. Quyền tiếp cận các dịch vụ thiết yếu vẫn còn tình trạng bất bình đẳng giữa các khu vực, ngành nghề, các tầng lớp xã hội. Hiện tại, phạm vi bao phủ của phúc lợi xã hội chủ yếu hướng đến nhóm khá giả và nhóm nghèo, cận nghèo[8]. Nhóm trung lưu mới nổi dường như đang bị bỏ rơi, không tham gia bảo hiểm xã hội và cũng không thuộc diện được thụ hưởng các chế độ trợ giúp xã hội bằng nguồn ngân sách nhà nước trong khi đây là nhóm năng động nhưng dễ gặp rủi ro và dễ rơi vào cảnh nghèo đói; bất bình đẳng về thu nhập, trong tiếp cận dịch vụ y tế và giáo dục và sự thiệt thòi của một số nhóm dân cư và vùng còn dai dẳng; khu vực tư (doanh nghiệp) thực hiện phúc lợi xã hội cho người lao động, cho cộng đồng chưa trở thành một trào lưu trong xã hội, trong khi doanh nghiệp thực hiện tốt phúc lợi cho người lao động sẽ là một trong những nền tảng giúp phát huy hết thái độ, trách nhiệm, sáng kiến và sự tận tâm của người lao động trong sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

Thứ ba, hệ thống phúc lợi xã hội chưa bảo đảm tính bền vững; vẫn còn sự chồng chéo, dàn trải trong các chương trình, dự án phúc lợi xã hội làm phân tán các nguồn lực.

Thứ tư, trong thực hiện phúc lợi xã hội, cơ cấu chi trả cho giáo dục, đào tạo có mặt chưa hợp lý; tình trạng thu lệ phí có biểu hiện bị lợi dụng để vụ lợi; cơ chế tự chủ của các đơn vị dịch vụ công lập, nhất là trường học, bệnh viện chưa được xác định rõ ràng.

Thứ năm, đời sống của một bộ phận lao động, nhất là lao động khu vực phi chính thức và công nhân các khu công nghiệp còn nhiều khó khăn về nhà ở, điều kiện làm việc, nhà trẻ, dịch vụ khám chữa bệnh…

3. Một số khuyến nghị nhằm thực hiện hiệu quả vai trò của phúc lợi trong việc bảo đảm tính bền vững của chính sách xã hội, sự tiến bộ và công bằng xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng:

Trong bối cảnh thế giới có nhiều thách thức biến động bất ổn, sự tác động của đại dịch COVID-19, cạnh tranh giữa các nước lớn diễn ra gay gắt trên mọi bình diện, xu hướng phân tuyến trong quan hệ quốc tế ngày càng rõ nét; một số cuộc xung đột nóng chưa có dấu hiệu kết thúc, đã và đang tác động trực tiếp đến tình hình kinh tế, chính trị – an ninh thế giới. Cùng với đó, các thách thức an ninh phi truyền thống tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, trở thành mối lo ngại cho an ninh và phát triển của mỗi quốc gia dân tộc…

Việt Nam sau hơn 35 năm đổi mới có nhiều thuận lợi cơ bản: Thế và lực của đất nước được nâng lên, tiềm lực kinh tế, dự trữ quốc gia và sức mạnh tổng hợp của đất nước ngày càng lớn mạnh; nhận thức của doanh nghiệp và các địa phương về phúc lợi xã hội ngày một rõ nét, các nguồn thu từ doanh nghiệp và xã hội để chi cho phúc lợi xã hội ngày càng tăng; hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo điều kiện tăng cường nguồn lực, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các dịch vụ liên quan đến phúc lợi xã hội…

Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp phải không ít những khó khăn, thách thức: Kinh tế Việt Nam tuy đã phát triển, nhưng trình độ phát triển còn thấp, tiềm năng kinh tế còn giới hạn, chưa thể tập trung nhiều nguồn lực tài chính Nhà nước cho phúc lợi xã hội; thu nhập của nhân dân tuy đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn thuộc loại thu nhập trung bình thấp, chưa thật ổn định, bền vững trước những tác động từ bên ngoài, nhất là sự tác động của biến đổi khí hậu, của dịch bệnh và những hiểm họa an ninh phi truyền thống. Việt Nam đã bước vào thời kỳ dân số già và tốc độ già hóa dân số diễn ra rất nhanh. Trước tình hình đó, Đại hội XIII đã nhấn mạnh phải: “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội. Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội…”[9]. Với tinh thần đó, để phát huy hiệu quả vai trò của phúc lợi xã hội trong việc bảo đảm tính bền vững của chính sách xã hội, sự tiến bộ và công bằng xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần thực hiện tốt các nội dung sau:

Một là, đề cập phúc lợi xã hội là nội dung cốt lõi trong việc bảo đảm tính bền vững của chính sách xã hội và sự tiến bộ, công bằng xã hội, góp phần bồi dưỡng sức dân, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ chính trị nước ta. Đầu tư nâng cao phúc lợi xã hội là đầu tư cho sự phát triển bền vững.

Phúc lợi xã hội phải được thực hiện theo nguyên tắc bình đẳng, công bằng, bảo đảm để mọi người dân đều có quyền thụ hưởng thành quả của công cuộc đổi mới, phát triển đất nước tương xứng với công sức cống hiến vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, chính sách phúc lợi xã hội gắn với chính sách an sinh xã hội phải được tiến hành đồng thời với chính sách kinh tế, phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của nền kinh tế quốc dân trong từng giai đoạn, đồng thời góp phần phát triển kinh tế nhanh, bền vững.

Ba là, nâng cao phúc lợi xã hội là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, các doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt với sự tham gia tích cực của các tổ chức xã hội, cộng đồng và người dân. Phát huy mạnh mẽ các nguồn lực của Nhà nước, của xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài để chăm lo phúc lợi xã hội.

Bốn là, hoàn thiện căn cứ lý luận, thực tiễn, xây dựng chiến lược tổng thể về phúc lợi xã hội phù hợp với chế độ chính trị và điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Xem xét ban hành Nghị quyết về phúc lợi xã hội. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng, bổ sung, cụ thể  hóa, hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách phúc lợi của Nhà nước, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, tạo hành lang pháp lý đầy đủ để thực hiện có hiệu quả phúc lợi xã hội.

Năm là, đề cao trách nhiệm, cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ và đổi mới phương thức quản lý phúc lợi xã hội của Nhà nước. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc chăm lo phúc lợi xã hội, những năm tới, cần thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: (1) Kiến tạo hệ thống phúc lợi xã hội tiến bộ, chất lượng, hiệu quả, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước; (2) Đổi mới, hoàn thiện thể chế về tài chính ngân sách về bảo đảm phúc lợi xã hội; (3) Xác định cụ thể và cơ chế hóa trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong việc bảo đảm phúc lợi xã hội cho công nhân, người lao động; (4) Xây dựng, thực hiện các cơ chế phát huy vai trò các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, cộng đồng và nâng cao tính tự giác, tích cực của người dân về chăm lo phúc lợi xã hội; (5) Tập trung nguồn lực, tháo gỡ các điểm nghẽn, nút thắt, tạo đột phá mở rộng phúc lợi xã hội ở một số lĩnh vực then chốt, cấp thiết. Trong điều kiện nguồn lực tài chính có giới hạn, chưa thể cùng một lúc triển khai phúc lợi xã hội trên tất cả các lĩnh vực, cần ưu tiên nguồn lực, giải quyết những vướng mắc để nâng cao phúc lợi xã hội trên một số lĩnh vực mà nhân dân, nhất là người lao động đang gặp nhiều khó khăn, đang có nhu cầu cấp bách./.

TS. Bùi Ngọc Quý

Vụ Trưởng Vụ xã hội Ban Tuyên giáo Trung ương

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2011, t. 10, tr. 314.

[2] Như trên, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, HN, 2006, tr. 771.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính tri quốc gia, HN, 2011, tr.79.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, HN, 20166, tr.30-31.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1. tr.116, 147, 149, 166.

[6] Bộ Lao động – Thương binh và xã hội: Quyết định số 125/QĐ-LĐTBXH về Công bố kết quả rà soát hộ nghèo, cận nghèo năm 2021.

[7]  Hoàng Thị Minh Hà: Định vị Việt Nam trong lộ trình tăng trưởng toàn diện,  https://mof.gov.vn,, 12/1/2022.

[8]Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính toán và trình bày cơ cấu tầng lớp dân cư giai đoạn 2015-2035 tại Khung chính sách kinh tế Việt Nam (12/2018) cho thấy: Nhóm khá giả còn được gọi là nhóm trung lưu toàn cầu có mức tiêu dùng trên 15 USD PPP/người/ngày; nhóm nghèo, cận nghèo là nhóm dân cư có mức tiêu dùng dưới 5,5 USD PPP/ngày; nhóm trung lưu mới nổi có mức tiêu dùng 5,5-15 USD PPP/ngày (hiện chiếm gần 60% dân số).

[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr, 147 – 148