Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên và Luận cương chính trị 1930 – VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Thứ sáu – 10/01/2020 17:03
Trải qua 90 năm hình thành và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có 11 vị Tổng Bí thư. Đồng chí Trần Phú (1904 – 1931) là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên, đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Đồng chí Trần Phú sinh ngày 01/5/1904 tại thôn An Thổ, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên; nguyên quán xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1922, sau thi đỗ đầu kỳ thi Thành Chung do Trường Quốc học Huế tổ chức, đồng chí Trần Phú được bổ nhiệm dạy học tại Trường Tiểu học Cao Xuân Dục, Thành phố Vinh. Một thời gian sau đó, đồng chí Trần Phú thôi nghề dạy học, tập trung cho hoạt động cách mạng.
Năm 1925, đồng chí tham gia sáng lập và hoạt động tích cực trong tổ chức Hội Phục Việt. Khi bị bọn mật thám phát hiện, những người lãnh đạo Hội quyết định đổi tên thành Hội Hưng Nam, sau đó lại đổi tên thành Việt Nam Cách mạng Đảng, rồi Tân Việt Cách mạng Đảng. Tháng 6/1925, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Được tin, Ban lãnh đạo Hội Hưng Nam cử đồng chí Trần Phú sang gặp các đồng chí trong tổ chức này để đề nghị hợp nhất hai tổ chức. Trong thời gian này, đồng chí được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đặt tên là Lý Quý, được huấn luyện về lý luận chính trị và kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, vào Cộng sản Đoàn và được cử về nước hoạt động.
Tháng 9/1925, đồng chí Trần Phú được Hội Phục Việt cử sang Lào để vận động cách mạng. Nhận thấy Trần Phú là một học trò có khí chất thông minh, đầy nhiệt tình cách mạng và khả năng sử dụng thông thạo tiếng Pháp hay tiếng Anh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quyết định cử đi Liên Xô học trường đại học Phương Đông để đào tạo thành cán bộ cốt cán cho cách mạng.
Đầu tháng 11/1929, sau khi tốt nghiệp Đại học Phương Đông, đồng chí nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, bí mật hành trình về nước hoạt động.
Ngày 8/02/1930, đồng chí về đến Sài Gòn. Ít ngày sau, đồng chí sang Hồng Kông (Trung Quốc) gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và được giới thiệu về tham gia hoạt động trong Ban Chấp ủy lâm thời. Tháng 4/1930, đồng chí về đến Hải Phòng.
Tháng 7/1930, đồng chí về Hà Nội được bổ sung vào Ban Chấp ủy lâm thời và được giao nhiệm vụ dự thảo Luận cương chính trị của Đảng. Để tránh sự theo dõi của mật thám và tạo yếu tố bất ngờ, Thường vụ Trung ương lâm thời đã có một quyết định táo bạo – lấy nhà của chính Thực dân Pháp làm trụ sở bí mật của Đảng. Đó là ngôi nhà ở phố Giăng Xole, nay là số nhà 90 phố thợ Nhuộm. Ngôi nhà là biệt thự của một viên chức cao cấp người Pháp – thanh tra Sở tài chính của chính quyền thực dân. Đồng chí Trần Phú ở trong một buồng nhỏ trong đó có một tấm phản để vừa làm giường ngủ, vừa làm bàn viết, chính tại nơi này, đồng chí đã bí mật viết bản dự thảo Luận cương chính trị.
Luận cương chính trị do Trần Phú dự thảo và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10/1930 thông qua, là văn kiện quan trọng của Đảng, đã vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa và những luận điểm cơ bản trình bày trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng.
Luận cương xác định tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền có tính chất thổ địa phản đế, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Xác định mâu thuẫn giai cấp diễn ra giữa một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến tư bản và đế quốc chủ nghĩa. Nhiệm vụ của cách mạng là chống phong kiến để thực hiện triệt để cách mạng ruộng đất, chống đế quốc giành độc lập cho toàn cõi Đông Dương. Luận cương nhấn mạnh hai nhiệm vụ này có mối quan hệ khăng khít với nhau vấn đề thuộc địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền.
Bản luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề mà cương lĩnh đã nêu ra: đường lối cách mạng, lực lượng cách mạng, đoàn kết quốc tế, vai trò lãnh đạo của Đảng. Luận cương của Trần Phú có những điểm sáng tạo hơn như đã đề ra phương pháp cách mạng, nguyên tắc Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bản luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú khởi thảo là một văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Đông Dương nay là Đảng Cộng sản Việt Nam, là cơ sở để Đảng ta đề ra sách lược, chiến lược của Đảng trong suốt quá trình đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng.
Luận cương chính trị năm 1930 đánh dấu những mốc son trong kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Văn kiện ấy là định hướng đúng đắn cho quá trình phát triển đường lối cách mạng Việt Nam cũng là tư tưởng cơ bản mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ra đời tại Đại hội VII của Đảng kế tục.
Trong điều kiện Đảng Cộng sản Việt Nam mới ra đời, Luận cương chính trị do Trần Phú dự thảo đã tuân thủ chặt chẽ Chỉ thị và các điều hướng dẫn của Quốc tế Cộng sản, dự thảo Luận cương chính trị đã phản ánh trung thành những quan điểm và đường lối của Đại hội VI Quốc tế Cộng sản, cả phần đúng lẫn những hạn chế của nó. Đánh giá về Luận cương chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Trong bản Cương lĩnh (tức Luận cương) cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng ta đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác, thì hoặc bị phá sản, hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta – Đảng của giai cấp công nhân, không ngừng được củng cố và tăng cường” .
Với công lao và đóng góp to lớn đó đồng chí Trần Phú đã được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10/1930 bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng.
Sáng ngày 18/4/1931, Tổng Bí thư Trần Phú đã bị mật tám Pháp bắt. Chúng đưa về giam và hỏi cung, thay nhau giở mọi thủ đoạn tra tấn tàn ác, dụ dỗ mua chuộc nhưng vẫn không khuất phục được ý chí của người cộng sản kiên trung. Đồng chí vẫn luôn nêu cao tấm gương đấu tranh cách mạng; hàng ngày, tham gia bồi dưỡng lý luận chính trị và kinh nghiệm công tác cho các đồng chí tù chính trị.
Chế độ tàn bạo của nhà tù đã làm sức khỏe của đồng chí suy kiệt, giảm sút, bệnh tật mỗi ngày nặng thêm. Đến tháng 8-1931, sức khỏe của đồng chí bị suy sụp, cai ngục đành phải đưa tới nhà thương Chợ Quán để khám bệnh. Lúc này, bệnh lao của đồng chí đã rất nguy kịch. Đồng chí trút hơi thở cuối cùng vào sáng 06/09/1931, khi mới 27 tuổi. Trước khi nhắm mắt, đồng chí Trần Phú đã nhắn nhủ các đồng chí của mình “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Câu nói nổi tiếng của Tổng Bí thư Trần Phú đã trở thành vũ khí, phương châm, lý tưởng sống, ý chí quyết tâm phấn đấu, cống hiến của các thế hệ cán bộ, đảng viên và tuổi trẻ Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Là một người rất thông minh, hăng hái và cần cù, Đồng chí Trần Phú đã làm được nhiều việc quan trọng cho Đảng”. Trong bài tưởng nhớ Đồng chí Trần Phú năm 1932 lưu trữ tại Hồ sơ Quốc tế Cộng sản đã khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng, niềm tin và phẩm chất cao đẹp của Tổng Bí thư Trần Phú trong nhà tù đế quốc sẽ mãi mãi là tấm gương bất diệt cho những người cộng sản trên toàn thế giới, đặc biệt là những người cộng sản Đông Dương”.
Ngày 12/01/1999, hài cốt của đồng chí Trần Phú được di dời về an táng tại quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh. Mộ của đồng chí được đặt trên đồi cao xã Tùng Ảnh, phía trước mộ là hàng chữ “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”.
Sau này, để tưởng nhớ công lao to lớn, tên của đồng chí Trần Phú đã được đặt cho các đường phố, trường học ở Hà Nội cũng như ở một số tỉnh thành trên khắp cả nước.
Mặc dù hy sinh khi tuổi đời còn trẻ, nhưng đồng chí đã có những đóng góp to lớn, quan trọng cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, đặc biệt là thời kỳ Đảng mới ra đời. Những phẩm chất tốt đẹp, cùng tình yêu thương đồng chí, đồng bào, chí khí kiên cường, bất khuất trước kẻ thù và lời nhắn nhủ cuối cùng của đồng chí Trần Phú: “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu” luôn sống mãi với thời gian, sống mãi trong lòng mỗi người Việt Nam, trường tồn cùng sự nghiệp cách mạng của dân tộc.