Trung tam Thong tin va Du bao Kinh te – xa hoi Quoc gia

1. Tác động tổng thể tới khu vực công nghiệp

    – Những lợi thế cạnh tranh ít ỏi có xu hướng giảm dần:

    Có thể nói, khả năng cạnh tranh tổng thể của ngành công nghiệp Việt Nam còn yếu so với các nước trong khu vực. Những yếu tố chủ yếu quyết định năng lực cạnh tranh của ngành là năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh, trình độ khoa học công nghệ, năng lực quản lý… đều còn yếu kém. Với từng mặt hàng cụ thể, Việt Nam có một số mặt hàng có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới nhưng những mặt hàng này còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Một số mặt hàng định hướng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh như may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ lại có mức bảo hộ cao ở thị trường nội địa. Một số nhóm hàng khác có khả năng cạnh tranh chủ yếu ở thị trường nội địa thì lại thường là do có lợi thế về địa lý kinh tế như các loại kết cấu thép siêu cường, siêu trọng, các loại vật liệu xây dựng cấp thấp. Lợi thế cạnh tranh của hàng công nghiệp hiện nay chủ yếu dựa trên nguồn lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên sẵn có nhưng những lợi thế này đang có xu hướng giảm nhanh.

    Do vậy, trừ một số sản phẩm có khả năng cạnh tranh tương đối tốt như hàng may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm nông, lâm, thủy hải sản nhiệt đới, dầu thô, than đá và một số loại khoáng sản thì các ngành có khả năng cạnh tranh yếu như sắt, thép, thiết bị điện – điện tử, giấy, hoá chất – phân bón, sợi – dệt và một số sản phẩm cơ khí… sẽ phải chịu sự cạnh tranh gay gắt, nhất là từ phía hàng nhập khẩu. Trong thời gian dài, lợi thế của các nhóm sản phẩm chủ yếu của Việt Nam sẽ ngày càng giảm, ngành công nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không phát triển, nâng cao được năng lực cạnh tranh.

    Để thấy rõ tác động của việc gia nhập WTO, có thể xem xét một ngành hàng cụ thể như hàng dệt may. Đây là một trong những mặt hàng chủ lực của Việt Nam, đồng thời cũng là mặt hàng mà Việt Nam sẽ có được những lợi thế so sánh do tính chất sử dụng nhiều lao động của ngành này. Khi Việt Nam đã trở thành thành viên WTO, tham gia thị trường của 148 quốc gia, nhiều người cho rằng Việt Nam sẽ có điều kiện thuận lợi để mở rộng thị trường cho ngành này. Tuy nhiên, gia nhập WTO không phải là phép tính cộng đơn giản của việc mở rộng thị phần. Tại thị trường thế giới, khi Hiệp định dệt may (ATC) kết thúc, sự cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt do các đối thủ của Việt Nam không chỉ là một số quốc gia trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Inđônêxia mà là những đại gia trong ngành may mặc thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ. Do vậy, khi Việt Nam gia nhập WTO với mức thuế bị đòi hỏi cắt giảm khá lớn thì thị phần hàng may mặc Trung Quốc tại Việt Nam sẽ có thể gia tăng đáng kể. Ngoài ra, tại cả hai khu vực hàng may mặc cao cấp và hàng may mặc bình dân, có thể thấy, hàng may mặc cao cấp với đặc trưng về chất lượng và tính thời trang đến từ EU, Mỹ, Hàn Quốc sẽ chiếm được lòng tin cũng như túi tiền của tầng lớp người giàu đang phát triển khá nhanh tại Việt Nam. Hàng bình dân sẽ chịu tác động rất lớn từ Trung Quốc. Doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam, lực lượng khá yếu so với các doanh nghiệp nhà nước, lại đang chiếm lĩnh thị trường nội địa, sẽ không thể cạnh tranh nổi với những nhà máy Trung Quốc khổng lồ với thế mạnh tự cung ứng được nguyên liệu.

    – Bảo hộ của Nhà nước bị thu hẹp:

    Với chính sách thúc đẩy tự do hoá thương mại, WTO chỉ cho phép bảo hộ sản xuất trong nước bằng thuế quan với mức thuế bình quân ngày càng giảm sau các vòng đàm phán chung về thương mại và chỉ trong những bối cảnh nhất định mới cho phép sử dụng một số biện pháp phi thuế với những điều kiện cụ thể. Từ khi WTO được thành lập năm 1995 đến tháng 01/2000, thuế suất đối với hàng hoá công nghiệp đã giảm từ mức bình quân 15,9% xuống còn 12,3% (giảm 20% trong vòng 5 năm). Kinh nghiệm của các nước mới gia nhập WTO cho thấy, họ phải cam kết mức thuế trung bình thấp đối với 100% số dòng thuế công nghiệp và không được áp dụng các biện pháp phụ thu đối với hàng nhập khẩu. Đồng thời, các nước thành viên còn tham gia Sáng kiến cắt giảm thuế quan theo ngành, Hiệp định sản phẩm công nghiệp thông tin, Hiệp định hài hòa thuế quan đối với sản phẩm hóa chất… Ngoài ra, các nước gia nhập sau thường phải cam kết thuế suất ở mức thấp hơn các nước gia nhập trước. Như vậy, khả năng Nhà nước bảo hộ cho ngành công nghiệp đủ sức đối phó hiệu quả với sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng hạn chế và bị thu hẹp. Nói cách khác, ngành công nghiệp Việt Nam sẽ buộc phải chấp nhận một cuộc chơi không cân sức và phải nỗ lực tối đa để không bị biến thành thị trường tiêu thụ hàng hoá của các quốc gia khác, mà ngược lại phải cung cấp ngày càng nhiều hàng hoá, dịch vụ của mình cho thế giới.

    Hơn thế, như các nước thành viên khác, ngoài việc cam kết giảm đáng kể các mức thuế áp dụng, Việt Nam cũng sẽ phải dỡ bỏ các hàng rào phi thuế (hạn ngạch, giấy phép, thủ tục hải quan, trợ cấp…) trong một thời hạn nhất định. Hiện nay, thuế suất nhập khẩu bình quân đơn giản của Việt Nam đối với hàng nhập khẩu khoảng 16%, trong đó hàng công nghiệp khoảng 15% và vẫn còn áp dụng phụ thu nhập khẩu đối với trên 10 nhóm sản phẩm có sức cạnh tranh thấp. Như vậy, sau khi gia nhập WTO, ngành công nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó khăn do không còn sự bảo hộ của Nhà nước như hiện nay.

    2. Tác động tới một số ngành cụ thể

    Trước hết, bàn về TRIMs, khi thực hiện các nghĩa vụ và quy định của Hiệp định TRIMs, các ngành như sản xuất, lắp ráp ôtô, xe máy; chế biến các sản phẩm sữa, đường mía, dầu thực vật và gỗ là những ngành sẽ phải chịu tác động mạnh nhất, không chỉ ở khả năng duy trì các mục tiêu phát triển của ngành mà còn ở khả năng thu hút vốn ĐTNN vào từng ngành cụ thể. Tuy nhiên, phạm vi và mức độ tác động của TRIMs đến đâu còn phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh của từng ngành cũng như việc cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam. Cụ thể là, với cùng một chủ trương, chương trình phát triển ngành nhưng Hiệp định TRIMs, cùng với những cam kết khác khi gia nhập, sẽ có những tác động khác nhau lên những ngành khác nhau. Ngoài ra, phần này cũng sẽ phân tích tác động của TRIPs cũng như của các cam kết khác lên ngành dược phẩm – ngành có những đặc điểm đặc thù liên quan đến các quy định trong TRIPs.

    Ngành công nghiệp ôtô:

    Ngành công nghiệp ôtô là một trong những ngành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Việt Nam chủ trương phát triển ngành công nghiệp ô tô theo hướng đi từ lắp ráp đơn giản đến nội địa hoá sản xuất phụ tùng. Đồng thời, để phát triển ngành công nghiệp ô tô, trong thời gian qua, Chính phủ đã sử dụng một loạt biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ ngành công nghiệp quan trọng này. Với chính sách bảo hộ phù hợp (chủ yếu bằng các biện pháp phi thuế quan) và sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể, góp phần thu hẹp dần khoảng cách giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.

    Tuy nhiên, việc thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định TRIMs cũng như các cam kết quốc tế có liên quan khác đã đặt ngành công nghiệp này trước những thách thức đáng kể. Với cam kết xóa bỏ yêu cầu nội địa hóa vào năm 2006 hoặc vào thời điểm Việt Nam gia nhập WTO (tùy thuộc thời điểm nào diễn ra trước), Việt Nam hầu như không còn cơ hội để tiếp tục triển khai chương trình nội địa hóa đối với ngành công nghiệp này. Bên cạnh đó, quy mô thị trường tiêu thụ của ngành ôtô Việt Nam còn quá nhỏ bé, chỉ khoảng 45.000 chiếc/năm, bằng 10% lượng xe tiêu thụ tại Malaixia và 5% lượng xe tiêu thụ của Thái Lan. Số lượng các nhà sản xuất phụ tùng ôtô trong nước cũng rất hạn chế và mới chỉ dừng lại ở chỗ sản xuất các phụ tùng, chi tiết đơn giản. (Đây là lý do giải thích tại sao tỷ lệ nội địa hoá thực tế tại Việt Nam thấp hơn nhiều so với mức đã cam kết trong Giấy phép đầu tư). Do vậy, khả năng thu hút vốn đầu tư mới vào những ngành này sẽ hạn chế ngay cả khi các rào cản đối với đầu tư đã được xoá bỏ theo quy định của Hiệp định TRIMS.

    Ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy:

    Ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy cũng là một trong những ngành được ưu tiên phát triển tại Việt Nam nhằm tạo động lực cho ngành cơ khí, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam; trong đó mức thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) và thực hiện chương trình nội địa hoá đạt tỷ lệ sản xuất trong nước từ 40 – 80% vào năm 2010 là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu này. Sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp xe máy trong thời gian vừa qua có sự đóng góp quan trọng của các công ty xe máy từ Nhật Bản và Đài Loan. Số lượng xe do các doanh nghiệp ĐTNN sản xuất và tiêu thụ tăng dần qua các năm, và đến năm 2002 đã chiếm 43,2% tổng số xe sản xuất, lắp ráp và tiêu thụ trong cả nước. Các doanh nghiệp ĐTNN cũng đã thực hiện tốt cam kết về tỷ lệ nội địa hoá (dao động từ trên 40% tới trên 60%). Tốc độ nội địa hoá của ngành này tại Việt Nam cũng tăng khá nhanh so với Thái Lan (10 – 15% trong vòng 2 – 3 năm so với 3%/năm trong vòng 25 – 30 năm tại Thái Lan).

    Do vậy, việc thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của Hiệp định TRIMs vào năm 2006 hoặc vào thời điểm gia nhập WTO về cơ bản không tác động đáng kể đến sự phát triển của ngành này. Việc xóa bỏ ưu đãi thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hóa đối với ngành này từ năm 2003 theo cam kết trong khuôn khổ BTA đã cho thấy, dù không được hưởng chính sách ưu đãi nói trên, các doanh nghiệp vẫn có khả năng duy trì hoạt động kinh doanh của mình và do đó, tiếp tục thực hiện chương trình nội địa hóa đã cam kết.

    Ngành công nghiệp chế biến sữa:

    Chế biến sữa là ngành sử dụng nguyên liệu thô của ngành chăn nuôi bò sữa. Quy định hiện hành của Việt Nam cũng yêu cầu việc đầu tư phải gắn với phát triển đàn bò sữa như một trong các điều kiện để cấp Giấy phép ĐTNN.

    Hiện nay, các doanh nghiệp ĐTNN chế biến sữa và các sản phẩm có liên quan chiếm khoảng 25% thị phần Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ có 4 doanh nghiệp (Công ty Thanh Sơn, Công ty sữa Sài Gòn, Công ty liên doanh Bò sữa Đồng Nai, Công ty TNHH Việt – Úc) thực hiện dự án đầu tư chế biến sữa gắn với phát triển đàn bò. Trên thực tế, các doanh nghiệp này vẫn chủ yếu sử dụng nguyên liệu sữa nhập khẩu hoặc thu mua từ các hộ gia đình và trang trại tư nhân. Trong điều kiện nguồn nguyên liệu cung cấp ở trong nước còn hạn chế (khoảng 460.000 tấn/năm, chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu sản xuất) và với tốc độ tăng trưởng chậm của đàn bò sữa (11% so với tốc độ tăng lượng sữa tiêu dùng hàng năm khoảng 20%), thì hoạt động chế biến của các doanh nghiệp ĐTNN đã làm gia tăng xu hướng nhập khẩu nguyên liệu sữa bột từ nước ngoài.

    Việc thực hiện TRIMs sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp ĐTNN chủ động quyết định nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến sữa từ các nguồn khác nhau, trong đó chủ yếu sẽ là nguồn nhập khẩu. Về mặt lý thuyết, điều này sẽ làm gia tăng nhập khẩu sữa, không tạo điều kiện để Việt Nam thúc đẩy chương trình phát triển đàn bò sữa nhằm tạo nguồn nguyên liệu trong nước. Tuy nhiên, hạn chế này không hẳn là do tác động trực tiếp của việc thực hiện Hiệp định TRIMs mà xuất phát chủ yếu từ những bất cập trong cơ chế, chính sách của Việt Nam như: (i) chưa có biện pháp và chế tài thích đáng để buộc các doanh nghiệp thực hiện đúng cam kết tại Giấy phép đầu tư về chế biến sữa gắn với đầu tư phát triển đàn bò; (ii) chưa có chính sách ưu đãi thỏa đáng nhằm khuyến khích sự hợp tác giữa nông dân và doanh nghiệp để phát triển đàn bò; (iii) chất lượng giống bò sữa thấp, không đạt tiêu chuẩn cho chế biến sữa. Sau khi bỏ yêu cầu phát triển nguồn nguyên liệu sữa trong nước đối với dự án ĐTNN theo quy định tại Hiệp định TRIMs, nếu Việt Nam có chính sách giải quyết thỏa đáng những bất cập nói trên thì ĐTNN vào ngành chăn nuôi và chế biến bò sữa tại Việt Nam sẽ có khả năng tăng mạnh.

    Ngành công nghiệp chế biến gỗ:

    Chế biến gỗ là một ngành rất hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài, thu hút rất nhiều nhà ĐTNN nhưng chủ yếu là các dự án quy mô nhỏ và vừa. Pháp luật hiện hành yêu cầu dự án ĐTNN trong lĩnh vực này phải gắn với đầu tư phát triển rừng để tạo nguồn nguyên liệu trong nước. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp ĐTNN không thể thực hiện yêu cầu nói trên do một số nguyên nhân chủ yếu sau: (i) quy mô sản xuất nhỏ, không có khả năng đầu tư vào dự án trồng rừng đòi hỏi vốn lớn; (ii) chưa có cơ chế, chính sách thích hợp về sử dụng đất đai, bảo vệ rừng và giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa các doanh nghiệp và người trồng rừng. Mặt khác, trong thời gian qua, thực hiện chủ trương đóng cửa rừng, Chính phủ đã cho phép nhập khẩu nguyên liệu gỗ phục vụ cho việc chế biến mặt hàng này. Điều đó tạo điều kiện để các doanh nghiệp nhập khẩu gỗ phục vụ cho chế biến thay vì đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu tại chỗ ở trong nước. Hiện nay, một số doanh nghiệp ĐTNN chế biến gỗ, nhất là ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai đã sử dụng chủ yếu nguồn gỗ nhập khẩu và một phần gỗ khai thác từ rừng trồng để chế biến các sản phẩm gỗ phục vụ xuất khẩu.

    Bởi vậy, khó có thể khẳng định việc thực hiện các nghĩa vụ của Hiệp định TRIMs có tác động tiêu cực đến ngành công nghiệp chế biến gỗ cũng như các mục tiêu xã hội khác. Thực tế nói trên cho thấy, yêu cầu dự án ĐTNN chế biến gỗ phải gắn với đầu tư phát triển rừng là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với mục tiêu kinh tế – xã hội của Việt Nam, song không thật sự khả thi do thiếu chính sách hợp lý và không có các điều kiện hạ tầng đảm bảo cho việc thực hiện yêu cầu này. Ngược lại, tuy không thực hiện đầy đủ yêu cầu phát triển nguồn nguyên liệu trong nước, nhưng việc các doanh nghiệp ĐTNN nhập khẩu gỗ để chế biến hàng xuất khẩu cũng tạo điều kiện để bảo vệ môi trường và góp phần tăng năng lực xuất khẩu của Việt Nam. Đó là một hướng đi đúng, cần được cân nhắc trong qúa trình hoạch định chính sách ĐTNN nói chung và chính sách phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ nói riêng trong thời gian tới.

    Ngành dược phẩm:

    Việc thực hiện hiệp định TRIPs sau khi gia nhập WTO, sẽ mang lại một số thuận lợi cho hoạt động đầu tư đồng thời cũng mang lại những sức ép cho hoạt động bảo hộ SHTT ở Việt Nam. Ngành dược phẩm cũng chịu những tác động chung đó, tuy nhiên, với những đặc điểm riêng của ngành cùng với những quy định đặc thù có liên quan đến ngành trong TRIPs mà tác động của TRIPs lên ngành này cũng có một số đặc điểm riêng.

    Phân tích một số đặc điểm của Hiệp định TRIPs liên quan tới vấn đề dược phẩm, có thể thấy, những lĩnh vực trong hiệp định này có liên quan tới việc tiếp cận dược phẩm là bằng phát minh sáng chế (patent), nhãn hiệu hàng hoá và các bí mật kinh doanh, trong đó các quy định về phát minh sáng chế có vai trò quan trọng nhất. Nguyên nhân là vì các dịch vụ y tế phụ thuộc rất lớn vào những sáng chế để tạo ra các loại thuốc và vắc-xin mới. Trong khi đó, đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển, sẽ khó đảm bảo đầy đủ nhu cầu tài chính nếu chỉ dựa vào ngân sách nhà nước mà không có đầu tư của các khu vực khác. Ngoài ra, công nghệ trong lĩnh vực này thường rất dễ bắt chước. Do vậy, việc thực hiện nghiêm túc các quy định trong hệ thống phát minh sáng chế, sẽ làm tăng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực dược phẩm, từ đó sẽ thúc đẩy sự phát triển của các quy trình sản xuất và các sản phẩm mới trong lĩnh vực này.

    Tuy nhiên, những quy định liên quan đến phát minh sáng chế sẽ làm tăng giá thuốc do những người nắm giữ phát minh sáng chế có quyền hạn chế đối với việc sản xuất, sử dụng và buôn bán các sản phẩm được bảo hộ, từ đó tác động tới khả năng tiếp cận thuốc của người dân. Đặc biệt, đối với Việt Nam, điều này sẽ làm tăng gánh nặng cho những người dân nghèo vì khả năng tiếp cận thuốc của họ vốn đã rất thấp do thu nhập thấp và ngân sách cấp cho y tế còn hạn hẹp.

    Cũng cần nói thêm rằng, ngoài những nghĩa vụ trong Hiệp định TRIPs, Việt Nam còn phải thực hiện các điều khoản [TRIPs + ] liên quan đến sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực dược phẩm khi ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Mỹ. Điều khoản [TRIPs + ] cấm bên thứ ba sử dụng các trắc nghiệm lâm sàng dược phẩm trong vòng 5 năm. Những nhà sản xuất các thế phẩm rẻ tiền (có cùng công dụng như các chính phẩm đã được cấp bằng sáng chế) sẽ phải lặp lại những thí nghiệm kéo dài và tốn kém để thu được những dữ liệu cần thiết cho việc phê chuẩn theo quy định của pháp luật, hoặc là phải đình hoãn đưa sản phẩm ra thị trường. Khi các công ty dược phẩm lớn xin được phê chuẩn cho một thứ thuốc mới, họ phải trình lên các cơ quan chức trách các dữ liệu trắc nghiệm về chất lượng, độ an toàn và hiệu quả của dược phẩm đó cũng như thông tin về cấu thành hoá chất. Ở nhiều nước phát triển, những dữ liệu đó được giữ bí mật trong một thời gian nhất định. Khi thời gian đó đã hết, các nhà sản xuất thế phẩm có thể được phê chuẩn theo luật mà không cần phải trình các dữ liệu lâm sàng mà thay bằng các dữ liệu “tương đương sinh học” chứng tỏ thuốc của họ có cùng thành tố và tính năng. Cách làm này nhanh và đỡ tốn kém hơn nhiều.

    Như vậy, hiệp định TRIPs yêu cầu các thành viên phải bảo vệ các dữ liệu đó để chống việc “sử dụng không chính đáng vào mục đích thương mại”, nhưng lại không làm rõ điều này có nghĩa gì và thời hạn kéo dài bao lâu. Tuy nhiên, thông qua Hiệp định thương mại song phương, Mỹ yêu cầu Việt Nam cấm các bên thứ ba hoặc thậm chí cả những nhà chức trách chịu trách nhiệm về quản lý sản xuất thuốc không được sử dụng các dữ liệu do công ty xuất xứ nộp trong thời kỳ năm năm trước để xin chấp thuận dược phẩm đăng ký. Những nhà sản xuất thế phẩm phải trải qua một quá trình thử nghiệm lâu dài và tốn kém để đúc kết những dữ liệu của mình và trình lên để xin phê chuẩn, hoặc đình hoãn tiếp thị sản phẩm của mình. Dù theo cách nào thì giá thuốc cũng sẽ tăng.

    Tuy nhiên, có thể coi như một giải pháp cho Chính phủ khi điều khoản này cũng có thể hạn chế hiệu năng của hệ thống cấp phép bắt buộc vì những dữ liệu thiết yếu không có sẵn để đăng ký dược phẩm. Việc cấp phép bắt buộc tạo cho Chính phủ khả năng bỏ qua việc cấp bằng sáng chế cho một thứ thuốc mới với lý do vì lợi ích công cộng và đặt làm một thế phẩm rẻ tiền hơn, và có trả những khoản tiền thưởng hợp lý cho người giữ bằng sáng chế. Nếu có được khả năng đó, các Chính phủ có thể điều đình giá thuốc với các công ty dược phẩm lớn tốt hơn.