Uống nhiều nước vẫn thiếu ối

Chào bạn!

Nước ối là một yếu tố quan trọng, giúp nuôi dưỡng phôi thai trong giai đoạn đầu, tạo môi trường cho thai phát triển, bảo vệ thai tránh khỏi những va chạm, sang chấn, nhiễm trùng… Trong lúc chuyển dạ, nước ối tiếp tục bảo vệ thai nhi khỏi những sang chấn của cơn co tử cung và nhiễm khuẩn. Sau khi vỡ ối, tính nhờn của nước ối bôi trơn đường sinh dục của mẹ giúp thai nhi được sinh ra dễ hơn.

Trong thai kỳ, bác sĩ có thể đo lượng nước ối có đủ hay không thông qua siêu âm. Thai 16-41 tuần, bình thường AFI (chỉ số ối) khoảng chừng 12-16, đây là trị số trung bình.

Bình thường, lúc thai khoảng 36 tuần, thể tích nước ối khoảng 1 lít, trong vài ngày trước khi sinh, lượng nước ối sẽ giảm đi khoảng 100-200 ml. Trong một vài trường hợp, thể tích giảm nhiều so với lượng trung bình này, đôi khi chỉ còn vài 5-10ml, được gọi là vô ối. Tuy nhiên, rất ít khi một thai kỳ bình thường bị giảm ối sớm, nhưng nếu có thì đó không phải là một tin tốt cho các bà bầu, trừ trường hợp nước ối giảm trước thời điểm sinh chừng 1-2 tuần thì bớt lo ngại hơn.

Các rủi ro liên quan đến thiểu ối (nước ối ít) phụ thuộc vào tuổi thai. Thiểu ối xảy ra trong giai đoạn sớm của thai kỳ thường có tiên lượng xấu. Nếu thiểu ối trong 3 tháng giữa, thai nhi có nguy cơ dị tật thai cao. Còn nếu xảy ra trong 3 tháng cuối của thai kỳ có khả năng thai nhi sẽ bị suy dinh dưỡng, thai chết lưu. Ngoài ra, thiểu ối làm tăng nguy cơ suy thai và đẻ khó.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiểu ối như: Các bất thường nhiễm sắc thể, dị tật bẩm sinh, thai chậm phát triển, rỉ ối; các vấn đề từ bánh nhau: Nhau bong, hội chứng truyền máu song thai; hoặc trường hợp thai phụ mắc cao huyết áp, tiền sản giật, tiểu đường… Ngoài ra, cũng có những trường hợp bị thiểu ối vô căn (không rõ nguyên nhân).

Hiện chưa có một phương pháp hiệu quả nào trong điều trị thiểu ối. Thông thường, trong quá trình siêu âm, nếu phát hiện thiểu ối và thai nhi có bất thường, tùy trường hợp cụ thể, bác sĩ có thể đưa ra cách xử trí phù hợp. Với phương pháp “truyền dịch” cũng chỉ áp dụng trong lúc chuyển dạ để tránh chèn ép dây rốn. Còn lại, trong thai kỳ, việc truyền vào buồng ối sẽ dẫn đến nguy cơ nhiễm trùng, vỡ ối, sanh non nên khó áp dụng.

Nói chung, để giữ gìn thai nhi và sức khỏe của mẹ, thai phụ cần theo dõi sức khỏe thường xuyên, đặc biệt nên chú ý khám thai định kỳ.  

Thân.