Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao việt nam | Xemtailieu

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao việt nam

  • pdf

  • 80

    trang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

KHOA SƯ PHẠM

TRẦN THỊ QUÍ

LỚP DH5C1

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGÀNH NGỮ VĂN

TÌM HIỂU

NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT

CỦA ĐỒNG DAO VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn

Thạc sĩ: TRẦN TÙNG CHINH

Long Xuyên, 5 / 2008

LỜI CẢM ƠN :

Khóa luận được hoàn thành là nhờ sự quan tâm sâu sắc của Ban

giám hiệu trường Đại học An Giang, khoa Sư phạm, quí thầy cô cùng

bạn bè, người thân. Người viết xin chân thành cảm ơn :

• Ban giám hiệu trường Đại học An Giang.

• Ban chủ nhiệm khoa Sư phạm trường Đại học An Giang.

• Các thầy cô trong tổ bộ môn Văn.

• Thư viện trường Đại học An Giang, thư viện tỉnh An Giang.

• Người thân và bạn bè.

Đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện

khóa luận tốt nghiệp.

Đặc biệt, tôi xin gởi sự tri ân sâu sắc đến Thạc sĩ Trần Tùng

Chinh, thầy đã tận tình hướng dẫn tôi, cho tôi có thêm niềm tin và nghị

lực để bước đi trên con đường khám phá những chân trời khoa học

rộng mở trước mắt, hoàn thành khóa luận của mình.

Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!

Long Xuyên, ngày 2 tháng 5 năm 2008.

Người thực hiện :

Trần Thị Quí

Khóa luận tốt nghiệp ĐH

Trần Thị Quí

MỤC LỤC :

Trang

A. PHẦN DẪN LUẬN :

I. Đối tượng nghiên cứu và lí do chọn đề tài :……………………………….. 1

II. Lịch sử vấn đề :…………………………………………………………………….. 2

III. Phạm vi nghiên cứu, đối tượng của đề tài : ……………………………… 4

IV. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu : …………………………………. 4

V. Đóng góp của khóa luận :………………………………………………………. 5

VI. Mục đích của khóa luận : ……………………………………………………… 6

VII. Bố cục khóa luận : ……………………………………………………………… 7

B. PHẦN NỘI DUNG :

Chương I. Khái quát về đồng dao :

I. Khái niệm ca dao – dân ca : …………………………………………………….. 8

II. Khái niệm đồng dao :…………………………………………………………….. 9

III. So sánh, phân biệt đồng dao và các thể loại

văn học dân gian khác :…………………………………………………………. 12

1. Đồng dao với ca dao – dân ca :…………………………………………… 12

2. Đồng dao với vè :……………………………………………………………… 13

3. Đồng dao với câu đố : ……………………………………………………….. 15

Chương II. Tìm hiểu nội dung đồng dao :

I. Những bài đồng dao phản ánh về giới thực vật :……………………. 18

II. Những bài đồng dao phản ánh về giới động vật : …………………. 22

III. Những bài đồng dao phản ánh về các hiện tượng tự nhiên : …. 29

Chương III. Nghệ thuật đồng dao :

I. Kết cấu đồng dao : …………………………………………………………………. 34

1. Đầu cuối tương ứng : ………………………………………………………… 35

2. Điệp đoạn điệp khúc : ……………………………………………………….. 36

3. Kết cấu liệt kê : ………………………………………………………………… 38

II. Ngôn ngữ đồng dao : …………………………………………………………….. 41

1. Ngôn ngữ địa phương : ……………………………………………………… 41

2. Sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa rất đậm nét :……………….. 42

3. Ngôn ngữ đồng dao cô đúc, gợi hình, gợi cảm :……………………. 49

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

Khóa luận tốt nghiệp ĐH

Trần Thị Quí

4. Sử dụng các từ mô phỏng âm thanh, từ láy : ………………………… 49

III. Vài nét về thể thơ : ………………………………………………………………. 51

1. Thể lục bát : …………………………………………………………………….. 51

2. Thể vãn : …………………………………………………………………………. 53

3. Thể hỗn hợp : …………………………………………………………………… 57

IV. Thời gian và không gian nghệ thuật :……………………………………… 62

1. Thời gian nghệ thuật : ……………………………………………………….. 62

2. Không gian nghệ thuật :…………………………………………………….. 65

V. Một số biểu tượng trong đồng dao : ………………………………………… 67

1. Biểu tượng con bống :……………………………………………………….. 67

2. Biểu tượng con nghé, con trâu :………………………………………….. 69

3. Biểu tượng trăng sao :……………………………………………………….. 70

C. PHẦN KẾT LUẬN : ……………………………………………………………………… 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

PHỤ LỤC.

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

A. PHẦN DẪN LUẬN :

I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :

Đồng dao là một trong những di sản tinh thần quí báu của dân tộc Việt

Nam. Đến với đồng dao, chúng ta như hòa mình vào một nguồn suối mát vô tận

của thiên nhiên. Nó sưởi ấm tâm hồn ta mỗi khi cảm thấy cô đơn, lạnh giá. Đồng

dao với sự giản dị, cô đúc, ngắn gọn, hồn nhiên cả trong nội dung lẫn hình thức

nghệ thuật đã gắn bó với chúng ta từ thuở ấu thơ. Và đến khi đã trưởng thành, ta

vẫn tìm về với đồng dao như để tìm lại sự thanh thản, hồn nhiên thuở nhỏ, gạt bỏ

mọi xô bồ, tất bật, tranh đua trong cuộc sống thường nhật.

Mặt khác, “đồng dao đã có lịch sử từ lâu đời. Nó được hình thành và phát

triển cùng với sự phát triển của xã hội” [Trần Gia Linh, 2006 : 4]. Do đó, tìm hiểu

đồng dao giúp ta có điều kiện tiếp cận và hiểu sâu sắc hơn về truyền thống văn

hóa Việt Nam, xuôi về với cội nguồn dân tộc. Đó chính là những chiếc nôi xinh,

ấm áp nghĩa tình, nồng nàn tiếng mẹ ru sưởi ấm tâm hồn ta. Không ai trong mỗi

chúng ta thuở nhỏ lại không thuộc một vài bài đồng dao và không thông thạo một

số trò chơi dân gian gắn với những bài đồng dao. Chính vì thế mà việc tìm hiểu

đồng dao có một ý nghĩa thiết thực hết sức to lớn.

Trẻ nhỏ chính là những mầm non của đất nước, là tương lai của dân tộc.

Mà đồng dao lại là nguồn “sữa tinh thần” nuôi dưỡng và bồi đắp tâm hồn các em.

Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu đồng dao chính là để góp phần bổ sung, làm giàu

nguồn sức mạnh tinh thần cho tuổi thơ. Đồng thời, đó cũng chính là nguồn sức

mạnh tinh thần của tất cả mọi người, vì ai cũng từng có một tuổi thơ cho riêng

mình.

Không chỉ có thế, trong đồng dao còn có sự hội tụ, giao thoa của rất nhiều

thể loại và tiểu loại như : vè, câu đố, hát ru,…Cho nên, việc tìm hiểu đồng dao sẽ

có tác dụng hỗ trợ cho những ai muốn nghiên cứu các thể loại này những kiến

thức cần thiết. Như vậy, thông qua việc tìm hiểu đồng dao ta có điều kiện hiểu

thêm về các thể loại văn học dân gian khác.

Đồng thời, giữa đồng dao và thơ thiếu nhi của văn học hiện đại có mối

liên hệ rất gần gũi. Chính vì thế, việc tìm hiểu đồng dao sẽ giúp cho chúng ta tiếp

cận với thơ thiếu nhi một cách thuận lợi hơn.

Mặt khác, xã hội ngày càng phát triển. Sự xuất hiện và “thống trị” của

công nghệ thông tin đem đến rất nhiều tiện nghi, lợi ích cho cuộc sống, nhưng

đồng thời cũng đẩy chúng ta vào những tất bật, ngột ngạt, xô bồ,…của một xã hội

cơ khí và tự động hóa. Các chính sách mở cửa, hội nhập một mặt giúp chúng ta có

điều kiện tiếp cận với các nền văn hóa tri thức tiên tiến trên toàn thế giới, nhưng

đồng thời cũng kèm theo mặt trái của nó. Khi bản sắc văn hóa truyền thống của

dân tộc có dấu hiệu bị mai một, người ta bắt đầu có ý thức tìm lại nguồn cội, bản

Trần Thị Quí

Trang 1

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

nguyên. Những di sản văn hóa tinh thần được khôi phục. Tinh thần tự hào dân tộc

lại trỗi dậy mãnh liệt ở mỗi con người Việt Nam. Từ những cơ sở đó, chúng tôi

nhận thấy rằng công tác khảo sát, nghiên cứu đồng dao là một việc làm có ý nghĩa

thiết thực. Nó phù hợp với xu hướng chung của thời đại, góp phần làm sống dậy

những tinh hoa văn hóa dân tộc và kêu gọi ý thức giữ gìn truyền thống văn hóa tốt

đẹp của nhân dân ta.

Bên cạnh những lý do đã trình bày, việc nghiên cứu đề tài này còn mang

một ý nghĩa sư phạm quan trọng, đó là phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên

cứu của bản thân người làm khóa luận sau này.

Chính vì những lý do đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài : “Tìm hiểu nội

dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam” làm đối tượng nghiên cứu cho khóa

luận tốt nghiệp.

II/ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ :

Đồng dao có lịch sử lâu đời. Nó được hình thành và phát triển cùng với sự

phát triển của xã hội. Đồng dao là một bộ phận của văn học dân gian xuất hiện

sớm và được lưu truyền tương đối rộng rãi. Không ai trong chúng ta lúc còn bé lại

không biết đến đồng dao. Mặc dù vậy, chưa có một công trình nghiên cứu

Folklore nào tìm hiểu đồng dao một cách chuyên sâu và hoàn chỉnh.

Các tập sưu tầm văn học dân gian bằng chữ Hán hay chữ Nôm từ “Nam

phong giải trào” của Trần Danh Án (đỗ tiến sĩ 1787) và Ngô Đình Thái (đỗ cử

nhân 1819), “Quốc phong thi hợp thái” Nguyễn Đăng Tuyển (soạn 1850), đến

“Thanh hóa quan phong” của Vương Duy Trinh (soạn năm 1904) không thấy có

đồng dao. Hai tập “Quốc ngạn” của Đái Nam Lương Thúc Kì (in năm 1931) thì

xếp những câu tục ngữ có ý nghĩa giáo dục vào loại dành cho trẻ, và lại kèm vào

đó những câu dịch hoặc lấy nguyên văn tương tự trong các sách chữ Hán. Mãi đến

năm 1935, trên “Tứ dân văn uyển” số 1 mới in tập “Trẻ con hát, trẻ con chơi” của

Nguyễn Văn Vĩnh. Tập này đến năm 1943 thì được Nhà xuất bản Đắc Lộ cho tái

bản. Còn “Tục ngữ phong dao” của Nguyễn Văn Ngọc thì không phân loại, ông

viết : “Chúng tôi chỉ vụ thu thập cho được nhiều câu không phân biệt thế nào là

thành ngữ, tục ngữ, sấm ngữ, mê ngữ, phương ngôn, đồng dao, ca dao hay phong

dao gì cả” [Nguyễn Văn Ngọc, 1991 : 8].

Chỉ từ sau cách mạng Tháng Tám, đồng dao mới được để ý hơn. Sau tập

sưu tầm của Vũ Ngọc Phan, cuốn “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam – văn học dân

gian” mới xuất bản gần đây (1972) đã in 17 trang dành cho hai mục : Hát vui chơi

trẻ em và Hát ru em [Vũ Ngọc Phan, 1972 : 277-293]. Trước đó, nhà xuất bản

Kim Đồng cho in hai tập “Gọi nghé”(1967) và “Túng dinh”(1969) rất mỏng và

hình như văn bản cổ đã được chỉnh lý khá nhiều [Vũ Ngọc Khánh, 1999 : 251].

Năm 1977, Vũ Ngọc Phách viết “Mấy điều ghi nhận về đồng dao Việt Nam” [Trần

gia Linh, 2006 : 4]. Năm 1997, Nhà xuất bản Giáo dục cho xuất bản cuốn “Đồng

dao Việt Nam” giới thiệu 176 bài đồng dao do Trần Gia Linh tuyển chọn và giới

thiệu [Trần Gia Linh, 1997]. Tháng 8 năm 2005, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin

cho xuất bản quyển “Đồng dao Việt Nam” do Nguyễn Nghĩa Dân biên soạn

Trần Thị Quí

Trang 2

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

[Nguyễn Nghĩa Dân, 2005]. Đến tháng 10 năm 2006, Nhà xuất bản Giáo dục cho

xuất bản quyển “Kho tàng đồng dao Việt Nam” [Trần Gia Linh, 2006] do Trần

Gia Linh tuyển chọn và giới thiệu với gần 300 bài đồng dao xoay quanh 6 chủ đề

lớn : Đồng dao về thiên nhiên đất nước (gồm 46 bài), đồng dao – trò chơi tuổi thơ

(26 bài), đồng dao – những bài ca tập làm người lao động (56 bài), đồng dao – cái

nhìn ngộ nghĩnh của trẻ thơ (47 bài), đồng dao – những câu đố lý thú (57 bài),

những bài hát ru (47 bài).

Về trò chơi trẻ em, trước năm 1945 cũng đã được nhắc đến. Phần lớn là

sưu tầm của người Pháp, viết theo góc độ dân tộc học : Cố đạo Cađie chẳng hạn,

từ năm 1902 đã ghi chép về các trò chơi bán lợn, trò lộn chuồn chuồn, trò đánh

khăng trong “Phong tục dân gian ở thung lũng Nguồn Sơn (Quảng Ninh)”, đăng

trên tạp chí “Viễn Đông bác cổ”. Năm 1944, Ngô Quí Sơn ghi chép được một tập

trò chơi trẻ em cho xuất bản “Hoạt động vui chơi của xã hội nhi đồng”, nhưng lại

viết bằng tiếng Pháp. Tập này được Nguyễn Văn Tố và Nguyễn Văn Huyên nhận

xét trong bài điểm báo, ở tập san “Viễn Đông bác cổ”, cũng viết bằng tiếng Pháp.

Gần đây nhất, trong một tập sưu tầm nhỏ xuất bản ở địa phương, tiểu ban văn

nghệ dân gian Thanh Hóa có giới thiệu trò “Nàng Quắc” (dân tộc Mường), trò

“Đánh đu” (dân tộc Thái). Cũng cần nói thêm là đồng dao và trò chơi trẻ em miền

núi ở nước ta, xưa cũng như nay, đều chưa được chú ý lắm. Không rõ các sách sưu

tầm ở địa phương khác đã có nhiều tài liệu về loại này chưa ? [Vũ Ngọc Khánh,

1999 : 251-252].

Cho đến hiện nay, chúng tôi cũng chưa được đọc một tài liệu lí luận hay

nghiên cứu hoàn chỉnh về đồng dao Việt Nam. Những công trình văn học sử đã ra

đời, kể từ “Việt Nam văn học sử yếu” của Dương Quảng Hàm [Dương Quảng

Hàm, 1993], đến hai tập “Văn học dân gian” được coi là biên soạn tương đối công

phu và có nhiều đóng góp của Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên [Đinh Gia

Khánh và Chu Xuân diên, 1992] cũng không có phần nào dành riêng để bàn đến

đồng dao, mà chỉ có ít dòng nói qua đến “bài hát trò chơi” của trẻ em [Đinh Gia

Khánh và Chu Xuân Diên, 1992 : 291-292]. Cuốn “Văn học dân gian” xuất bản

gần đây của tập thể tác giả do Lê Chí Quế chủ biên xuất bản 1990 [Lê Chí Quế,

1990], cũng không hề nhắc đến đồng dao. Riêng cuốn “Văn học dân gian Việt

Nam”, tác giả Hoàng Tiến Tựu trong khi nghiên cứu về thể loại ca dao đã dành

một phần giới thiệu tương đối gọn về đồng dao [Hoàng Tiến Tựu, 1998].

Do điều kiện hạn chế ấy nên công trình nghiên cứu này của chúng tôi chỉ

mới là một vài điều ghi nhận bước đầu. Mong rằng có thể đem đến cho những ai

muốn tìm hiểu sâu hơn về đồng dao một tài liệu hữu ích để nghiên cứu vậy !

Đồng dao là những bài hát dân gian có nội dung và hình thức phù hợp với

trẻ, thường do trẻ trực tiếp diễn xướng. Chúng tôi thiết nghĩ đây là một thể loại rất

hấp dẫn và thú vị. Việc nghiên cứu nó sẽ giúp cho chúng ta ngược về với tuổi thơ,

khoảng thời gian mà ai cũng có, để khám phá những suy nghĩ, thói quen của trẻ

nhỏ, thông qua đó ta có thể hiểu rõ thêm về giai đoạn của một đời người. Đồng

thời, trẻ em là tương lai của đất nước mà đồng dao lại gắn liền với các em, là

“nguồn sữa” bồi đắp và nuôi dưỡng tinh thần cho trẻ. Do đó, việc tìm hiểu đồng

Trần Thị Quí

Trang 3

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

dao sẽ góp phần tìm ra biện pháp hữu hiệu để giáo dục và chăm sóc tâm hồn trẻ

nhỏ. Trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi mong rằng được góp

phần tìm hiểu một cách cụ thể và bước đầu phát hiện ra những giá trị to lớn cả về

“nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam”.

III/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU, ĐỐI TƯỢNG CỦA ĐỀ TÀI :

1/ Phạm vi nghiên cứu :

Với đề tài “Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam”,

người viết tập trung tìm hiểu, nghiên cứu những đặc sắc nội dung và nghệ thuật

của đồng dao Việt Nam trong 279 bài đồng dao được chúng tôi tuyển chọn từ hai

quyển “Đồng dao Việt Nam” tác giả Nguyễn Nghĩa Dân – Nhà xuất bản Văn hóa

thông tin [Nguyễn Nghĩa Dân, 2005] và “Kho tàng đồng dao Việt Nam”, tác giả

Trần Gia Linh – Nhà xuất bản Giáo dục [Trần Gia Linh, 2006].

2/ Đối tượng của đề tài :

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là 279 bài đồng dao được chúng tôi

tuyển chọn từ hai quyển “Đồng dao Việt Nam” tác giả Nguyễn Nghĩa Dân – Nhà

xuất bản Văn hóa thông tin [Nguyễn Nghĩa Dân, 2005] và “Kho tàng đồng dao

Việt Nam”, tác giả Trần Gia Linh – Nhà xuất bản Giáo dục [Trần Gia Linh, 2006].

IV/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :

Trong khóa luận này, chúng tôi tập trung nghiên cứu nội dung và nghệ

thuật của đồng dao Việt Nam. Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi bắt

đầu từ việc tìm hiểu khái quát về đồng dao, trong đó chúng tôi có sự đối sánh :

Đồng dao với ca dao, với dân ca, với vè và câu đố,…Trên cơ sở lí luận thu nhận

được, chúng tôi lần lượt làm sáng tỏ các vấn đề : Khái niệm đồng dao (đến nay

còn chưa thống nhất); về nội dung; nghệ thuật đồng dao; phân loại và chỉ ra những

đặc trưng nội dung, nghệ thuật đồng dao. Do phạm vi đề tài nghiên cứu tương đối

rộng mà mức độ, khả năng cũng như thời gian thực hiện khóa luận có hạn cho nên

chúng tôi chỉ tập trung phân tích, khái quát, tổng hợp nội dung, nghệ thuật đồng

dao, bước đầu rút ra những kết luận khoa học chứ chưa thể đi vào những khía

cạnh chi tiết.

Để làm sáng tỏ đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ

thể như sau :

1/ Phương pháp thống kê, phân loại :

“Phương pháp thống kê là một trong những phương pháp nghiên cứu

chính xác. Nó giúp phát hiện ra những qui luật của hiện thực khách quan, từ một

sự vật, hiện tượng,…” [Triều Nguyên, 2001 : 29]. Trong đề tài này, chúng tôi đã

vận dụng phương pháp thống kê để lựa chọn trong các tài liệu những bài đồng dao

tiêu biểu. Sau đó, chúng tôi tiến hành khảo sát và phân loại các bài đồng dao sưu

tầm được thành các tiểu loại nhỏ. Dựa trên các tiểu loại đó, chúng tôi tiếp tục

thống kê tần số xuất hiện của những bài đồng dao trong từng tiểu loại. Trong các

cách sử dụng này, phương pháp thống kê luôn tỏ ra có tác dụng đắc lực giúp cho

Trần Thị Quí

Trang 4

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

việc phân tích, phân loại, đánh giá đối tượng thuận lợi, hiệu quả và có cơ sở thuyết

phục hơn.

2/ Phương pháp so sánh :

“Phương pháp so sánh là phương pháp đặt đối tượng trong các mối quan

hệ, liên hệ với một số đối tượng cùng loại hoặc tương tự nhằm phát hiện ra những

nét chung cũng như cái riêng biệt, cái đặc trưng của đối tượng” [Triều Nguyên,

2001 : 30]. Trong quá trình khảo sát đề tài này, chúng tôi vận dụng phương pháp

so sánh để phát hiện điểm tương đồng và dị biệt giữa đồng dao với các thể loại

liên quan như ca dao, dân ca, vè, câu đố. Đặc biệt, chúng tôi luôn quan tâm đối

chiếu tần số xuất hiện của các bài đồng dao trong từng tiểu loại cũng như tần số

xuất hiện của các dạng kết cấu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật,…trong đồng dao;

để từ đó rút ra những kết luận liên quan đến đặc trưng thể loại cũng như quan

điểm thẩm mĩ của tác giả dân gian.

Mỗi phương pháp đều có tác dụng thiết thực trong những mục đích sử

dụng cụ thể, hợp lí. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng riêng biệt một vài phương pháp thì

không thể khai thác vấn đề một cách triệt để được bởi mỗi phương pháp nghiên

cứu đều có hạn chế nhất định. Mặt khác, đối tượng nghiên cứu của đề tài này

tương đối rộng cho nên bên cạnh hai phương pháp chủ yếu đã trình bày, chúng tôi

còn kết hợp với các thao tác khác như : thao tác đọc sách, thao tác tổng hợp tư

liệu, thao tác phân tích, tổng hợp…sao cho quá trình tiếp cận và chiếm lĩnh đối

tượng đạt hiệu quả cao nhất.

Về nguồn tư liệu về đồng dao để khảo sát, trong khóa luận này chúng tôi

chủ yếu trích dẫn từ quyển “Đồng dao Việt Nam” tác giả Nguyễn Nghĩa Dân Nhà xuất bản Văn hóa thông tin [Nguyễn Nghĩa Dân, 2005]. Đây là một công

trình sưu tầm khá công phu và qui mô. Tác giả đã tổng hợp rất nhiều bài đồng dao

ở cả ba miền Bắc – Trung – Nam, và sắp xếp chúng theo mẫu tự chữ cái ở đầu mỗi

bài. Tuy nhiên, bộ sách cũng còn nhiều thiếu sót do chưa có điều kiện cập nhật

đầy đủ tất cả những bài đồng dao mới được sưu tầm. Chính vì vậy, để nguồn tư

liệu thêm phong phú, bên cạnh bộ sách này, chúng tôi có trích dẫn thêm một số

câu đồng dao từ “Kho tàng đồng dao Việt Nam”, tác giả Trần Gia Linh – Nhà xuất

bản Giáo dục [Trần Gia Linh, 2006]. Đồng dao là sản phẩm của quần chúng nhân

dân. Mặc dù từ trước đến nay có khá nhiều tác giả đã dành thời gian và công sức

để sưu tầm, biên khảo đồng dao nhưng kết quả thu được vẫn còn nhiều thiếu sót.

Khi thực hiện đề tài này, dù chúng tôi đã rất cố gắng để tập hợp, sưu tầm tất cả

những bài đồng dao từ các nguồn tư liệu khác nhau nhưng công trình cũng khó

tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Chúng tôi hy vọng sẽ có thể trở lại đề tài này

ở những công trình thuộc các cấp học cao hơn, để có thể nghiên cứu sâu sắc và

hoàn chỉnh hơn về nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam.

V/ ĐÓNG GÓP CỦA KHÓA LUẬN :

Đến với vấn đề nghiên cứu còn khá mới mẻ, bằng năng lực và trình độ

hạn hẹp của bản thân, chúng tôi nhận thức được rằng những gì trình bày trong

khóa luận này chỉ là kết quả của bước khởi đầu. Tuy vậy, bởi sự hấp dẫn và tính

Trần Thị Quí

Trang 5

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

cần thiết của vấn đề, sự cuốn hút mạnh mẽ của những lời ca dân gian tràn đầy vẻ

thơ ngây, tinh khiết, trong trẻo, chúng tôi luôn ý thức cố gắng hoàn thành những

đóng góp thiết thực sau :

Thứ nhất : Mở ra một hướng nghiên cứu để tiếp cận thế giới đồng dao

Việt Nam trên phương diện nội dung và nghệ thuật. Chúng tôi tiến hành thống kê,

khảo sát và phân loại những bài đồng dao sưu tầm được thành những tiểu loại nhỏ

dựa trên đặc điểm nội dung và hình thức nghệ thuật. Qua đó tạo điều kiện cho

người đọc khám phá vẻ đẹp của đồng dao dưới góc nhìn Folklore học.

Thứ hai, khóa luận không chỉ đơn thuần là sự thống kê nội dung, nghệ

thuật trong đồng dao Việt Nam qua sự phân chia thành các tiểu loại, mà bên cạnh

đó chúng tôi tiếp tục làm sáng tỏ những đặc sắc nội dung, nghệ thuật đồng dao. Từ

đó, tạo tiền đề cần thiết cho những công trình nghiên cứu ở cấp độ cao hơn.

Thứ ba, khóa luận còn có ý nghĩa sư phạm thiết thực. Thông qua việc tìm

hiểu những nét đặc sắc nội dung, nghệ thuật đồng dao sẽ góp phần giúp cho học

sinh hiểu biết sâu sắc hơn về những nét văn hóa truyền thống của người Việt xưa.

Đồng thời, đồng dao với những câu ca ngọt ngào, ấm áp đã nuôi dưỡng, bồi đắp

tâm hồn trẻ thơ từ thuở lọt lòng cho đến khi trưởng thành. Do đó, tìm hiểu đồng

dao là tìm hiểu về cả một thời thơ ngây của mỗi con người, về lịch sử, văn hóa dân

tộc. Từ đó, sẽ giúp học sinh có điều kiện để khám phá ra cái hay, cái đẹp của đồng

dao cũng chính là khám phá ra truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt

Nam. Trên cơ sở đó mà giáo dục cho các em lòng tự hào về bản sắc văn hóa tốt

đẹp của dân tộc.

Bên cạnh đó, khóa luận được hoàn thành sẽ cung cấp cho những sinh

viên, giảng viên Ngữ Văn và những người yêu thích, nghiên cứu thơ ca dân gian

có thêm một nguồn tư liệu để tham khảo.

VI/ MỤC ĐÍCH CỦA KHÓA LUẬN :

Đồng dao là một thể loại văn học dân gian ra đời đã khá lâu và có vai trò

to lớn trong cuộc sống chúng ta, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa có một công

trình nào nghiên cứu đồng dao một cách chuyên sâu và hoàn chỉnh. Chúng tôi đến

với đề tài này với mong muốn có thể đạt được những mục đích thiết thực sau :

1/ Thứ nhất, khóa luận nhằm đưa ra một khái niệm mới về đồng dao Việt

Nam, trên cơ sở tổng hợp những ý kiến của các nhà nghiên cứu, mong rằng có thể

khái quát đầy đủ những thuộc tính bản chất của thể loại này.

2/ Thứ hai, từ những kết quả nghiên cứu thu nhận được, chúng tôi mong

rằng có thể cho người đọc phần nào thấy được những nét đặc sắc về nội dung và

hình thức nghệ thuật của đồng dao Việt Nam.

3/ Thứ ba, trên cơ sở những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của đồng dao

Việt Nam, chúng tôi đi đến khẳng định giá trị đặc sắc và vai trò to lớn của tiểu loại

này trong hệ thống thể loại của nền văn học dân gian nước nhà.

Trần Thị Quí

Trang 6

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

VII/ BỐ CỤC KHÓA LUẬN :

“TÌM HIỂU NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA ĐỒNG DAO VIỆT NAM”

`

A. Phần dẫn luận :

I/ Đối tượng nghiên cứu và lý do chọn đề tài.

II/ Lịch sử vấn đề.

III/ Phạm vi nghiên cứu và đối tượng của đề tài.

IV/ Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu.

V/ Đóng góp của khóa luận.

VI/ Mục đích của khóa luận.

VII/ Bố cục khóa luận.

B. Phần nội dung :

Chương I: Khái quát về đồng dao.

1. Khái niệm ca dao – dân ca.

2. Khái niệm đồng dao.

3. So sánh phân biệt :

3.1. Đồng dao với ca dao, dân ca .

3.2. Đồng dao với vè.

3.3. Đồng dao với câu đố.

Chương II : Tìm hiểu nội dung đồng dao :

I. Những bài đồng dao phản ánh về thế giới tự nhiên :

1. Những bài đồng dao phản ánh về giới thực vật.

2. Những bài đồng dao phản ánh về giới động vật.

3. Những bài đồng dao phản ánh về không gian siêu nhiên.

4. Những bài đồng dao phản ánh về các hiện tượng tự

nhiên.

Chương III : Tìm hiểu nghệ thuật đồng dao :

I. Kết cấu.

II. Ngôn ngữ nghệ thuật.

III. Thể thơ.

IV. Thời gian và không gian nghệ thuật.

V. Một số biểu tượng trong đồng dao.

C. Phần kết luận :

Trần Thị Quí

Trang 7

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

B. PHẦN NỘI DUNG :

CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT VỀ ĐỒNG DAO :

Đồng dao là một thể loại văn học dân gian, tồn tại song song với ca dao,

dân ca. Nó có nguồn gốc từ rất lâu đời. Mặc dù vậy, có lẽ do phạm vi đối tượng

hướng đến của đồng dao còn tương đối hẹp (phần nhiều là hướng tới trẻ nhỏ), cho

nên đồng dao ít được chú ý nghiên cứu, đào sâu. Trong khi đó, ca dao dân ca đã

rất phổ biến, được nhiều học giả chú ý tìm hiểu, nghiên cứu. Chính vì lẽ đó, để

giúp người đọc dễ tiếp cận với đồng dao, trước tiên, chúng tôi đi khái niệm về ca

dao dân ca, dựa vào đó để tiếp tục nghiên cứu, đào sâu đồng dao.

Mặt khác, trong quá trình tìm tòi, đào sâu về đồng dao, chúng tôi nhận

thấy giữa đồng dao và ca dao dân ca, hai thể loại này có những điểm gần gũi rất

lớn. Do đó, chúng tôi xin dựa vào khái niệm của ca dao – một thể loại đã khá hoàn

chỉnh của văn học dân gian để làm cơ sở đào sâu, khai thác đồng dao – một thể

loại còn ít người nghiên cứu.

I. KHÁI NIỆM CA DAO – DÂN CA :

Trong quyển “Văn học dân gian Việt Nam” của Đại học quốc gia Hà Nội,

ông Lê Chí Quế có trình bày lịch sử khái niệm ca dao – dân ca, bắt đầu từ nguồn

gốc Hán Việt. “Ca” : tức là bài hát có hòa với nhạc, còn “dao” tức là lời của bài

hát đó [Lê Chí Quế, 2001 : 215]. Và sở dĩ có hiện tượng chiết tự khái niệm “ca”

và “dao” bởi lẽ trong thư tịch cổ Trung Quốc chỉ có khái niệm “ca” và “dao” mà

không có thuật ngữ “ca dao dân ca” như các công trình nghiên cứu văn học dân

gian Việt Nam vẫn thường gọi.

Trong quyển giáo trình biên soạn về văn học Việt Nam – “Việt Nam văn

học sử yếu” [Dương Quảng Hàm, 1993] – ông Dương Quảng Hàm có nói ca dao

“(ca : hát, dao : bài hát không có chương khúc) là những bài hát ngắn lưu hành

trong dân gian, thường tả tính tình, phong tục của người bình dân” [Dương

Quảng Hàm, 1993 : 22]. Có lẽ đây chỉ là một định nghĩa còn dừng lại ở mức nhận

định chung chung sơ sài, nhằm để bước đầu phân biệt thể loại này với thể loại

khác.

Nhấn mạnh sự khác nhau của ca dao với một số khái niệm liên quan như :

phong dao, đồng dao, nhóm tác giả Trần Vĩnh – Nguyễn Tấn Phát (Giáo trình Đại

học sư phạm – 1978) định nghĩa : Ca dao là những bài hát có hoặc không có

chương khúc, sáng tác bằng thể văn dân tộc để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt

tình cảm [Trần Vĩnh và Nguyễn Tấn Phát, 1978]. Ông Trần Hoàng (Đại học Huế)

xác định khái niệm ca dao được sử dụng rộng rãi đầu thế kỉ XX, với hai loại ý

kiến vẫn còn phiến diện. “Một là, ca dao cổ truyền chính là phần lời của dân ca.

Hai là, ca dao không phải là toàn bộ phần ngôn từ của các bài hát dân gian mà

chỉ là những câu hát mang tính chất trữ tình đậm đà nhất và được sáng tác theo

một phong cách riêng” [Trần Hoàng, 1995 : 61].

Trần Thị Quí

Trang 8

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

Còn dân ca là những bài hát dân gian do quần chúng nhân dân sáng tác,

diễn xướng và lưu truyền. Đó là những bài hát có hoặc không có chương khúc,

phổ biến trong dân gian ở từng vùng, miền có quan hệ với sinh hoạt văn hóa tinh

thần ở đó (Quan họ Bắc Ninh, hát dặm Nghệ Tĩnh, hò Đồng Tháp …), hoặc lưu

hành rộng rãi ở nhiều vùng có nội dung trữ tình và có giá trị đặc biệt về âm nhạc.

Ở dân ca, phần lời và phần nhạc điệu cùng thể thức diễn xướng gắn bó trong một

chỉnh thể thống nhất. Dù định nghĩa riêng từng khái niệm, nhưng ta thấy toát lên

từ các ý kiến nêu trên là sự quan tâm đến mối quan hệ của ca dao và dân ca. Nói

như ông Hoàng Tiến Tựu, “dân ca và ca dao là hai khái niệm phản ánh hai thực

thể khác nhau nhưng có quan hệ với nhau rất mật thiết” [Hoàng Tiến Tựu, 1998 :

163].

Như vậy, có thể thấy rõ các định nghĩa trên có xu hướng tách rời khái niệm

ca dao và dân ca. Có thể xem đó là cách tiếp cận thứ nhất. Một cách tiếp cận khác

thường định nghĩa đồng nhất ca dao và dân ca. Tức là, ca dao chính là một tên gọi

khác của dân ca và ngược lại .

Tuy nhiên, đáng chú ý chính là những định nghĩa dùng thuật ngữ kép “Ca

dao dân ca” của các tác giả. Ông Chu Xuân Diên cho rằng : “Ca dao dân ca là tên

gọi chung các thể loại trữ tình dân gian kết hợp lời thơ và giai điệu nhạc, nội

dung miêu tả những tâm trạng, những tư tưởng và tình cảm của con người. Phần

lớn lời thơ của dân ca được gọi là ca dao. Mặt khác, ca dao không chỉ là lời hát,

mà còn là lời nói (dùng xen vào lời nói thường)” [Chu Xuân Diên, 1998 : 437].

Tương tự, ông Đỗ Bình Trị định nghĩa : “Ca dao dân ca là tên gọi chung các thể

loại trữ tình dân gian. Trong diễn xướng, đó là những bài ca, là thơ được hát lên

theo những giai điệu nhạc nhất định. Các thể loại dân ca có bản chất chung là trữ

tình (tức là chủ yếu biểu hiện những tâm trạng, những cảm nghĩ của con người)

và khác nhau về chức năng sinh hoạt là chính. Và theo ông, thuật ngữ ca dao và

dân ca là hoàn toàn tương đồng với nhau. Hiểu theo nghĩa rộng, đây là khái niệm

bao hàm ba yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau : Đó là lối hát, là điệu hát, là lời hát.

Lời của ca dao chính là thơ. Từ đó, ông Đỗ Bình Trị rút ra và nhận định rằng, khi

nghiên cứu, giới thiệu những câu hát – bài hát dân gian một cách toàn vẹn hoặc

chỉ nghiêng về mặt âm nhạc, ta gọi đó là dân ca. Còn khi nghiên cứu giới thiệu

chỉ riêng phần lời của những câu hát – bài hát ấy, ta gọi đó là ca dao” [Trần Tùng

Chinh, 2002 : 79].

Trên đây là những khái niệm mà chúng tôi đã hệ thống từ những sách

nghiên cứu của các nhà phê bình, lí luận có tên tuổi. Và chúng tôi xin mượn

những khái niệm trên làm cơ sở tiếp tục tìm hiểu, đào sâu đồng dao.

II. KHÁI NIỆM ĐỒNG DAO :

Đồng dao là một bộ phận của văn học dân gian xuất hiện rất sớm và được

lưu truyền rất rộng rãi. Đó là những bài hát mà chúng ta quen hát nơi cửa miệng từ

khi còn rất nhỏ, là những lời ru ngọt ngào dịu êm khi còn nằm trong nôi, là những

câu đố giản dị, lí thú,…Ngay từ lúc ấu thơ, trong mỗi chúng ta không ai không

thuộc một vài bài đồng dao và không thông thạo một trò chơi đồng dao. Tuy vậy,

Trần Thị Quí

Trang 9

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào tìm hiểu về đồng dao một

cách chuyên sâu và hoàn chỉnh.

Công trình nghiên cứu và sưu tầm đồng dao sớm nhất là của học giả

Nguyễn Văn Vĩnh trong “Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt” [Nguyễn Văn

Vĩnh, 1997]. Tuy vậy, trong bài viết của mình, Nguyễn Văn Vĩnh không dùng

thuật ngữ “đồng dao” mà gọi là “Trẻ em hát trẻ em chơi”. Theo ông, những “câu

hát trẻ con” bao gồm những câu vừa hát vừa chơi, sau là những câu hát không

phải có cuộc chơi và tiếp nữa là đến những câu hát ru trẻ ngủ [Nguyễn Văn Vĩnh,

1997]. Những nhà nghiên cứu đồng dao sau này đều sử dụng tư liệu từ công trình

sưu tập của Nguyễn Văn Vĩnh. Như vậy, những tác phẩm văn học dân gian được

trẻ em truyền miệng, được trẻ em hát, trẻ em chơi và được dùng để ru trẻ ngủ đều

được học giả Nguyễn Văn Vĩnh xếp vào chung một loại tác phẩm.

Dương Quảng Hàm trong cuốn “Việt Nam văn học sử yếu” cho hay, “đồng

dao là các bài hát của trẻ con” [Dương Quảng Hàm, 1993 : 28] với nghĩa của từ

dao “là bài hát không có chương khúc” [Dương Quảng Hàm, 1993 : 22]. Như

vậy, trong định nghĩa này Dương Quảng Hàm không xác định rõ đồng dao thuộc

thể loại văn học dân gian nào và gồm những loại tác phẩm nào.

Doãn Quốc Sĩ, trong lời mở đầu tập “Ca dao nhi đồng”, xác định “Đồng

dao là ca dao nhi đồng” [Doãn Quốc Sĩ, 1997 : 3]. Tuy nhiên, trong quá trình

phân loại đồng dao, tác giả lại chia chúng làm nhiều lĩnh vực, thuộc diện rộng :

những bài hát luân lí, những bài hát vui chơi, con cò trong ca dao Việt Nam,

những bài hát nói về nếp sống nông nghiệp và tập tục xưa, những bài hát áp dụng

trò chơi với trẻ con, câu đố, bài hát trẻ con của tác giả Nam Hương. Như vậy, tuy

gọi là “ca dao nhi đồng”, nhưng các tác phẩm này lại trải rộng thêm nhiều thể loại

như : ca dao, tục ngữ, câu đố …của cả tác giả vô danh và có tên.

Nguyễn Tấn Long và Phan Canh trong “Thi ca bình dân” tập IV ở mục

đồng dao, định nghĩa “Đồng dao tức là ca dao nhi đồng” [Nguyễn Tấn Long và

Phan Canh, 1997]. Theo tác giả này, đồng dao dùng để chỉ một bộ phận (tiểu loại)

của thể loại ca dao.

Vũ Ngọc Phan trong cuốn “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam – Văn học dân

gian” có hai mục : Hát vui chơi và hát ru em [Vũ Ngọc Phan, 1972 : 714], gồm

những tác phẩm dân gian có chung đối tượng phục vụ là đồng dao mà không giới

thuyết về tên gọi của hai loại tác phẩm này.

Vũ Ngọc Khánh không gọi “bài hát trẻ em” mà dùng thuật ngữ “đồng dao”

để chỉ những lời ca dân gian trẻ em và loại trừ các câu sấm mà trước đây các nhà

nho xếp vào đồng dao [Vũ Ngọc Khánh, 1999 : 250]. Theo tác giả, đồng dao cũng

là một thể loại văn học dân gian tồn tại bình đẳng với các thể loại khác : tục ngữ,

ca dao [Vũ Ngọc Khánh, 1999].

Trần Hòa Bình trong bài viết “Từ những bài đồng dao đến thơ cho các em

hôm nay” phát biểu ý kiến : “Trong kho tàng văn nghệ dân gian của dân tộc nào

cũng có những bài hát dành riêng cho trẻ em…đó là những bài đồng dao” [Trần

Hòa Bình, 1999 : 83]. Như vậy, với tác giả này, những tác phẩm dân gian nào

Trần Thị Quí

Trang 10

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

được trẻ em ca hát thì gọi là đồng dao, hay nói cách khác, đó là những “bài hát trẻ

em”.

Tuy cũng là một thành phần trong kho tàng văn học dân gian nước nhà.

Song, đồng dao chưa được các nhà nghiên cứu văn học sử bàn đến nhiều. Công

trình văn học sử được coi là biên soạn tương đối công phu và có nhiều đóng góp là

hai tập “Văn học dân gian” của Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên [Đinh Gia

Khánh và Chu Xuân Diên, 1992]. Tuy nhiên, công trình này cũng không có phần

nào dành riêng để bàn đến đồng dao. Cuốn “Văn học dân gian” xuất bản gần đây

của tập thể tác giả do Lê Chí Quế chủ biên [Lê Chí Quế, 2001] cũng không hề

nhắc tới đồng dao. Riêng cuốn “Văn học dân gian Việt Nam”, tác giả Hoàng Tiến

Tựu trong khi nghiên cứu về thể loại ca dao đã dành một phần giới thiệu tương đối

ngắn gọn về đồng dao [Hoàng Tiến Tựu, 2001 : 168-169]. Theo tác giả, đồng dao

còn có thể gọi là ca dao trẻ em và không xếp bài hát ru em hay ru con vào bộ phận

này. Tác giả đưa ra định nghĩa vắn tắt “Đồng dao bao gồm tất cả các hình thức ca

hát truyền thống của trẻ em trong nhân dân thuộc các lứa tuổi khác nhau”

[Hoàng Tiến Tựu, 2001 : 168]. Vậy, tuy coi đồng dao là một bộ phận của ca dao,

song trong quá trình phân tích, phân loại, tác giả đã mở rộng sang cả một số thể

loại văn học dân gian khác, chẳng hạn như : vè, sấm.

Một quan niệm tương đối thống nhất và cụ thể về đồng dao là của Trần

Đức Ngôn trong cuốn “Văn học thiếu nhi Việt Nam” [Trần Đức Ngôn, 1994].

Theo tác giả, “đồng dao không thể được xây dựng như một thể loại Văn học dân

gian riêng biệt. Đây là một khái niệm tập hợp, bao gồm những tác phẩm từ vài thể

loại khác nhau. Chúng bao gồm ca dao cho thiếu nhi (những bài hát ru, những

bài ca vui chơi) và những bài vè cho thiếu nhi” [Trần Đức Ngôn, 1994 : 41].

Ngoài ra, còn có một định nghĩa tương đối dài về đồng dao : “Đồng dao là

những bài hát truyền miệng trẻ em lứa tuổi nhi đồng và thiếu niên. Vốn là những

sáng tác dân gian không rõ tên tác giả, về sau từ vần điệu loại hình này một số

người sáng tác những bài thơ cho trẻ em hát có tên tác giả cũng được các nhà

nghiên cứu gọi là đồng dao” [Nguyễn Văn Vĩnh, 1997 : 5].

Nhìn chung, xung quanh nội dung khái niệm đồng dao có rất nhiều ý kiến

khác nhau, các nhà nghiên cứu chưa thông nhất quan điểm. Tựu trung lại, có thể

phân loại ý kiến các nhà Folklore học như sau :

1. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, đồng dao là những tác phẩm văn học

dân gian, không thuộc vào một thể loại cụ thể nào được trẻ em truyền miệng .

2. Một số nhà nghiên cứu xác định đồng dao là ca dao nhi đồng. Chúng bao

gồm những lời hát dân gian thuộc một thể loại văn học dân gian nhất định và trẻ

em nhất thiết phải là chủ thể chủ yếu và đích thực của sự sáng tạo và diễn xướng.

Ví như: Một số tác phẩm hát ru tuy đối tượng hướng tới là trẻ em nhưng chủ thể

diễn xướng không phải là trẻ em nên không thuộc vào đồng dao. Hay những lời

sấm truyền, sấm kí cũng không phải là đồng dao bởi đối tượng mà nó hướng tới

không phải là trẻ em.

Trần Thị Quí

Trang 11

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

3. Một ý kiến khác, lại quan niệm đồng dao là những bài hát truyền miệng

trẻ em thuộc nhiều thể loại khác nhau, bao gồm cả những tác phẩm văn học dân

gian và những tác phẩm văn học viết hiện đại.

Theo chúng tôi, đồng dao là những sáng tác dân gian dành cho trẻ em,

được các em diễn xướng và lưu truyền, đối tượng hướng tới là trẻ em. Đồng dao

là một khái niệm tập hợp, bao gồm những tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau

như : hát ru, vè, câu đố…, nhưng được sáng tác dành cho trẻ em, phục vụ cho nhu

cầu vui chơi, giải trí và ca hát của trẻ thì đều được gọi là đồng dao. Cả lời và

nhạc, nội dung và hình thức của đồng dao đều mang tính chất hồn nhiên, chất

phác phù hợp với tâm sinh lý tuổi nhỏ.

III. SO SÁNH, PHÂN BIỆT ĐỒNG DAO VỚI MỘT SỐ THỂ LOẠI VĂN

HỌC DÂN GIAN KHÁC :

Trong sự so sánh, phân biệt này, chúng tôi chỉ tiến hành so sánh trên

phương diện nội hàm khái niệm. Về thi pháp đồng dao, do chưa được nhà nghiên

cứu nào nghiên cứu qua; kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ mới là những ghi

nhận bước đầu còn chưa hoàn chỉnh; chính vì thế, chưa thể đem so sánh, phân biệt

đồng dao trên phương diện thi pháp với các thể loại như : ca dao, dân ca, vè, câu

đố được.

1/ Đồng dao với ca dao – dân ca :

1.1. Đồng dao với ca dao :

– Đồng dao : (xem khái niệm trang 12).

– Ca dao : là lời thơ của những câu hát, bài hát dân ca không có phần

âm nhạc và động tác. Đối tượng của ca dao rất phong phú không bị giới hạn bởi

lứa tuổi, giới tính,…

Như vậy, có thể thấy rằng : Điểm khác biệt lớn nhất của đồng dao và ca dao

là ở đối tượng diễn xướng (bao gồm đối tượng tham gia sinh hoạt đồng dao ở quá

trình sáng tạo, tiếp nhận và lưu truyền), ngôn từ…Đồng thời, ở đồng dao phần lời

thơ, nhạc điệu, động tác cùng hợp nhất trong một chỉnh thể còn ở ca dao chỉ ở

phương diện lời thơ mà thôi.

Bảng so sánh :

+ Giống nhau : Cả hai đều là những sáng tác dân gian, hình thức văn vần.

+ Khác nhau :

Trần Thị Quí

Trang 12

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

Tiêu chí

Đồng dao

Ca dao

– Đối tượng diễn xướng : – Trẻ nhỏ.

– Ngôn từ :

– Không giới hạn.

– Giản dị, mang tính chất hồn – Trau chuốt, gọt giũa

nhiên, trong sáng, đa số dùng kĩ lưỡng, từ nhiều

tầng nghĩa,…

từ một nghĩa,…

– Nghệ thuật diễn xướng : – Có sự kết hợp lời thơ, nhạc

– Chỉ là phần lời thơ.

điệu, động tác.

– Nội dung :

– Mang tính chất trong sáng,

– Rất phong phú, diễn tả

hồn nhiên.

những tình cảm phức tạp.

1.2. Đồng dao với dân ca :

– Dân ca : Là những bài hát dân gian bao gồm cả phần nhạc điệu và

ca từ. Ở dân ca phần lời thơ và phần nhạc điệu cùng thể thức diễn xướng gắn bó

trong một chỉnh thể thống nhất.

Như vậy, có thể thấy rằng đồng dao và dân ca có điểm gần gũi trên lĩnh

vực kết hợp ba phương diện lời thơ, nhạc điệu, động tác trong diễn xướng. Song,

giữa đồng dao và dân ca có sự khác biệt rất lớn về đối tượng : Đối tượng hướng

tới của dân ca rất rộng còn đối tượng đồng dao chỉ là trẻ nhỏ, dẫn đến lời thơ, nhạc

điệu, nội dung, hình thức đồng dao khác xa dân ca, chẳng hạn : ở tính chất hồn

nhiên, chất phác cho phù hợp với tâm sinh lí trẻ nhỏ.

Bảng so sánh :

+ Giống nhau :

• Cả hai đều là những sáng tác dân gian.

• Đồng dao và dân ca có điểm gần gũi trên lĩnh vực nghệ thuật diễn

xướng : đều có sự kết hợp ba phương diện lời thơ, nhạc điệu, động

tác trong diễn xướng.

+ Khác nhau :

Tiêu chí

Đồng dao

– Đối tượng diễn xướng : – Trẻ nhỏ.

– Ngôn từ :

Dân ca

– Không giới hạn.

– Giản dị, mang tính chất – Gọt giũa, trau chuốt bóng

hồn nhiên, trong sáng,

bẩy, từ nhiều tầng nghĩa,…

đa số dùng từ một nghĩa,..

– Nội dung :

Trần Thị Quí

– Khá trong sáng, hồn

– Phong phú, thể hiện nhiều

nhiên.

cung bậc tình cảm,…

Trang 13

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

2/ Đồng dao với vè :

– Vè : là một hình thức sáng tác dân gian bằng văn vần với những thể thơ,

luật thơ đa dạng. Vè cũng diễn xướng theo một làn điệu nhất định qua con đường

truyền miệng của các tác giả dân gian. Chúng ta không loại trừ một số đoạn vè

khá trữ tình. Nhưng không giống như ca dao, vè thiên về tự sự ít có tính chất trữ

tình. Trong dân gian, người ta hay bảo là “kể vè” chứ không nói “hát vè”. Điều

này chứng tỏ làn điệu âm nhạc và vần luật trong vè chỉ là phương tiện bổ trợ cho

lối kể chuyện vè thêm sinh động mà thôi. Một bài vè thường ít trau chuốt về mặt

hình thức như ca dao mà chủ yếu tập trung thể hiện nội dung được thông báo. Là

một loại hình tự sự nhưng vè cũng không giống các thể loại truyện dân gian bởi

yếu tố văn vần đã đành, mà còn ở nội dung truyện trong vè không phải là truyện

tưởng tượng hay hư cấu. Vè kể về người thực việc thực [Trần Tùng Chinh, 2002 :

101].

Ông Chu Xuân Diên cho rằng : Nội dung vè kể lại – có kèm theo bình luận

– những sự kiện có tính chất thời sự (gọi là vè thế sự), hoặc những sự kiện lịch sử

(gọi là vè lịch sử). Có thể coi vè đặc biệt là vè thế sự – như một loại “khẩu báo”,

một hình thức báo chí dân gian (được ví như thể kí, thể phóng sự trong văn học

viết và văn học hiện đại sau này) [Chu Xuân Diên, 1998 : 393-404].

Ông Đỗ Bình Trị khi xây dựng khái niệm vè, không dừng lại ở hai tiểu loại

vè nêu trên mà dựa vào nội dung phong phú mà vè đề cập đến để lưu ý thêm có

những bài vè kể về sự vật (gọi là vè trẻ em), có những bài vè kể chuyện về thân

phận con người trong xã hội cũ (gọi là vè than thân) [Trần Tùng Chinh, 2002 :

101].

Đi từ nguồn gốc (từ nguyên), ông Đinh Gia Khánh đưa ra nhận xét là vè có

liên quan đến từ “vần vè” trong dân gian. Theo ông, “vè là lời nói có vần mà tiếng

Việt vốn là một ngôn ngữ giàu thanh điệu. Nhân dân ta trong lời ăn tiếng nói

hằng ngày lại thích dùng những câu nhịp nhàng, đối xứng, thích nói ví von. Cho

nên, bên cạnh lối tự sự bằng văn xuôi đã xuất hiện lối tự sự bằng văn vần. Và đó

là vè” [Đinh Gia Khánh, 1998 : 391]. Ông Lê Chí Quế bổ sung thêm rằng “vè có

cơ sở từ lối nói vần của nhân dân” [Lê Chí Quế, 2001 : 157].

Ngoài ra, những ý kiến, những khái niệm khác hầu hết đều thống nhất với

các định nghĩa nêu trên.

Theo chúng tôi, vè là một thể loại văn vần – tự sự dân gian. Vè ít có tính

chất trữ tình, nội dung vè kể về những người thực, việc thực. Bằng hình thức nôm

na, đơn giản dễ hiểu, vè phản ánh nhanh nhạy, kịp thời những sự vật, sự kiện,

nhân vật, sản vật ở một địa phương nào đó.

Như vậy, có thể thấy rằng, về phương diện khái niệm đồng dao và vè rất

gần gũi với nhau ở tính chất tự sự bằng văn vần, trong đồng dao hiện tượng này

cũng rất phổ biến. Bên cạnh đó, với nội dung phản ánh sự vật của vè cũng là một

nội dung được phản ánh trong đồng dao. Song, giữa vè và đồng dao vẫn có những

điểm khác biệt khá lớn đó là : 1/ Đối tượng hướng tới của vè khác đồng dao, đối

tượng của vè rất rộng không giới hạn tuổi tác, trình độ,…mọi người đều có thể kể

Trần Thị Quí

Trang 14

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

vè, còn ở đồng dao đối tượng là trẻ em, bị hạn chế về trình độ và nhận thức. 2/

Nội dung phản ánh của vè thuộc nhiều phương diện : sinh hoạt xã hội, lịch sử, sự

vật trong khi đó nội dung phản ánh của đồng dao có hình thức vè chỉ giới hạn ở

vè sự vật mà thôi. 3/ Những bài đồng dao có hình thức vè ít có tính chất thời sự.

Bảng so sánh :

+ Giống nhau :

• Cả hai đều là những sáng tác dân gian.

• Đồng dao và vè rất gần gũi với nhau ở tính chất tự sự bằng văn vần,

nội dung phản ánh sự vật của vè cũng là một nội dung được phản ánh trong đồng

dao.

• Ngôn ngữ đồng dao và vè đều giản dị, cô đúc.

+ Khác nhau :

Tiêu chí

Đồng dao

– Đối tượng diễn xướng : – Trẻ nhỏ.

– Không giới hạn.

– Nội dung phản ánh :

– Chỉ giới hạn ở nội

– Thuộc nhiều phương

dung phản ánh sự vật →

diện:

ít có tính thời sự.

sinh hoạt, lịch sử, sự vật,…

→ tính thời sự rất cao.

3/ Đồng dao với câu đố :

– Câu đố : là một thể loại độc đáo của văn học dân gian. Ở đó, vừa có chất

trí tuệ của ngụ ngôn, tục ngữ, vừa có tính chất trữ tình của ca dao dân ca, vừa có

chất dí dỏm hài hước của truyện cười, vè…

Ông Chu Xuân Diên cho rằng, “Câu đố là những sáng tác dân gian, ngắn

gọn, miêu tả sự vật bằng lời nói chệch (nói một đằng hiểu một nẻo)” [Chu Xuân

Diên, 1998 : 257]. Một cách định nghĩa khác thay cách “nói chệch” bằng nói

“nửa kín nửa hở” là của ông Đỗ Bình Trị (SGK Ngữ văn, lớp 10. Tập1. Ban

KHXH). Theo ông, “câu đố là những câu (nói) vần vè, mô tả sự vật, hiện tượng

quen thuộc một cách nửa kín nửa hở thành cái gì khác lạ để…đánh đố người ta,

đòi hỏi người ta đoán ra nó” [Trần Tùng Chinh, 2002 : 70]. Hay theo tác giả

Trần Hoàng (ĐHSP Huế) : “Câu đố là một loại sáng tác nghệ thuật dân gian

ngắn gọn phản ánh các sự vật hiện tượng khách quan bằng một lối nói đặc biệt,

lối nói chệch, lối nói gần với ẩn dụ” [Trần Hoàng, 1995 : 56]. Cách nói “chệch”

hay “nửa kín nửa hở” đó theo ông Lê Chí Quế, “được hình thành từ sự quan sát

những nét tương đồng giữa các sự vật, giữa vật đố với vật được miêu tả, và đó

chính là phương thức khám phá và phản ánh các sự vật, hiện tượng khách quan

bằng những hình tượng nghệ thuật đặc biệt” [Lê Chí Quế, 2001 : 207].

Trần Thị Quí

Trang 15

Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

Câu đố là hình thức sáng tác dân gian có chức năng miêu tả, phản ánh đặc

điểm của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và đời sống xã hội bằng phương

pháp dấu tên và nghệ thuật ẩn dụ đặc biệt (hay phương pháp chuyển hóa – chuyển

cái nọ thành cái kia) để thử tài suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết và mua vui, giải trí.

Thật vậy,“câu đố vừa là nghệ thuật vừa là khoa học (khoa học thường thức

dân gian), câu đố đem lại cho dân gian một loại thức ăn tinh thần đặc biệt, vừa

bổ ích vừa rất thú vị, hấp dẫn” (Hoàng Tiến Tựu) [Hoàng Tiến Tựu, 1998 : 145].

Như vậy, về nội hàm khái niệm ta thấy giữa những bài đồng dao có hình

thức đố giải và câu đố có những điểm tương đồng là : Cả hai đều là những sáng

tác dân gian có chức năng miêu tả, phản ánh đặc điểm sự vật, hiện tượng trong tự

nhiên và đời sống xã hội, đều sử dụng phương pháp dấu tên và ẩn dụ, đều có mục

đích để kiểm tra sự hiểu biết và vui chơi giải trí. Song, điểm khác biệt khá lớn

giữa những bài đồng dao có hình thức đố giải và câu đố là : 1/ Đối tượng hướng

đến : Đối tượng của câu đố rất rộng, không phân biệt tuổi tác, trình độ,…Còn đối

tượng của những bài đồng dao có hình thức đố giải chỉ là trẻ nhỏ, với trình độ và

nhận thức còn hạn chế. 2/ Từ sự khác nhau về đối tượng dẫn đến sự khác biệt về

nội dung đố, từ ngữ được dùng trong câu đố, mức độ khó dễ của câu đố,…

Bảng so sánh :

+ Giống nhau : Cả hai đều là những sáng tác dân gian có chức năng miêu

tả, phản ánh đặc điểm sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và đời sống xã hội, đều sử

dụng phương pháp dấu tên và ẩn dụ, đều có mục đích để kiểm tra sự hiểu biết và

vui chơi giải trí.

+ Khác nhau :

Tiêu chí

Đồng dao

Câu đố

– Đối tượng diễn xướng : – Trẻ nhỏ.

– Không giới hạn.

– Nội dung đố :

– Khá đơn giản.

– Phức tạp.

– Ngôn từ :

– Giản dị.

– Trau chuốt, gọt giũa,

phong phú, nhiều tầng

nghĩa.

Trần Thị Quí

Trang 16