Tội gây rối trật tự nơi công cộng chịu hình phạt như thế nào?

Tội gây rối trật tự công cộng quy định tại điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 đã có thay đổi so với Bộ luật Hình sự 1999. Luật Minh Khuê cung cấp tới quý khách những điều cơ bản nhất về tội danh này theo quy định của Pháp luật hình sự hiện nay, cụ thể:

>> Luật sư tư vấn pháp luật Hình sự, gọi: 1900.6162

 

Luật sư tư vấn:

Căn cứ theo điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

Điều 318. Tội gây rối trật tự công cộng

1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách;

c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;

d) Xúi giục người khác gây rối;

đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;

e) Tái phạm nguy hiểm.

Theo trích dẫn trên, thì việc gây rối trật tự công cộng là hành vi làm náo động trật tự ở nơi công cộng hay gây ảnh hưởng xấu tới an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Tội gây rối trật tự công cộng là tội phạm đã được quy định từ rất sớm trong lịch sử của pháp luật hình sự, tuy nhiên trải qua thời gian và tình hình thực tế của xã hội thì tội danh này đã được Quốc Hội sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội của Đất nước.

 

1. Chủ thể của tội gây rối trật tự công cộng

Mặt chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần là người có hành vi vi phạm quy định về gây rối trật tự công cộng đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này. Cụ thể, theo khoản 1 điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 thì người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm, vì tội phạm này không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

 

2. Mặt khách thể của tội gây rối trật tự công cộng

Mặt khách thể của tội phạm thì tội gây rối trật tự công cộng là tội xâm phạm đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội ở nơi công cộng. Dưới góc độ thực tiễn, thì hành vi này thường là thường là khởi đầu cho những hành vi phạm tội khác kế tiếp như: Giết người, cố ý gây thương tích v.v… hoặc cũng có những hành vi phạm tội khác mà dẫn đến gây rối công cộng như tổ chức đua xe, đánh bạc, vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ v.v… Hậu quả của hành vi gây rối trật tự công cộng là thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất được xác định là nghiêm trọng cho xã hội.

 

3. Mặt khách quan của tội gây rối trật tự công cộng

Mặt khách quan của tội phạm thì người phạm tội thực hiện hành vi gây rối bằng nhiều phương thức khác nhau như: tập trung đông người ở nơi công cộng gây náo động làm mất trật tự công cộng, đuổi đánh nhau, hò hét gây náo động ở nơi công cộng; đập phá các công trình công cộng, trong quán ăn, quán giải khát có đông người.

Trên thực tế, nếu người có hành vi gây rối trật tự công cộng nhưng đã đủ yếu tố cấu thành một tội phạm khác thì người có hành vi gây rối chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng đó. Ví dụ, trước hoặc sau khi có hành vi gây rối mà có hành vi giết người, cố ý gây thương tích hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm này khi hành vi gây rối mà chưa đến mức cấu thành tội phạm cụ thể nào khác. Hành vi cấu thành tội phạm khi đã gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội phạm này mà còn vi phạm.

 

4. Mặt chủ quan của tội gây rối trật tự công cộng

Xét về mặt chủ quan của tội phạm này là người phạm tội thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng là do cố ý.

 

5. Các khung hình phạt của tội cố ý gây rối trật tự công cộng

Hình phạt được chia làm 2 khung

– Khung thứ 1: Bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Hành vi gây rối trật tự công cộng mà để hậu quả xảy ra thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là “gây hậu quả nghiêm trọng” và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 điều 318 của Bộ luật hình sự năm 2015 .

+ Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;

+ Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;

+  Thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên;

+ Chết người;

+ Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;

+ Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% trở lên;

+ Người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên;

+ Nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.

Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất như có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội…

Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra có phải là nghiêm trọng hay không.

– Khung thứ 2: Bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm nếu như thuộc một trong các trường hợp 

+ Có tổ chức;

+ Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách;

+ Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng. Gây cản trở giao thông nghiêm trọng” quy định tại điểm c khoản 2 điều 318 Bộ luật hình sự năm 2015 là gây cản trở giao thông từ 2 giờ trở lên hoặc gây cản trở giao thông ở những tuyến giao thông quan trọng, làm ách tắc giao thông trên diện rộng (không phân biệt thời gian bao lâu).

+ Xúi giục người khác gây rối;

+ Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;

+ Tái phạm nguy hiểm.

Tuy nhiên, hậu quả của việc gây rối trật tự công cộng “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” theo quy định của BLHS năm 2015 thì hiện nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn hay quy định cụ thể mặc dù BLHS năm 2015 đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Điều này đã gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội gây rối trật tự công cộng.

Vì vậy để có thể làm rõ hơn về tội cố ý gây rối trật tự công cộng trong thời gian chờ văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn nên áp dụng các trường hợp “gây hậy quả nghiêm trọng” theo hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 của Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP để xử lý đối với những hành vi gây rối trật tự công cộng bảo đảm theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội. Tuy nhiên, để bảo đảm tính nghiêm minh, thống nhất của pháp luật, đề nghị các cơ quan Trung ương có thẩm quyền sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về hành vi gây rối trật tự công cộng “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” để giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.    

 

Câu hỏi : Chào luật sư tôi muốn luật sư giải đáp cho tôi về quy định “Trước khi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận” tại điểm c khoản 2 Điều 29 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)? Cám ơn luật sư.

Trả lời:

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định, tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện. Việc người phạm tội tự khai ra hành vi phạm tội của mình là biểu hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được khoan hồng, nhưng mức độ khoan hồng mà để được xem xét miễn trách nhiệm hình sự thì phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hậu quả đã xảy ra, thái độ khai báo, sự góp phần vào việc phát hiện và điều tra tội phạm

– Người tự thú phải khai rõ sự việc tức là khai báo đầy đủ, rõ ràng tất cả hành vi phạm tội của mình, cũng như của đồng phạm (nếu có và nếu biết), không giấu diếm bất cứ tình tiết nào của vụ án, giúp Cơ quan điều tra phát hiện tội phạm. Không được coi là người phạm tội đã khai rõ sự việc nếu người này khai báo không đầy đủ, rõ ràng về hành vi phạm tội của mình, không khai báo về đồng phạm (nếu có) và hành vi phạm tội của đồng phạm mà họ biết.

– Người phạm tội phải góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện, điều tra tội phạm thông qua việc cung cấp các tài liệu, thông tin phục vụ cho việc điều tra tội phạm hoặc thực hiện các hoạt động khác, như vận động đồng phạm ra đầu thú, giúp Cơ quan điều tra tiếp cận, bắt giữ đồng phạm (nếu có)…

– Việc cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm được hiểu là người phạm tội đã cố gắng hết khả năng của mình thực hiện những công việc, nhằm hạn chế tối đa khả năng xảy ra hậu quả của hành vi phạm tội hoặc hạn chế sự phát triển của hậu quả đã xảy ra, như: Thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cho người bị hại về những hậu quả có thể tiếp tục xảy ra để có biện pháp ngăn chặn; tự mình thực hiện các công việc nhằm ngăn chặn hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể tiếp tục xảy ra và kết quả là hậu quả thực tế của tội phạm đã giảm thiểu tối đa so với khả năng xảy ra thiệt hại thực tế nếu không có các hành vi này.

– Ngoài việc tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm thì người phạm tội còn phải lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận thì mới có thể được miễn trách nhiệm hình sự.

Trên đây là tư vấn của chúng tôi. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài điện thoại gọi ngay số: 1900.6162 để được giải đáp. Rất mong nhận được sự hợp tác, trân trọng cảm ơn!