Tiểu luận Xung Đột Pháp Luật theo pháp luật Liên Minh Châu Âu

Rate this post

Download bài tiểu luận Xung Đột Pháp Luật với đề tài Giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật của Liên Minh Châu Âu và bài học kinh nghiệp cho tư pháp quốc tế Việt Nam. Bài tiểu luận được Luận Văn Luật biên soạn qua nội dung cơ bản, hi vọng giúp ích cho các bạn sinh viên khi cần tài liệu tham khảo nhé, mọi thắc ,mắc hay cần hỗ trợ các bạn có thể liên hệ với Dịch Vụ Viết Thuê Tiểu Luận của Luận Văn Luật.

Phần Mở Đầu  – Tiểu luận xung đột pháp luật theo pháp luật Liên Minh Châu Â

1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ, có quan hệ tín dụng tài chính với hơn 200 tổ chức quốc tế và diễn đàn quốc tế. “Trong bối cảnh đó, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài ngày càng gia tăng, nhất là các quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Tình hình đó tất yếu sẽ kéo theo những hậu quả làm phát sinh các vụ tranh chấp có liên quan đến hợp đồng đòi hỏi pháp luật phải kịp thời giải quyết. Khác với việc giải quyết các quan hệ hợp đồng thông thường, việc giải quyết hợp đồng có yếu tố nước ngoài thường liên quan đến nguyên tắc chọn luật áp dụng vì nó xảy ra hiện tượng xung đột pháp luật, do một quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài sẽ chịu sự điều chỉnh của ít nhất hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới là không hoàn toàn giống nhau xuất phát từ những đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội khác nhau. Dựa trên học thuyết của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, trước sự phát triển không ngừng của nền kinh tế đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi theo để bắt kịp sự phát triển mạnh mẽ đó. Bộ luật Dân sự 2005 – cơ sở pháp lý quan trọng nhất trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hợp đồng có yếu tố nước ngoài đã trải qua gần 10 năm áp dụng trên thực tiễn. Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ đáng kể so với Bộ luật Dân sự trước đó về việc điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, tuy nhiên trong quá trình áp dụng trên thực tiễn, Bộ luật Dân sự 2005 đã bắt đầu bộc lộ những bất cập gây khó khăn cho việc áp dụng cũng như có nhiều quy định đã trở nên lỗi thời không còn phù hợp với thực tiễn.

Trước tình hình này, tại kỳ họp thứ 8 khóa XIII năm 2014, Quốc hội đã cho ý kiến về dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự 2005. Kết quả là sự ra đời của Bộ luật Dân sự 2015 sau khi được Quốc hội thông qua vào ngày 24 tháng 11 năm 2015 và chính thức có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 2017”. “Trong quá trình áp dụng đã có những kết quả quan trọng tuy nhiên, việc tham khảo các quy định của pháp luật về vấn đề này của một số quốc gia trên thế giới được trở nên cần thiết hơn bao giờ hết”. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài tiểu luận Xung Đột Pháp Luật “Giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật của Liên Minh Châu Âu và bài học kinh nghiệp cho tư pháp quốc tế Việt Nam” làm đề tài tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

2. Tình hình nghiên cứu đề tài tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

Ở nước ta, vấn đề giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật Liên Minh Châu Âu không phải là một đề tài mới, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này. Cụ thể:

+ Đỗ Văn Đại, Mai Hồng Quỳ (2006), Tư pháp Quốc tế Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

+ Đỗ Văn Đại (2013), “Quyền lựa chọn pháp luật trong Tư pháp quốc tế”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp.

+ Lê Thị Nam Giang (2011), Tư pháp Quốc tế, NXB Đại học quốc gia TP.Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.

+ Trần Minh Ngọc (2015), “Góp phần hoàn thiện Phần 5 Bộ luật Dân sự (sửa đổi) về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Luật học. Tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

+ Vũ Thị Hương, Lê Hồng Sơn (2015), “Hình thức và thời điểm thỏa thuận chọn pháp luật áp dụng của các bên trong Tư pháp quốc tế Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp.

+ Nguyễn Lê Hoài (2015), Hoàn thiện các quy định của Tư pháp quốc tế Việt Nam về hợp đồng – Kinh nghiệm từ pháp luật của một số nước, Luận văn thạc sĩ.

+ Bành Quốc Tuấn (2012), “Hoàn thiện quy định về quyền thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng yếu tố nước ngoài”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (121, 122).

+ Bùi Thị Thu (2015), “Bàn về khái niệm “Luật có mối quan hệ mật thiết nhất” trong quan hệ hợp đồng”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (8/2015).

  1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

Việc nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích: “(i) phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật Liên Minh Châu Âu; (ii) so sánh quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật Liên minh châu Âu về giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật Liên Minh Châu Âu; (iii) đánh giá những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015 so với Bộ luật Dân sự 2005 về giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật Liên Minh Châu Âu; (iv) định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật Liên Minh Châu Âu trong tương lai”.

  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật Liên Minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật có thể xảy ra ở rất nhiều khía cạnh như tư cách pháp lý của chủ thể, hình thức hợp đồng, nội dung hợp đồng…Tuy nhiên, trong đề tài này, chỉ giới hạn nghiên cứu xung đột pháp luật về nội dung hợp đồng trên cơ sở phân tích các quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và pháp luật Liên minh châu Âu cũng như những thay đổi trong Bộ luật Dân sự 2015 cùng với các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan.

  1. Phương pháp nghiên cứu.

“Trong quá trình nghiên cứu, để có thể đưa ra được những nhận định, kết quả đúng đắn mang tính khoa học đòi hỏi phải kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh – đối chiếu, phương pháp nghiên cứu lịch sử…để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.

  1.  Kết cấu đề tài tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

Đề tài gồm 2 chương:

Chương 1: Lý luận chung về xung đột pháp luật

Chương 2: Giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật Liên Minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Chương 1 Lý Luận Chung Về Xung Đột Pháp Luật

1.1. Lý luận về xung đột pháp luật

* Khái niệm “xung đột pháp luật”

Hiện nay, cùng với yêu cầu về hội nhập và phát triển kinh tế quốc tế thì việc hình thành các mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, sự gia tăng lưu thông hàng hóa khiến các quan hệ mua bán hàng hóa ngày càng phát triển. “Việc hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến các quan hệ pháp luật ngày càng phát triển và không còn bị giới hạn trong phạm vi Việt Nam mà còn liên quan đến nhiều hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia khác nhau và các quan hệ pháp luật phát sinh không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam mà còn chịu sự điều chỉnh của hai hay nhiều quốc gia khác nhau. Do đó, dẫn đến hiện tượng XĐPL giữa các bên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng”.

Trước hết, chúng ta cần làm rõ thuật ngữ “xung đột pháp luật” được hiểu như thế nào? Thuật ngữ “xung đột pháp luật” được hiểu theo nghĩa thông thường là các quy định mâu thuẫn, không thống nhất giữa các văn bản pháp luật khác nhau trong việc giải quyết một vấn đề nào đấy. “Tuy nhiên, khái niệm xung đột pháp luật (conflict of laws) trong tư pháp quốc tế lại được hiểu theo ý nghĩa hoàn toàn khác. Thuật ngữ này thuộc chuyên ngành tư pháp quốc tế được sử dụng ở một quốc gia với mục đích dùng để giải quyết các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài”. Theo định nghĩa trong Giáo trình Tư pháp Quốc tế của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội do PGS.TS. Nguyễn Bá Diến định nghĩa thì “Xung đột pháp luật là hiện tượng có hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng tham gia điều chỉnh một quan hệ Tư pháp Quốc tế cụ thể và giữa các hệ thống pháp luật này có sự khác biệt về các quy định khi giải quyết vấn đề” “Theo định nghĩa của Giáo trình Tư pháp quốc tế trường Đại học Luật Hà Nội thì: Xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ pháp luật này hay quan hệ pháp luật khác”. “Theo định nghĩa của Giáo trình Luật Tư pháp quốc tế của Bùi Thị Thu thì xung đột pháp luật là một tình huống pháp lý hoặc một quan hệ pháp lý khi phát sinh có thể chịu sự điều chỉnh của hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau”. Tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

Tóm lại, từ các định nghĩa trên ta có thể nhận thấy XĐPL xảy ra khi có từ hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng điều chỉnh một quan hệ pháp luật và quan hệ pháp luật này là quan hệ có yếu tố nước ngoài.

1.2. Phương pháp giải quyết xung đột pháp luật

1.3. Các hệ thuộc luật cơ bản

Chương 2 Giải Quyết Xung Đột Pháp Luật Theo Pháp Luật Liên Minh Châu Âu Và Bài Học Kinh Nghiệm Cho Việt Nam

2.1. Giải quyết xung đột pháp luật theo pháp luật Liên Minh Châu ÂU

“Tư pháp quốc tế Liên minh châu Âu là tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật do Liên minh châu Âu xây dựng và ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có hiệu lực áp dụng thống nhất và trực tiếp đối với các thể nhân, quốc gia thành viên và các cơ quan, thiết chế của Liên minh châu Âu. Xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài.Liên quan đến những quy định về cách xác định pháp luật áp dụng đối với quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài, phải kể đến Quy định Rome I”.

Theo Quy định Rome I, pháp luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài được xác định trong hai trường hợp cụ thể. “(i) Trường hợp thứ nhất là khi các bên trong quan hệ thỏa thuận lựa chọn pháp luật để áp dụng; (ii) Trường hợp thứ hai là khi các bên trong quan hệ không lựa chọn pháp luật để điều chỉnh quan hệ của mình. Trong trường hợp thứ hai này, pháp luật nước ngoài sẽ được áp dụng theo sự dẫn chiếu của các quy phạm pháp luật xung đột”.

Thứ nhất, khi các bên trong quan hệ thỏa thuận lựa chọn pháp luật để áp dụng

* Pháp luật của Liên minh châu Âu: “Với cách quy định của Quy định Rome I, nguyên tắc đầu tiên để xác định pháp luật áp dụng cho hợp đồng đó là nguyên tắc tự do thỏa thuận chọn luật của các bên trong hợp đồng. Điều này được thể hiện ngay ở tên gọi của Điều 3 “Quyền tự do lựa chọn”. Theo đó, điều luật này khẳng định: “Một hợp đồng sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật do các bên lựa chọn”. Rất nhiều bình luận đã khẳng định đây là nguyên tắc nền tảng, là trọng tâm của Quy định Rome I, để xây dựng khung pháp lý điều chỉnh cho các hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Nguyên tắc này được kế thừa từ các quy định trong pháp luật Anh, cũng như Công ước Rome 1980 và nó được áp dụng rất phổ biến trong nhiều án lệ của Tòa án Anh”. Tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

“Bên cạnh đó, Điều 3 cũng đưa ra những quy định chi tiết liên quan đến việc lựa chọn pháp luật của các bên. Theo đó, các bên có thể thể hiện sự thỏa thuận của mình bằng một điều khoản rõ ràng trong hợp đồng hoặc các bên cũng có thể thỏa thuận ngầm với nhau theo từng trường hợp cụ thể. Tòa án khi xét xử vụ việc sẽ có thể chấp nhận sự thoả thuận ngầm này nếu như nó có thể được chứng minh thông qua những điều khoản trong hợp đồng hoặc bằng các tình tiết của vụ việc. Đây là một quy định khá hay của Quy định Rome I và phù hợp với thực tiễn các giao dịch liên quan đến hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Bởi lẽ không phải trong trường hợp nào các bên trong hợp đồng cũng thể hiện minh bạch, cụ thể việc lựa chọn pháp luật cho hợp đồng của mình. Và với cách quy định “thoáng” như vậy, thêm một lần nữa Quy định khẳng định mục tiêu đề cao nguyên tắc tự do trong việc lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng của các bên”.

“Về thời điểm chọn luật áp dụng, Quy định Rome I cho phép các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận và thay đổi sự thỏa thuận của mình bằng một hệ thống pháp luật khác vào bất kỳ thời điểm nào. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp các bên có sự thay đổi sự lựa chọn luật áp dụng khác với hệ thống pháp luật ban đầu sau khi hợp đồng đã được ký kết thì sự thay đổi đó chỉ được chấp nhận khi thỏa mãn điều kiện không làm phương hại đến hiệu lực về hình thức của hợp đồng hoặc không gây ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của bên thứ ba”.

“Quy định Rome I cũng không giới hạn phạm vi áp dụng của luật do các bên lựa chọn để điều chỉnh hợp đồng. Điều này được hiểu là luật do các bên lựa chọn sẽ được áp dụng để điều chỉnh tất cả các vấn đề liên quan đến việc giải thích hợp đồng, thực hiện hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, hệ quả của việc vi phạm hợp đồng… Bên cạnh đó, hiệu lực về hình thức của hợp đồng cũng được điều chỉnh bởi luật do các bên lựa chọn. Tuy nhiên, bên cạnh việc thừa nhận quyền tự do của các bên tham gia quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong việc chọn luật điều chỉnh hợp đồng, Quy định Rome I cũng đưa ra những quy định hạn chế quyền tự do thoả thuận chọn luật của các bên trong những trường hợp nhất định”.

Thứ nhất, việc thoả thuận chọn luật của các bên không được ảnh hưởng đến việc áp dụng các “quy phạm bắt buộc”. “Các quy phạm pháp luật bắt buộc là những quy phạm được xem là vô cùng quan trọng đối với một quốc gia nhằm bảo vệ những lợi ích công của quốc gia đó, chẳng hạn như những quy định liên quan đến tổ chức chính trị, xã hội hay kinh tế của quốc gia. Những quy định này sẽ được áp dụng trong mọi tình huống thuộc phạm vi điều chỉnh của nó, không ngoại trừ pháp luật nào khác áp dụng cho hợp đồng theo quy định của Quy định Rome I. Sẽ không có quy định nào trong Quy định này có thể hạn chế việc áp dụng các quy phạm pháp luật bắt buộc của nước có Tòa án giải quyết vụ việc. Theo Quy định Rome I, sự thoả thuận chọn luật của các bên sẽ có thể bị từ chối nếu nó ảnh hưởng đến những quy phạm pháp luật bắt buộc trong pháp luật của nước có Tòa án hoặc pháp luật của nước có mối liên hệ chặt chẽ với hợp đồng, cụ thể đây có thể là quốc gia nơi các bên thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Trên thực tế đã có một số phán quyết do các Tòa án của các nước thành viên Liên minh châu Âu đưa ra liên quan đến việc áp dụng các quy phạm pháp luật bắt buộc”.

Thứ hai, việc thỏa thuận chọn luật của các bên không được trái với trật tự công cộng của quốc gia có Toà án xét xử vụ việc. “Cho đến thời điểm hiện nay, các học giả ghi nhận không nhiều những vụ việc thực tiễn liên quan trực tiếp đến các phán quyết của Tòa án các nước châu Âu về bảo lưu trật tự công cộng trong các hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Tuy nhiên, có thể xem qua một vụ việc đã được ECJ giải quyết, như một điển hình cho việc gián tiếp áp dụng bảo lưu trật tự công cộng. Trong vụ tranh chấp giữa Ingmar GB Ltd. (được thành lập tại Anh) và Eaton Leonard Technologies Inc. (được thành lập tại California), ECJ đã đưa ra phán quyết cho một điều khoản chọn luật áp dụng áp dụng cho hợp đồng đại lý giữa hai công ty nói trên. Theo thỏa thuận hợp đồng, bên đại lý (Ingmar GB) sẽ thực hiện các hoạt động thương mại tại châu Âu và luật áp dụng cho hợp đồng này là luật của California (Hoa Kỳ). Tuy nhiên theo ECJ thì thỏa thuận này của các bên có khả năng vi phạm những tiêu chuẩn được đưa ra bởi Chỉ thị của Hội đồng (EEC) số 86/653 về việc áp dụng pháp luật của các nước thành viên châu Âu liên quan đến hoạt động của các đại lý tại các nước thành viên châu Âu. Và ECJ đã quyết định Chỉ thị nói trên sẽ phải được áp dụng khi đại lý thương mại tiến hành hoạt động của mình tại châu Âu mặc dù bên giao đại lý được thành lập tại một nước không phải thành viên của Liên minh châu Âu và hai bên đã có thỏa thuận chọn luật áp dụng. Phán quyết này của ECJ được xem là đã áp dụng bảo lưu trật tự công cộng trong trường hợp này”. Tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

* Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật

“Trong các trường hợp khi các bên không có thoả thuận chọn luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài thì vẫn có thể xác định được áp dụng theo sự chỉ dẫn của các quy phạm pháp luật xung đột trong từng trường hợp cụ thể, được quy định tại Điều 4, Điều 5 của Quy định Rome I. Theo đó, tại khoản 1, Điều 4 Quy định đưa ra những nguyên tắc chung để xác định pháp luật áp dụng, căn cứ theo từng loại hợp đồng”, như sau: (i) Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa được điều chỉnh bởi pháp luật của quốc gia nơi cư trú thường xuyên của bên bán.(ii) Đối với hợp đồng cung cấp dịch vụ được điều chỉnh bởi pháp luật của quốc gia nơi cư trú thường xuyên của bên cung cấp dịch vụ.(iii) Đối với hợp đồng nhượng quyền thương mại sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi cư trú thường xuyên của bên nhượng quyền.(iv) Đối với hợp đồng phân phối sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật của nước nơi cư trú thường xuyên của nhà phân phối.(v) Mặc dù những quy định trên đã liệt kê khá nhiều các nguyên tắc áp dụng pháp luật cho từng loại hợp đồng cụ thể nhưng nhằm mục đích xây dựng một khung pháp lý linh hoạt, thích ứng với mọi tình huống phát sinh trên thực tế, Điều 4 tiếp tục đưa ra những nguyên tắc thay thế mang tính khái quát”: “Nếu một hợp đồng không thể xác định được luật áp dụng theo các trường hợp trên hoặc các yếu tố trong hợp đồng phù hợp với nhiều căn cứ quy định tại khoản 1 thì pháp luật được áp dụng cho nghĩa vụ trong hợp đồng là pháp luật nơi cư trú thường xuyên của bên phải thực hiện nghĩa vụ”. Đây là một cách quy định rất hay, bao quát mọi trường hợp phát sinh trên thực tiễn, giúp các bên tham gia quan hệ hợp đồng có yếu tố nước ngoài lẫn các cơ quan có thẩm quyền có cơ chế để xác định pháp luật cho hợp đồng trong tất cả các bối cảnh thực tế.Tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

“ Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 4 của Quy định tiếp tục đưa ra thêm nguyên tắc xác định pháp luật thay thế khác, được xem là thể hiện rõ “mối quan hệ gắn bó nhất” với hợp đồng: “Khi xác định rõ ràng rằng các yếu tố liên quan đến hợp đồng có mối quan hệ mật thiết với một quốc gia khác không phải là quốc gia được xác định ở trên thì pháp luật được áp dụng cho hợp đồng là pháp luật của quốc gia có mối liên hệ mật thiết đó”.

“Nhìn chung, nguyên tắc xác định pháp luật áp dụng cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài trong trường hợp thiếu vắng sự thoả thuận chọn luật của các bên được nêu tại Điều 4 được xây dựng dựa trên nền tảng tìm kiếm pháp luật có mối liên hệ gắn bó với hợp đồng. Yếu tố mối liên hệ gắn bó được xác định dựa vào nơi cư trú thường xuyên của bên phải thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng hoặc nơi thực hiện hành vi hoặc nơi có tài sản tùy vào từng loại hợp đồng cụ thể. Việc xác định nơi cư trú thường xuyên căn cứ vào Điều 19 của Quy định, nếu như chủ thể của hợp đồng là doanh nghiệp hay tổ chức khác, có hay không có tư cách pháp nhân thì nơi cư trú thường xuyên được hiểu là nơi có cơ quan quản lý chính, nơi thường trú của cá nhân hoạt động kinh doanh là nơi người đó tiến hành hoạt động kinh doanh chủ yếu. Nếu hợp đồng được ký kết bởi một chi nhánh, đại lý hay là một cơ sở kinh doanh khác mà theo đó việc thực hiện hợp đồng là nghĩa vụ của chi nhánh, đại lý hay cơ sở kinh doanh khác thì nơi cư trú thường xuyên được hiểu là nơi cư ngụ của chi nhánh, đại lý hay cơ sở kinh doanh đó. Trong tất cả các trường hợp trên, thời điểm để xác định nơi cư trú thường xuyên là thời điểm hợp đồng được ký kết”. Tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

“ Bên cạnh những nguyên tắc chung để xác định pháp luật áp dụng cho các loại hợp đồng thì Quy định Rome I cũng đưa ra những quy định cụ thể hơn cho một số loại hợp đồng đặc thù. Có thể kể đến như quy định dành cho loại hợp đồng vận chuyển. Đối với hợp đồng vận chuyển hàng hóa, pháp luật áp dụng sẽ là pháp luật của nước nơi thường trú của bên vận chuyển, miễn sao nơi nhận hoặc là nơi giao hàng hoặc nơi cư trú thường xuyên của bên được vận chuyển nằm trên quốc gia đó, nếu không đáp ứng được tiêu chí trên thì pháp luật của nước nơi giao hàng do các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Đối với hợp đồng vận chuyển hành khách, pháp luật được áp dụng là pháp luật của nước nơi thường trú của bên được vận chuyển miễn sao hoặc là nơi đến hoặc nơi đi được xác định là ở tại quốc gia đó, trong trường hợp các yêu cầu trên không thoả mãn thì pháp luật của nước nơi thường trú của bên vận chuyển sẽ được áp dụng”. Trong trường hợp xác định pháp luật cho hợp đồng có yếu tố nước ngoài theo các nguyên tắc xung đột được phân tích ở trên, pháp luật nước ngoài sẽ chỉ được áp dụng nếu không trái với trật tự công cộng của quốc gia có Tòa án và không rơi vào trường hợp phải áp dụng các quy phạm pháp luật bắt buộc.

2.2.Pháp luật Việt Nam về giải quyết xung đột pháp luật và bài học kinh nghiệm

* Thỏa thuận chọn luật của các bên trong hợp đồng

 Kết Luận Tiểu luận xung đột pháp luật theo pháp luật Liên Minh Châu Âu

Hoạt động giải quyết xung đột pháp luật nói riêng là một trong nhiều chế định của pháp luật về nước ngoài, có giá trị đặc biệt quan trọng đối với hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế – xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Hoàn thiện pháp luật giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yếu tố nước ngoài là yêu cầu khách quan, xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn khi Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như WTO, ASEAN và đang đàm phán để gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Vì vậy, nghiên cứu để hoàn thiện giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng có yêu tố nước ngoài cần được tiến hành một cách toàn diện không chỉ hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng ngoài ra còn phải hoàn thiện các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng như hình thức hợp đồng, nội dung hợp đồng và năng lực chủ thể khi tiến hành giao kết hợp đồng.

Đề tài tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề tài tiểu luận Xung Đột Pháp Luật

  1. Nguyễn Bá Chiến (2008), Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật xung đột ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
  2. Trần Thị Hòa Bình, Trần Văn Nam (2005), Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội
  3. Nguyễn Bá Diến (2015) (Chủ biên), Giáo trình Tư pháp Quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
  4. Nguyễn Thị Hồng Trinh (2010), “Nguyên tắc tự do chọn luật hợp đồng từ công ước Rome 1980 đến quy tắc Rome I và nhìn về Việt Nam”, Nghiên cứu Lập pháp, Số 6(167), T3/2010, tr. 32-39
  5. Nguyễn Ngọc Tú Loan (2009), Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  6. Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ, Dương Anh Sơn (2006), Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
  7. Trần Thị Thu Phương (2013), “Áp dụng điều ước quốc tế trên lãnh thổ Việt Nam”, Tạp chí Luật học, Số 2/2013, tr. 64-72.
  8. Phạm Thành Tài (2011), Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam trong mối tương quan so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  9. Đỗ Viết Anh Thái (2012), “Giải quyết tranh chấp về đầu tư giữa chính phủ và nhà đầu tư nước ngoài”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 4/2012, tr. 50-54. Tiểu luận Xung Đột Pháp Luật
  10. Trần Thị Hồng Thu (2011), Thực trạng và hoàn thiện Pháp luật về địa vị pháp lý của người nước ngoài tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  11. Vũ Khắc Thư (2009), Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 2005 và các quy định của
  12. Pháp luật quốc tế, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  13. Nguyễn Trung Tín (2013), “Mấy ý kiến về phần quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trong Bộ luật Dân sự 2005”, Nghiên cứu Lập pháp, Số 23/2013, tr. 20 – 26
  14. Đinh Văn Thanh (chủ biên), Phạm Văn Tuyết, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Quyển 2, tr. 304-332, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

adminlvl