Ứng dụng công nghệ số trong hành chính công nhằm nâng cao quản trị tốt ở Việt Nam
Trên cơ sở phân tích những kết quả và hạn chế trong ứng dụng công nghệ số trong quản lý hành chính nhà nước, bài viết nghiên cứu những thách thức của ứng dụng công nghệ số trong việc thúc đẩy quản trị tốt và đề xuất một số giải pháp như xây dựng chiến lược quốc gia về chuyển đổi kỹ thuật số; xây dựng chính sách, pháp luật về ứng dụng công nghệ số trong hành chính công; tăng cường các ứng dụng thúc đẩy quyền tham gia, quyền tiếp cận thông tin và phòng, chống tham nhũng; chuẩn bị các phương án ứng dụng và xử lý một số ứng dụng mới như quản lý bằng trí tuệ nhân tạo (AI).
1. Khái quát sự ứng dụng công nghệ số trong hành chính công ở Việt Nam
Từ những năm 2000, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã quan tâm, coi trọng việc phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, xác định đây là động lực góp phần đổi mới, tạo khả năng đi tắt đón đầu, chủ động thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Nghị quyết đặt mục tiêu thực hiện có hiệu quả chương trình cải cách hành chính đến năm 2020, gắn chặt với phát triển chính quyền điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ cao và trên nhiều lĩnh vực.
Năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết đầu tiên về Chính phủ điện tử nhằm thúc đẩy phát triển Chính phủ điện tử và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước. Ngày 04/5/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về tiếp cận Công nghiệp 4.0 và chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa phương “rà soát lại chiến lược, chương trình hành động, xây dựng kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm theo xu thế phát triển của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và xây dựng chiến lược chuyển đổi số, quản trị thông minh, thành phố thông minh”. Sau đó, ngày 12/7/2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg về việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước và quy định các bộ, ngành, địa phương hướng tới văn phòng không giấy tờ.
Ngày 07/03/2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 17/NQ-CP về một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển Chính phủ điện tử. Theo đó, Nghị quyết nhằm hoàn thiện các nền tảng của Chính phủ điện tử: nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước và chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp; phát triển Chính phủ điện tử dựa trên dữ liệu mở hướng tới Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; bảo đảm an toàn thông tin và an ninh mạng; nâng thứ hạng Chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc tăng từ 10 lên 15 bậc vào năm 2020, đưa Việt Nam vào nhóm 4 nước ASEAN dẫn đầu về xếp hạng Chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc đến năm 2025. Để đạt được mục tiêu chiến lược đó, Nghị quyết 17/NQ-CP đưa ra các chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể tương ứng với từng giai đoạn xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử: Sửa đổi các quy định pháp luật; xây dựng nền tảng công nghệ phù hợp với xu thế phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới; ứng dụng công nghệ thông tin gắn với cải cách hành chính; đảm bảo an toàn thông tin, đảm bảo nguồn lực trong triển khai xây dựng Chính phủ điện tử…
Trên cơ sở Nghị quyết 17/NQ-CP, Văn phòng Chính phủ và Bộ Thông tin và Truyền thông đã tập trung tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như: Nghị định số 09/2019/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 24/01/2019 về chế độ báo cáo trong cơ quan nhà nước; Quyết định số 274/QĐ-TTg ngày 12/3/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Cổng Dịch vụ công quốc gia, Đề án xây dựng Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ (eCabinet) và Đề án Hệ thống tham vấn chính sách (eConsultation) đang được thực hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị định về quản lý kết nối và chia sẻ dữ liệu số, Nghị định về mã định danh và định danh cá nhân, tổ chức điện tử, Nghị định về thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử đã được trình Chính phủ và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác đang được xây dựng bởi các bộ. Ngày 09/4/2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 47/2020/NĐ-CP về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số công cộng. Nghị định quy định về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số công cộng; sử dụng và khai thác dữ liệu số công cộng; cung cấp dữ liệu công khai cho tổ chức, cá nhân; quyền và trách nhiệm trong việc kết nối và chia sẻ dữ liệu số công cộng.
Thực hiện các chủ trương trên, các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương tích cực phát triển và ứng dụng công nghệ số trong quản lý nhà nước, góp phần thúc đẩy tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
Chính phủ đã triển khai hàng loạt các biện pháp: Ứng dụng công nghệ mới trong triển khai các hệ thống nền tảng Chính phủ điện tử; ứng dụng công nghệ thông tin gắn với cải cách hành chính phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; triển khai hệ thống thông tin phục vụ người dân, doanh nghiệp, lấy người dân lấy doanh nghiệp làm trung tâm… (1). Theo đánh giá của Chính phủ, việc thực hiện chủ trương Chính phủ điện tử tại các bộ, ngành, địa phương trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng kể. Đến tháng 6/2018, các bộ, ngành, địa phương đã cung cấp gần 50.000 dịch vụ công trực tuyến (mức độ 3 và 4). Đã có hơn 50 bộ, ngành, địa phương xây dựng và ban hành Kiến trúc Chính phủ điện tử. Việc gửi, nhận văn bản điện tử đã được liên thông giữa 28/29 bộ và 63/63 tỉnh, thành phố. 5/6 cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, đất đai, dân cư, tài chính, bảo hiểm đã được triển khai (2). Theo Báo cáo đánh giá của Liên hợp quốc về Chính phủ điện tử, năm 2016, Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (EGDI)(3) của Việt Nam xếp thứ 89 của 193 quốc gia, tăng 10 bậc và mảng dịch vụ công trực tuyến (OSI) (4) xếp thứ 74/193 quốc gia, tăng 8 bậc (so với năm 2014); năm 2018 EGDI của Việt Nam xếp thứ 88/193 quốc gia, tăng 01 bậc và chỉ số OSI xếp thứ 59/193 quốc gia, tăng 15 bậc (so với năm 2016), nhưng so với khu vực thì thứ hạng của Việt Nam vẫn còn khiêm tốn (đứng thứ 6 trong ASEAN), năm 2020, Việt Nam xếp thứ 86/192 quốc gia tăng 2 bậc nhưng có sự thay đổi lớn về các chỉ số thành phần. Cụ thể, hạ tầng viễn thông (TII) tăng mạnh (31 bậc); chỉ số thành phần nguồn nhân lực (HCI) tăng 3 bậc; nhưng chỉ số dịch vụ trực tuyến (OSI) bị giảm 22 bậc(5).
Ở địa phương, xây dựng và phát triển thành phố thông minh là một chính sách quốc gia được quy định trong Đề án phát triển bền vững thành phố thông minh Việt Nam giai đoạn 2018 – 2025 và định hướng đến năm 2030, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 950/QĐ-TTg tại ngày 01/8/2018. Theo đề án này, phát triển thành phố thông minh bền vững dựa trên các yêu cầu: Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT), công nghệ hiện đại để đồng bộ hạ tầng kỹ thuật và CNTT-TT nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chính quyền đô thị, cải thiện hiệu quả phát triển đất đai, năng lượng và tài nguyên; nâng cao chất lượng môi trường đô thị; kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội; cung cấp cho cộng đồng các tiện ích đô thị thông minh với các nền tảng cần thiết là hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị và hệ thống hạ tầng CNTT-TT. Trên cơ sở đó, nhiều địa phương đã đề xuất và triển khai các đề án xây dựng thành phố thông minh. Chẳng hạn, từ năm 2012, thành phố Đà Nẵng đã phê duyệt đề án thành phố thông minh và triển khai trên phạm vi toàn Thành phố. Tỉnh Bình Dương đã tích cực hợp tác với các đối tác Hà Lan để xây dựng thành phố thông minh theo “mô hình 3 bên – Triple Helix” (6). Trên cả nước, gần 30 địa phương đã ký kết các bản ghi nhớ hợp tác với các đối tác là các tập đoàn công nghệ viễn thông lớn như VNPT, Viettel để xây dựng đề án thành phố thông minh. Nhiều địa phương như Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, TP Cần Thơ, huyện đảo Phú Quốc đã phê duyệt và tổ chức thực hiện (7)…
Ứng dụng công nghệ trong quản lý nhà nước để quản trị tốt đang có triển vọng tích cực ở Việt Nam
2. Một số kết quả ban đầu của việc ứng dụng công nghệ số trong thúc đẩy quản trị tốt
Chính sách và việc ứng dụng công nghệ số có tác động tích cực đến việc thúc đẩy quản trị tốt trong quản lý thông qua các khía cạnh sau:
Việc xây dựng và triển khai Chính phủ điện tử đã cho thấy hiệu quả tích cực trong việc thúc đẩy tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cán bộ, cơ quan hành chính nhà nước. Việc cung cấp các dịch vụ công trực tuyến, xử lý hồ sơ công việc trong môi trường mạng và hệ thống thông tin một cửa góp phần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của công chức. Việc xây dựng và hoàn thiện các dịch vụ công trực tuyến giữa Chính phủ và doanh nghiệp góp phần làm cho môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trở nên minh bạch và thuận lợi hơn, cải thiện sâu sắc việc cung cấp dịch vụ công trong ngành thuế và bảo hiểm, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư.
– Thúc đẩy sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước
Theo Hiến pháp, công dân có quyền “tham gia quản lý nhà nước và xã hội, thảo luận, kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và quốc gia”, Nhà nước có trách nhiệm “tạo điều kiện cho công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, trả lời ý kiến, kiến nghị của công dân ”(Điều 28). Tuy nhiên, trên thực tế, sự tham gia của công dân vào quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế do tính chặt chẽ trong hoạch định và thực thi chính sách; luật pháp chưa cung cấp đủ điều kiện để công chúng tham gia; trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước chưa được đề cao; công chúng khó tiếp cận thông tin; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên phát huy vai trò phản biện xã hội còn hạn chế, sự tham gia của các tổ chức xã hội chưa được khuyến khích và tạo điều kiện(8).
Tuy nhiên, công nghệ số có những tác động rất tích cực đến việc thúc đẩy mọi người tham gia trực tuyến. Trong khi hình thức tham gia (trực tiếp) truyền thống còn nhiều hạn chế, thì hình thức tham gia trực tuyến của cộng đồng đang được sử dụng ngày càng tích cực hơn. Theo Thống kê Chính phủ Điện tử của Liên hợp quốc, Chỉ số tham gia điện tử (EPART)(9) của Việt Nam đang có xu hướng ngày càng cao trong những năm gần đây, thể hiện qua bảng thống kê giữa Việt Nam với 193 quốc gia trên thế giới:
Xếp
hạng
2020
2018
2016
2014
2012
2010
Việt Nam
70
72
43
65
101
110
– Tăng cường tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan, công chức hành chính nhà nước.Việc xây dựng và triển khai Chính phủ điện tử đã cho thấy hiệu quả tích cực trong việc thúc đẩy tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của cán bộ, cơ quan hành chính nhà nước. Việc cung cấp các dịch vụ công trực tuyến, xử lý hồ sơ công việc trong môi trường mạng và hệ thống thông tin một cửa góp phần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của công chức. Việc xây dựng và hoàn thiện các dịch vụ công trực tuyến giữa Chính phủ và doanh nghiệp góp phần làm cho môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trở nên minh bạch và thuận lợi hơn, cải thiện sâu sắc việc cung cấp dịch vụ công trong ngành thuế và bảo hiểm, nâng cao chất lượng môi trường đầu tư.- Thúc đẩy sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nướcTheo Hiến pháp, công dân có quyền “tham gia quản lý nhà nước và xã hội, thảo luận, kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và quốc gia”, Nhà nước có trách nhiệm “tạo điều kiện cho công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, trả lời ý kiến, kiến nghị của công dân ”(Điều 28). Tuy nhiên, trên thực tế, sự tham gia của công dân vào quản lý nhà nước còn nhiều hạn chế do tính chặt chẽ trong hoạch định và thực thi chính sách; luật pháp chưa cung cấp đủ điều kiện để công chúng tham gia; trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước chưa được đề cao; công chúng khó tiếp cận thông tin; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên phát huy vai trò phản biện xã hội còn hạn chế, sự tham gia của các tổ chức xã hội chưa được khuyến khích và tạo điều kiện(8).Tuy nhiên, công nghệ số có những tác động rất tích cực đến việc thúc đẩy mọi người tham gia trực tuyến. Trong khi hình thức tham gia (trực tiếp) truyền thống còn nhiều hạn chế, thì hình thức tham gia trực tuyến của cộng đồng đang được sử dụng ngày càng tích cực hơn. Theo Thống kê Chính phủ Điện tử của Liên hợp quốc, Chỉ số tham gia điện tử (EPART)(9) của Việt Nam đang có xu hướng ngày càng cao trong những năm gần đây, thể hiện qua bảng thống kê giữa Việt Nam với 193 quốc gia trên thế giới:
– Đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân
Sự tham gia của công chúng vào quản trị nhà nước được hỗ trợ và đảm bảo bằng quyền tiếp cận thông tin. Chính sách ứng dụng công nghệ số đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của công dân. Người dân tiếp cận thông tin do Nhà nước cung cấp thông qua các nền tảng trực tuyến dễ dàng, thuận tiện. Sự phát triển của Internet và mạng xã hội tạo ra môi trường lý tưởng để mọi người tham gia vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách.
– Tăng cường cung cấp dịch vụ công trực tuyến
Việc cung cấp các dịch vụ công trực tuyến đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước. Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến ngày càng được chú trọng và đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Nhiều dịch vụ công trực tuyến đã được cung cấp cho doanh nghiệp và người dân như đăng ký kinh doanh, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan, bảo hiểm, an sinh xã hội. Theo Liên hợp quốc, mặc dù chỉ số chung về Chính phủ điện tử của Việt Nam ở mức trung bình, chỉ số thành phần về cung cấp dịch vụ công trực tuyến của Việt Nam ngày càng tích cực. Cần lưu ý, tính công khai và trách nhiệm giải trình là 2 trong 5 tiêu chí (3 tiêu chí còn lại là hiệu quả, độ tin cậy, tính bao trùm) để đánh giá chỉ số dịch vụ công trực tuyến (OSI) theo tiêu chuẩn của Liên hợp quốc.
Việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý nhà nước chủ yếu có tác động tích cực đến việc thúc đẩy công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên, nó cũng có thể tạo ra những tác động tiêu cực khác như nguy cơ xâm hại đến an ninh trật tự, lợi ích công cộng, xã hội, quyền con người trên môi trường mạng. Một trong những thách thức lớn nhất đối với tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong việc sử dụng công nghệ số liên quan đến việc ứng dụng AI trong quản lý nhà nước và xã hội. AI mang lại những giá trị tuyệt vời cho con người và cộng đồng. Nó cũng đặt ra những thách thức to lớn về tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình như thiếu minh bạch của hệ thống AI, thiếu trách nhiệm giải trình của các chủ thể phát triển và sử dụng AI. Những vấn đề này đã xảy ra ở tất cả các nền tảng quản trị số trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Vì vậy, quan trọng là hạn chế rủi ro và tác động xấu của công nghệ số trong quản lý nhà nước, mặt khác, cân bằng các giá trị công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và các lợi ích cá nhân và xã hội khác.
3. Thách thức trong ứng dụng công nghệ số ở Việt Nam
Còn nhiều thách thức trong việc sử dụng công nghệ số để cải thiện điều hành tốt trong quản lý nhà nước ở Việt Nam: Xếp hạng Chính phủ điện tử thấp; thiếu thông tin, dữ liệu công trực tuyến của các bộ; thiếu sự quan tâm, đầu tư phát triển ở nhiều ngành, nhiều địa phương; khả năng thích ứng với sự thay đổi của hệ thống chính quyền địa phương thấp; khó khăn trong việc tiếp cận thông tin công cộng; các chính sách và dịch vụ công không lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm; chưa có cơ chế phối hợp và trách nhiệm giải trình hiệu quả giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân; cơ quan, đội ngũ cán bộ hành chính còn quan liêu, chưa có tinh thần trách nhiệm cao trong thi hành công vụ; năng lực công nghệ của nhiều cán bộ hành chính chưa theo kịp sự phát triển; nhiều người chưa nhận thức đầy đủ về công nghệ số và các ứng dụng của nó trong quản lý nhà nước; khung chính sách, luật, thủ tục chưa đầy đủ và đồng bộ. Trong khi đa số người dân chưa tạo được thói quen thực hiện các dịch vụ công trên nền tảng số thì nhiều người vẫn có tâm lý lo lắng, thiếu tin tưởng vào giao dịch số so với các hình thức truyền thống. Bên cạnh đó, các chính sách ưu tiên đào tạo, phổ biến, cập nhật và nâng cao năng lực công nghệ cho người dân còn thiếu và việc thực thi còn yếu. Việc đảm bảo an toàn thông tin, dữ liệu của người dân, doanh nghiệp và Chính phủ là một thách thức, do đó các cơ quan chính phủ còn e ngại trong việc ứng dụng công nghệ số mà không có hành lang pháp lý và giải pháp công nghệ song song.
4. Giải pháp áp dụng công nghệ số nhằm quản trị tốt trong quản lý nhà nước ở Việt Nam
– Xây dựng chiến lược quốc gia về chuyển đổi số, hoàn thiện chính sách, pháp luật về ứng dụng công nghệ số trong quản lý nhà nước để một mặt phát huy hết giá trị công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; cân bằng các giá trị và lợi ích khác của cá nhân và xã hội, cũng như giảm thiểu rủi ro và tác động xấu của việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý nhà nước.
– Tăng cường các ứng dụng thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin, tập trung vào các nhiệm vụ: Phát triển hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu thông tin quản lý nhà nước; bảo đảm trách nhiệm chủ động công bố thông tin công khai; cung cấp thông tin cho mọi người khi có yêu cầu; xây dựng các hình thức chia sẻ và cung cấp thông tin dễ tiếp cận và sử dụng; thành lập các cơ quan chuyên trách để điều phối và cung cấp thông tin trực tuyến.
– Tăng cường quyền tham gia quản lý nhà nước trên các giao diện, ứng dụng trực tuyến. Cần thúc đẩy xây dựng và hoàn thiện Chính phủ mở, dựa trên dữ liệu để trao quyền cho người dân và rộng hơn là có điều kiện tham gia quản lý nhà nước. Internet và mạng xã hội một mặt cần củng cố một kênh quan trọng để người dân tham gia quản lý nhà nước; mặt khác, cần xây dựng và hoàn thiện phạm vi, giới hạn của quyền tự do internet để bảo đảm trật tự, an toàn, an ninh cho con người và xã hội.
– Nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hành chính có đủ năng lực kỹ thuật và thích ứng với sự thay đổi, có thái độ phục vụ, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền của doanh nghiệp trong bối cảnh công nghệ số để quản trị tốt.
– Khuyến khích và thúc đẩy sự tham gia của nhiều chủ thể vào hoạt động quản lý nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ và các tổ chức xã hội; tăng cường hợp tác quốc tế trong chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong quản trị nhà nước.
– Phát triển các ứng dụng số hóa trong phòng, chống tham nhũng theo hướng công khai, minh bạch và đảm bảo đầy đủ trách nhiệm giải trình trong hoạt động quản lý nhà nước.
– Nghiên cứu khung chính sách quốc gia về AI và quản trị AI vì một xã hội tốt để đảm bảo tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của tất cả các bên liên quan, đặc biệt là các cơ quan công quyền (10).
Nền hành chính công của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập dưới góc độ quản trị tốt, mặc dù khung pháp lý và thực tiễn đã được điều chỉnh nhiều lần trong hơn 20 năm qua. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tốc độ phát triển công nghệ ở Việt Nam rất nhanh, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra chủ trương phát triển và ứng dụng công nghệ số trong quản trị công. Bên cạnh việc xây dựng Chính phủ điện tử, công nghệ số tham gia vào hầu hết các lĩnh vực quản lý. Một trong những mục tiêu của chính sách là thúc đẩy tính minh bạch, sự tham gia của cộng đồng và trách nhiệm giải trình. Trên thực tế, công nghệ số đã góp phần từng bước nâng cao tính minh bạch, sự tham gia của cộng đồng và trách nhiệm giải trình ở Việt Nam.
Mặc dù việc ứng dụng công nghệ trong quản lý nhà nước đã tạo ra những chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức trong việc tận dụng công nghệ để thúc đẩy quản trị nhà nước tốt ở Việt Nam. Việc xây dựng Chính phủ điện tử và ứng dụng công nghệ trong quản lý nhà nước ở Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, vì vậy cần tiếp tục thúc đẩy chủ trương này. Cần có những giải pháp phù hợp để thúc đẩy kết quả và giải quyết vấn đề, vượt qua thách thức. Một trong những mối quan tâm cần được ưu tiên hiện nay là làm thế nào để ứng dụng công nghệ trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Một số kinh nghiệm quốc tế và quốc gia đang học tập và áp dụng cho Việt Nam như thúc đẩy tự do ngôn luận, thúc đẩy quyền tham gia của cộng đồng, thiết lập dân chủ số, Chính phủ điện tử, Chính phủ di động, xây dựng trung tâm dịch vụ số, trung tâm truy cập thông tin di động, xây dựng và công bố dữ liệu thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, yêu cầu chứng minh thu nhập và sử dụng tài khoản ngân hàng để thực hiện các giao dịch lớn. Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng công nghệ trong quản lý nhà nước để quản trị tốt đang có triển vọng tích cực ở Việt Nam./.
Chú thích:
(1) Ngô Hải Phan (2019), Yêu cầu và triển vọng của việc áp dụng công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong việc nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước, vận hành Chính phủ điện tử, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và các vấn đề pháp lý cho sự phát triển và cải cách hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ tư pháp, trang 211-214;
(2) Văn phòng Chính phủ (2018) Báo cáo về việc thực hiện phát triển Chính phủ điện tử Quý II, 2018;
(3) E-Government Development Index;
(4) Online Service Index;
(5) Cổng thông tin điện tử Sở nội vụ tỉnh Bắc Giang (2020), Việt Nam tăng 2 bậc về Chính phủ điện tử trong bảng xếp hạng của Liên hợp quốc, https://snv.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/aRIn3er4plGA/content/viet-nam-tang-2-bac-ve-chinh-phu-ien-tu-trong-bang-xep-hang-cua-lien-hop-quoc, truy cập ngày 17/2/2022;
(6) Mối liên kết giữa trường đại học với doanh nghiệp và Chính phủ;
(7) Bộ Xây dựng (2019), Phát triển hành phố thông minh trong bối cảnh công nghiệp lần thứ 4 – những đòi hỏi và định hướng để cải cách hệ thống pháp lý, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và các vấn đề pháp lý cho sự phát triển và cải cách hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ tư pháp, trang 218-219;
(8) Phạm Thế Lực, Đặng Minh Tuấn (2019), Sự tham gia của cộng đồng trong việc đấu tranh chống tham nhũng chính sách: Từ khía cạnh công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
(9) E-participation Index;
(10) Đặng Minh Tuấn (2019), Quyền con người và pháp luật trong thời đại trí tuệ nhân tạo, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
– Phát triển Chính phủ điện tử công bằng, dễ tiếp cận cho mọi người, chú ý đến các cá nhân và nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương. Chính phủ phải có trách nhiệm tạo điều kiện, hỗ trợ người dân, nhất là người dân vùng sâu, vùng xa, người nghèo, người già tiếp cận công nghệ số, ứng dụng số.- Tăng cường các ứng dụng thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin, tập trung vào các nhiệm vụ: Phát triển hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu thông tin quản lý nhà nước; bảo đảm trách nhiệm chủ động công bố thông tin công khai; cung cấp thông tin cho mọi người khi có yêu cầu; xây dựng các hình thức chia sẻ và cung cấp thông tin dễ tiếp cận và sử dụng; thành lập các cơ quan chuyên trách để điều phối và cung cấp thông tin trực tuyến.- Tăng cường quyền tham gia quản lý nhà nước trên các giao diện, ứng dụng trực tuyến. Cần thúc đẩy xây dựng và hoàn thiện Chính phủ mở, dựa trên dữ liệu để trao quyền cho người dân và rộng hơn là có điều kiện tham gia quản lý nhà nước. Internet và mạng xã hội một mặt cần củng cố một kênh quan trọng để người dân tham gia quản lý nhà nước; mặt khác, cần xây dựng và hoàn thiện phạm vi, giới hạn của quyền tự do internet để bảo đảm trật tự, an toàn, an ninh cho con người và xã hội.- Nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ hành chính có đủ năng lực kỹ thuật và thích ứng với sự thay đổi, có thái độ phục vụ, tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền của doanh nghiệp trong bối cảnh công nghệ số để quản trị tốt.- Khuyến khích và thúc đẩy sự tham gia của nhiều chủ thể vào hoạt động quản lý nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghệ và các tổ chức xã hội; tăng cường hợp tác quốc tế trong chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong quản trị nhà nước.- Phát triển các ứng dụng số hóa trong phòng, chống tham nhũng theo hướng công khai, minh bạch và đảm bảo đầy đủ trách nhiệm giải trình trong hoạt động quản lý nhà nước.- Nghiên cứu khung chính sách quốc gia về AI và quản trị AI vì một xã hội tốt để đảm bảo tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của tất cả các bên liên quan, đặc biệt là các cơ quan công quyền (10).Nền hành chính công của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập dưới góc độ quản trị tốt, mặc dù khung pháp lý và thực tiễn đã được điều chỉnh nhiều lần trong hơn 20 năm qua. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tốc độ phát triển công nghệ ở Việt Nam rất nhanh, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra chủ trương phát triển và ứng dụng công nghệ số trong quản trị công. Bên cạnh việc xây dựng Chính phủ điện tử, công nghệ số tham gia vào hầu hết các lĩnh vực quản lý. Một trong những mục tiêu của chính sách là thúc đẩy tính minh bạch, sự tham gia của cộng đồng và trách nhiệm giải trình. Trên thực tế, công nghệ số đã góp phần từng bước nâng cao tính minh bạch, sự tham gia của cộng đồng và trách nhiệm giải trình ở Việt Nam.Mặc dù việc ứng dụng công nghệ trong quản lý nhà nước đã tạo ra những chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức trong việc tận dụng công nghệ để thúc đẩy quản trị nhà nước tốt ở Việt Nam. Việc xây dựng Chính phủ điện tử và ứng dụng công nghệ trong quản lý nhà nước ở Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, vì vậy cần tiếp tục thúc đẩy chủ trương này. Cần có những giải pháp phù hợp để thúc đẩy kết quả và giải quyết vấn đề, vượt qua thách thức. Một trong những mối quan tâm cần được ưu tiên hiện nay là làm thế nào để ứng dụng công nghệ trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Một số kinh nghiệm quốc tế và quốc gia đang học tập và áp dụng cho Việt Nam như thúc đẩy tự do ngôn luận, thúc đẩy quyền tham gia của cộng đồng, thiết lập dân chủ số, Chính phủ điện tử, Chính phủ di động, xây dựng trung tâm dịch vụ số, trung tâm truy cập thông tin di động, xây dựng và công bố dữ liệu thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, yêu cầu chứng minh thu nhập và sử dụng tài khoản ngân hàng để thực hiện các giao dịch lớn. Trong bối cảnh đó, việc ứng dụng công nghệ trong quản lý nhà nước để quản trị tốt đang có triển vọng tích cực ở Việt Nam./.(1) Ngô Hải Phan (2019), Yêu cầu và triển vọng của việc áp dụng công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong việc nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước, vận hành Chính phủ điện tử, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và các vấn đề pháp lý cho sự phát triển và cải cách hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ tư pháp, trang 211-214;(2) Văn phòng Chính phủ (2018) Báo cáo về việc thực hiện phát triển Chính phủ điện tử Quý II, 2018;(3) E-Government Development Index;(4) Online Service Index;(5) Cổng thông tin điện tử Sở nội vụ tỉnh Bắc Giang (2020), Việt Nam tăng 2 bậc về Chính phủ điện tử trong bảng xếp hạng của Liên hợp quốc, https://snv.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/aRIn3er4plGA/content/viet-nam-tang-2-bac-ve-chinh-phu-ien-tu-trong-bang-xep-hang-cua-lien-hop-quoc, truy cập ngày 17/2/2022;(6) Mối liên kết giữa trường đại học với doanh nghiệp và Chính phủ;(7) Bộ Xây dựng (2019), Phát triển hành phố thông minh trong bối cảnh công nghiệp lần thứ 4 – những đòi hỏi và định hướng để cải cách hệ thống pháp lý, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và các vấn đề pháp lý cho sự phát triển và cải cách hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ tư pháp, trang 218-219;(8) Phạm Thế Lực, Đặng Minh Tuấn (2019), Sự tham gia của cộng đồng trong việc đấu tranh chống tham nhũng chính sách: Từ khía cạnh công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;(9) E-participation Index;(10) Đặng Minh Tuấn (2019), Quyền con người và pháp luật trong thời đại trí tuệ nhân tạo, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.