Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới VN- TQ
Rate this post
Download bài mẫu Tiểu Luận Học Phần Công Pháp Quốc Tế Phân Tích Thực Tiễn Xác Định Biên Giới Trên Bộ Việt Nam – Trung Quốc, bài làm viết vào năm 2022, mang tính cập nhật thời sự tình hình biên giới VN-TQ, dịch vụ viết thuê tiểu luận luật gửi tới các bạn sinh viên tham khảo khi làm bài Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế của mình.
I. Mở đầu Tiểu Luận Học Phần Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới Trên Bộ Việt Nam – Trung Quốc
Biên giới quốc gia là một vấn đề quan trọng hàng đầu của bất cứ quốc gia nào. Đường biên giới của mỗi quốc gia là cơ sở để phân chia lãnh thổ của các quốc gia với nhau. Tuy nhiên, hiện nay vẫn xảy ra tranh chấp giữa các quốc gia láng giềng về đường biên giới, đặc biệt là biên giới trên bộ. Chính vì thế, vấn đề hoàn thiện đường biên giới trên bộ luôn được các quốc gia hết sức quan tâm. Bởi đó là cơ sở vật chất của quốc gia có giá trị thiêng liêng và bất biến. Cùng với đó, lãnh thổ quốc gia đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong mối quan hệ của quốc gia, góp phần tạo dựng và thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các nước láng giềng, trật tự pháp lý quốc tế, hòa bình và ổn định
Theo cổng thông tin điện tử quốc gia, Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương , khu vực Đông Nam Á, ven biển Thái Bình Dương. Nước ta có đường biên giới trên bộ với các quốc gia như Trung Quốc, Lào, Campuchia. Trong đó đường biên giới tiếp giáp với Trung Quốc ở phía bắc dài gần 4550 km. Nhận thức được vấn đề phân định biên giới giữa hai nước. Qua nhiều lần thương lượng, trên cơ sở hợp tác hữu nghị, tôn trọng chủ quyền của quốc gia Trung Quốc và Việt Nam đã ký kết phân định đường biên giới.
Có thể thấy việc tìm hiểu, phân tích thực tiễn xác định biên giới trên bộ Việt Nam – Trung Quốc là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì thể sinh viên chọn chủ đề này làm tiểu luận môn học Công pháp quốc tế.Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới
II. Nội Dung Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới Trên Bộ Việt Nam – Trung Quốc
1. Những vấn đề lý luận về biên giới trên bộ
1.1. Khái niệm biên giới trên bộ
Phụ thuộc vào vị trí địa lý của mỗi quốc gia mà cấu trúc lãnh thổ của chúng hoàn toàn không giống nhau, từ đó dẫn đến việc biên giới của mỗi nước có những đặc thù riêng biệt. Về nguyên tắc, mỗi bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc gia sẽ có các loại hình biên giới quốc gia tương ứng. Biên giới quốc gia là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó được đánh dấu trên bản đồ và bằng cột mốc trên thực địa để xác định giới hạn lãnh thổ quốc gia (vùng đất, vùng nước, vùng trời và vùng lòng đất). Khoản 1 điều 3 Nghị định 140/2004/NĐ – CP quy định: “Biên giới quốc gia của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Thực tiễn quan hệ quốc tế về biên giới quốc gia tồn tại loại hình biên giới tự nhiên (biên giới thiên nhiên) và biên giới nhân tạo. Biên giới tự nhiên là đường biên giới được xác định dựa theo các điều kiện tự nhiên sẵn có của thiên nhiên, của địa hình như: sông, hồ, núi … Đây là loại hình biên giới thường được áp dụng cho biên giới trên bộ. Biên giới nhân tạo gồm biên giới hình học và biên giới thiên văn. Dựa trên cơ sở cấu trưc lãnh thổ, quốc gia có các bộ phận biên giới đó là: biên giới trên bộ, biên giới trên biển, biên giới vùng trời, biên giới trong lòng đất. Biên giới quốc gia đóng vai trò là đường phân định một cách rõ ràng, chính xác lãnh thổ quốc gia với các vùng khác không thuộc lãnh thổ quốc gia. Biên giới gắn liền với sự tồn tại của quốc gia, là điều kiện cho an ninh quốc gia và là quyền lợi cơ bản của quốc gia. Sự ổn định của biên giới quốc gia là điều kiện đảm bảo cho hòa bình và an ninh quốc tế. Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới
Trong đó biên giới trên bộ theo Nghị định 140/2004/NĐ – CP: “Biên giới quốc gia trên đất liền giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nước láng giềng được xác định bằng hệ thống mốc quốc giới, Hiệp ước về hoạch định biên giới giữa Việt Nam với các nước láng giềng cùng các bản đồ, Nghị định thư kèm theo các Hiệp ước đó[1]”.
Theo tài liệu của Trung tâm Đào tạo E – learing: “Biên giới trên bộ bao gồm biên giới trên đất liền, trên sông, hồ… trong đó hình thành sớm nhất và cũng có vai trò quan trọng nhất là biên giới trên đất liền. Xuất phát từ thực tiễn quan hệ quốc tế, biên giới trên đất liền thường được xác định trên cơ sở thoả thuận giữa các quốc gia có liên quan và được ghi nhận trong điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương về các vấn đề biên giới”.[2] Hiện nay, có rất ít các quy định chung của luật quốc tê liên quan đến việc hoạch định biên giới quốc gia trên bộ. Về nguyên tắc các quốc gia tự thỏa thuận với nhau để xác định biên giới trên bộ.
1.2. Xác định biên giới trên bộ
Xác định biên giới quốc gia trên bộ gồm hai giai đoạn:
– Hoạch định biên giới quốc gia
Đây là giai đoạn xác định biên giới của một quốc gia trên văn bản và bản đồ. Dựa trên cơ sở đàm phán, các bên có liên quan tiến hành thương lượng và thống nhất xác định vị trí các tọa độ, hướng đi của đường biên giới. Trong thực tiễn quốc tế về hoạch định biên giới, các quốc gia có thể thoả thuận lựa chọn các nguyên tắc hoạch định như: Hoạch định biên giới quốc gia mới; Kế thừa điều ước quốc tế về biên giới quốc gia; Sử dụng đường ranh giới hành chính đã tồn tại (Utipossidetis). Đây là giai đoạn chủ yếu mang tính lý thuyết, trong đó việc quan trọng nhất là các quốc gia hữu quan phải cùng nhau thoả thuận xác định đường biên giới trên văn bản điều ước, kèm theo các tài liệu cần thiết và bản đồ mô tả chi tiết đường biên giới. Phải đưa ra được các nguyên tắc làm cơ sở cho việc xác định biên giới quốc. Các điểm được lựa chọn để xác định vị trí, hướng đi của đường biên giới phải rõ ràng, tránh mơ hồ hay gây khó dễ, gây tranh chấp trong quá trình phân giới, cắm mốc sau này Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới
Kết thúc việc hoạch định biên giới, các bên sẽ ký kết điều ước quốc tế về hoạch định biên giới quốc gia.
– Phân giới thực địa và cắm mốc quốc giới
+ Giai đoạn phân giới thực địa là giai đoạn thực địa hóa đường biên giới trên hiệp định.
+ Giai đoạn cắm mốc: tiến hành cắm cột mốc lên những điểm đã được xác định. Sau khi hoàn tất các giai đoạn trên, các bên phải vẽ lại toàn bộ sơ đồ, vị trí tọa độ của các cột mốc
+ Một số trường hợp xác định biên giới quốc gia trên bộ đó là
* Xác định đường biên giới theo sống núi
* Xác định đường biên giới theo đường chân núi
* Biên giới trên sông:
+ Đối với sông không sử dụng cho giao thông đường thủy: thường là đường trung tuyến của con sông.
+ Đối với sông sử dụng cho giao thông đường thuỷ: thường xác định theo dòng chảy của con sông (hay còn gọi là đáy lũng), nghĩa là theo điểm giữa dòng nước nơi tàu thuyền có thể đi lại được.
+ Nếu sông có nhiều nhánh: xác định đường biên giới trên nhánh chính.
+ Đối với sông có cầu bắc ngang: thường xác định đường biên giới trên cầu nằm ở chính giữa cầu.
* Xác định biên giới trên hồ
+ Trong trường hợp các quốc gia cùng giáp nhau ở một hồ biên giới, các bên sẽ thoả thuận xác định tâm của hồ, sau đó nối các điểm biên giới trên bờ hồ của các quốc gia qua tâm của hồ để phân chia vùng hồ thuộc chủ quyền của mỗi bên.
Đây là hoạt động được thực hiện trên thực địa của quá trình thiết lập biên giới quốc gia. Để thực hiện các công việc của giai đoạn này, các quốc gia hữu quan sẽ cùng nhau thành lập một ủy ban chuyên môn bao gồm đại diện của các bên. Đường biên giới trên bản đồ của giai đoạn trước sẽ được thực địa hóa trong giai đoạn phân giới và cắm mốc quốc gia
2. Giới thiệu một số văn kiện liên quan đến biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế
Đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc, tiếp giáp giữa 7 tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với tỉnh Vân Nam và khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc được pháp lý hóa lần đầu tiên bằng hai Công ước Pháp – Thanh 1887 và 1895.
– Nghị định thư phân giới cắm mốc là văn kiện dày 450 trang với trên 2.200 trang Phụ lục kèm theo bao gồm: bộ bản đồ địa hình khu vực biên giới Việt – Trung; tập “Bảng đăng ký mốc giới, tập “Bảng tọa độ, độ cao mốc giới” và tập “Bảng quy thuộc các cồn, bãi trên sông suối biên giới”. Nghị định thư mô tả chi tiết hướng đi của toàn bộ đường biên giới, các chi tiết tọa độ cũng như độ cao của từng cột mốc trên biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc. Mỗi đoạn biên giới và mỗi mốc giới có 1 bộ hồ sơ riêng bao gồm lời văn mô tả, sơ đồ tọa độ và bản đồ[3].
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam – Trung Quốc từng đoạn biên giới, từng cột mốc biên giới giữa hai nước được thể hiện một cách rõ ràng nhất không chỉ bằng lời văn mà cả trên các sơ đồ và bản đồ, giúp cho mỗi người dân đều có thể dễ dàng nhận biết được đường biên giới. Trên cơ sở của Nghị định thư phân giới cắm mốc ta có thể áp dụng những phương pháp quản lý hiện đại, kể cả áp dụng kỹ thuật số trong công tác quản lý biên giới, tạo điều kiện cho các cán bộ trực tiếp làm công tác biên giới thực thi nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả nhất.
– Hiệp định về quy chế quản lý biên giới quy định rõ những nội dung công việc cụ thể của các ngành chức năng trong việc quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng, nguồn nước sông suối biên giới; các quy định về sự qua lại biên giới của người, phương tiện và hàng hóa; quy chế phối hợp trong việc duy trì, bảo đảm an ninh, trật tự trên vùng biên giới. Kèm theo Hiệp định còn có 18 Phụ lục quy định về các loại mẫu giấy tờ trao đổi giữa hai bên trong quá trình xử lý các công việc trên vùng biên giới hai nước. Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới
Hiệp định về quy chế quản lý biên giới sẽ thay thế Hiệp định tạm thời về giải quyết các công việc trên vùng biên giới Việt – Trung ký giữa Chính phủ hai nước năm 1991. Hiệp định quản lý biên giới vừa ký đã bổ sung nhiều nội dung chi tiết hơn, đồng thời nêu ra các nguyên tắc và biện pháp cụ thể trong việc giải quyết từng vấn đề liên quan đến đất liền Việt – Trung, kể cả những vấn đề nảy sinh như: các biện pháp giải quyết vấn đề xuất nhập cảnh trái phép; các nguyên tắc về xây dựng các công trình ở vùng nước biên giới, vùng biên giới hay sửa chữa, khôi phục (mốc giới…). Hiệp định quy định, hai bên thỏa thuận thành lập Ủy ban liên hợp biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc để phối hợp, đôn đốc, giám sát việc triển khai công tác quản lý biên giới; thỏa thuận mỗi bên cử 8 người đại diện phụ trách công tác quản lý ở từng đoạn biên giới… Đây là nội dung hoàn toàn mới so với Hiệp định tạm thời 1991[4].
– Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu trước đây, nội dung các vấn đề liên quan đến cửa khẩu được nêu trong Hiệp định tạm thời về giải quyết các công việc trên vùng biên giới ký năm 1991. Nay, để tạo thuận lợi cho việc quản lý và xử lý các công việc liên quan đến sự qua lại tại các cửa khẩu giữa hai nước, ta và Trung Quốc đã xây dựng một Hiệp định riêng về các vấn đề liên quan đến cửa khẩu trên biên giới Việt – Trung. Điều này phù hợp với luật pháp quốc tế cũng như thực tiễn và thông lệ quốc tế hiện nay.[5]
Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu quy định danh mục 9 cặp cửa khẩu đã mở và 13 cửa khẩu dự kiến sẽ mở trong tương lai; quy định về thời gian làm việc của các cặp cửa khẩu, việc người, phương tiện và hàng hóa qua lại cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc; quy định về quy trình, thủ tục mở các cặp cửa khẩu mới. Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới
Tại điều 2 Hiệp định về quy chế quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: “Đường biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được xác định theo các văn kiện sau:
- “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” ký ngày 30 tháng 12 năm 1999;
- “Hiệp định giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ” ký ngày 25 tháng 12 năm 2000;
- “Hiệp ước về xác định giao điểm đường biên giới giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” ký ngày 10 tháng 10 năm 2006;
- “Nghị định thư phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” ký ngày tháng năm 2009;
- Các văn kiện kiểm tra liên hợp có hiệu lực do hai Bên ký kết”.
Tóm lại, 3 văn kiện nêu trên cùng với Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc năm 1999 là bộ hồ sơ hoàn chỉnh nhất về đường biên giới đất liền Việt – Trung. Với bộ hồ sơ này, đường biên giới trên đất liền Việt Nam -– Trung Quốc đã được xác định rõ ràng, chính xác và thuận tiện cho công tác quản lý. Bộ hồ sơ này là cơ sở để xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài trên biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc, tạo thuận lợi cho công tác quản lý đường biên, mốc giới giữa hai nước.
3. Nguyên tắc phân định biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế
Nguyên tắc kế thừa các hiệp ước quốc tế về biên giới lãnh thổ: Theo thỏa thuận ngày 19/10/1993 thì hai bên đồng ý căn cứ vào Công ước hoạch định biên giới ký giữa Pháp và Trung Quốc ngày 26/6/1887 và Công ước bổ sung, công ước hoạch định biên giới ngày 20/6/1895 cùng các văn kiện và bản đồ hoạch định, cắm mốc kèm theo đã được công ước và công ước bổ sung nói trên xác nhận hoặc quy định; đối chiếu xác định lại toàn bộ đường biên giới trên bộ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
Theo nguyên tắc này, trong quá trình đàm phán hai bên đã tự xác định đường biên giới theo cách hiểu hai Công ước và các văn bản kèm theo rồi trao đổi cho nhau bản đồ thể hiện đường biên giới này để so sánh. Qua đối chiếu thì phần lớn đường biên giới hai bên có cách hiểu và cách xác định trùng nhau chỉ có một bộ phận nhỏ là có cách hiểu và cách xác định khác nhau đãn đén sự sai khác giữa hai bên, cụ thể: Trên toàn bộ đường biên giới dài 1400 km, nhận thức của hai bên trùng nhau đến 970 km, còn khoảng 480 km còn lại do không có văn bản hoặc văn bản và bản đồ chưa rõ ràng nên nhận thức của hai bên có khác nhau. Do đó, nếu chỉ áp dụng nguyên tắc kế thừa hai công ước 1887 và 1895 là chưa đủ để xác định đường biên giới Việt – Trung một cách rõ ràng, chính xác và đầy đủ.
Có nhiều nguyên nhân như do kỹ thuật, không còn văn bản hoặc các công ước trước đó chưa xác định được mà vẫn còn khoảng 480 km mà hai bên có cách hiểu khác nhau dẫn đến tranh chấp. Vì vậy, đối với bộ phận này hai bên cần áp dụng nguyên tắc xác lập các đoạn biên giới mới và thực tế hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã vận dụng một cách sáng tạo nguyên tắc xác lập các đoạn biên giới mới trong trường hợp này. Thực chất, việc xác lập các đoạn biên giới mới là dựa trên cơ sở của hai công ước 1887 và 1895. Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới
Nguyên tắc xác lập các đoạn biên giới mới có thể hiểu như sau: Trong quá trình đối chiếu, xác định hướng đi của đường biên giới đối với những khu vực sau khi đã đối chiếu nhiều lần mà vẫn không đi đến nhất trí, hai bên sẽ cùng nhau khảo sát thực địa, suy tính mọi tình huống tồn tại trong khu vực với tinh thần thông cảm và nhân nhượng lẫn nhau, thương lượng hữu nghị để tìm giải pháp công bằng, hợp lý.
Các khu vực hai công ước quy định không rõ ràng hoặc chưa có đường biên giới, hai bên xem xét tổng hợp các yếu tố: cơ sở pháp lý của các Công ước Pháp- Thanh còn có thể vận dụng được, quản lý, lịch sử, địa hình, bản đồ, nếu cần chuyên gia hai bên đi thực hiện khảo sát, thương lượng hữu nghị trên tinh thần thông cảm, nhân nhượng lẫn nhau để tìm giải pháp công bằng, hợp lý. Đối với số ít khu vực hai bên không thể đạt được thỏa thuận thì giải quyết trên tinh thần hiệp thương hữu nghị, thông cảm và nhân nhượng lẫn nhau, công bằng, hợp lý.
Sau hàng chục năm đàm phán với nhiều cấp khác nhau kéo dài từ năm 1993 đến năm 1999 hai bên đã giải quyết được các khu vực còn tranh chấp. kết quả đàm phán đã xác định 2,6 km² thuộc hai khu vực( vì lý do kỹ thuật: vẽ chồng lấn lên nhau; hai bên chưa vẽ tới) thuộc về Việt Nam, còn lại 2,4 km² của hai khu vực này thuộc về Trung Quốc. đối với 227 km² của khu vực có tranh chấp hoặc có nhận thức khác nhau của hai bên được giải quyết như sau: 113 km² thuộc về Việt Nam, 114 km² thộc về Trung Quốc. Trong đó, đáng chú ý một số khu vực được coi là nhạy cảm trên tuyến biên giới này cũng được giải quyết phù hợp với lợi ích của hai bên. Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế
Ngày 30/12/1999. Hiệp ước biên giới trên đât liền giữa Việt Nam và Trung Quốc được ký kết. đây được coi là bước ngoặt lịch sử đồng thời là cơ sở cho việc xác lập đường biên giới trên bộ và cũng là cơ sở để các bên thực hiện chủ quyền của mình một cách hợp pháp, đầy đủ trên lãnh thổ quốc gia. Hiệp ước này mở màn cho việc cắm mốc trên thực địa giữa hai nước. Để thực hiện việc cắm mốc hai bên đã cùng thỏa thuận và áp dụng sáng tạo nguyên tắc “cả gói” để giải quyết các khu vực còn tồn đọng với mục đích tìm giải pháp tổng thể, công bằng, hợp lý, hợp tình hai bên có thể chấp nhận được. Nguyên tắc này thể hiện nội dung chủ yếu là giải quyết trên cơ sở công bằng lợi ích. Biên giới đi qua tât cả các mốc cũ, giấu tích lịch sử, hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng đến đời sống dân cư biên giới. Trên cơ sở thực hiện theo các nguyên tắc nêu trên, việc phân định biên giới giữa nước ta với Trung Quốc đã hoàn thành, hai nước đã có một đường biên giới hoàn chỉnh phù hợp với pháp luật quốc tế cũng như nguyện vọng của nhân dân hai nước.
4. Thực tiễn giải quyết các vấn đề liên quan đến biên giới lãnh thổ Việt Nam – Trung Quốc
Tại điều 2 Hiệp ước biên giới đất đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: “Hai Bên ký kết đồng ý hướng đi của đường biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được xác định từ Tây sang Đông như từ giới điểm số 1 đến giới điểm số 61”.
Tháng 11/2020, sau khi Hiệp ước có hiệu lực, Việt Nam và Trung Quốc đã chính thức thành lập “Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc” và 12 Nhóm liên hợp phân giới cắm mốc, để triển khai công tác này trên thực địa. Sau hơn một năm chuẩn bị các nội dung cần thiết cả về mặt pháp lý, kỹ thuật, nhân lực và vật lực, ngày 27-12-2001, tại cửa khẩu quốc tế Móng Cái (Việt Nam) – Đông Hưng (Trung Quốc), Việt Nam và Trung Quốc đã cắm cột mốc đầu tiên giữa hai nước, mang số hiệu 1369, đánh dấu việc triển khai công tác này trên toàn tuyến biên giới đất liền giữa hai nước. Tiếp đó, ngày 31-12-2008, Việt Nam và Trung Quốc đã ra Tuyên bố chung về việc hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc trên biên giới đất liền giữa hai nước. Với kết quả trên, đường biên giới Việt Nam và Trung Quốc dài 1.449,56km, trong đó có 383,914km đi theo sông, suối, đã được cắm 1.971 cộc mốc, bao gồm 1.548 mốc chính và 422 mốc phụ. Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới
Đồng thời, hai bên đã ký kết Nghị định thư phân giới cắm mốc, Hiệp định về quy chế quản lý biên giới, Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền (tháng 11-2009). Các văn kiện này chính thức có hiệu lực từ năm 2010. Ngoài ý nghĩa xác định rõ ràng một đường biên giới giữa hai nước, các hiệp định còn tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành chức năng của cả hai bên tiến hành quản lý biên giới một cách hiệu quả, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của nhau, mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, tạo điều kiện cho các địa phương hai bên biên giới mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị [6]và đưa đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc trở thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển.
5. Giải pháp bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia trong tình hình mới
Hiện nay, phần lớn đường biên giới của Việt Nam với các nước láng giềng đã được phân định, cắm mốc thực địa đã được hình thành để góp phần bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện những giải pháp cơ bản sau:
Một là, nắm vững pháp luật quốc tế, đường lối, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta trong giải quyết các vấn đề về biên giới, lãnh thổ
Đảng và Nhà nước ta khẳng định nhất quán: “Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách xây dựng biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng giềng; giải quyết các vấn đề về biên giới quốc gia thông qua đàm phán trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau”.
Hợp tác quốc tế giải quyết biên giới, lãnh thổ là một vấn đề lớn, liên quan đến nhiều vấn đề về chủ quyền an ninh của quốc gia. Do đó, trong quá trình đàm phán quốc tế giải quyết biên giới lãnh thổ phải luôn nắm vững nguyên tắc tối cao của Nhà nước, không được thoả hiệp, nhân nhượng vô nguyên tắc, phải nắm vững tài liệu, nguồn gốc lịch sử, phải biết về quản lý thực tế, hiểu biết nghệ thuật đàm phán.
Quá trình đàm phán về lãnh thổ biên giới với các nước phải có sự chỉ đạo chặt chẽ của Trung ương Đảng và Chính phủ, phát huy trách nhiệm của đoàn đàm phán, phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến của các chuyên gia về biên giới và các ngành chủ quản, học tập kinh nghiệm quốc tế, không chủ quan áp đặt. Ngăn chặn các luận điệu tuyên truyền của các thế lực thủ địch gây chia rẽ quan hệ truyền thống giữa nước ta với các nước láng giềng và làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; ảnh hưởng đến quá trình đàm phán.
Thứ hai, phải quán triệt mục tiêu, nguyên tắc, phương châm trong giải quyết các vấn đề về biên giới, vùng biển với các nước có liên quan
Quá trình giải quyết các vấn đề có liên quan đến biên giới, lãnh thổ phải bảo đảm các mục tiêu: Giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia; bởi vì, độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia là vấn đề thiêng liêng của mỗi quốc gia, dân tộc.. Đó là quá trình vừa đấu tranh quyết liệt, vừa thương lượng, thoả thuận, chiếu cố lẫn nhau theo nguyên tắc “có đi có lại”. Trong quá trình giải quyết các vấn đề biên giới, vùng biển phải giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, coi đó là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt và nhất quán. Giữ được mối quan hệ hữu nghị với nước láng giềng là truyền thống của dân tộc, là mong muốn của nhân dân ta, đồng thời là yêu cầu của công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, là xu thế chung của thời đại. Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới
Thứ ba, xác định vấn đề biên giới phù hợp với từng giai đoạn
Trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc, cần tiếp tục đẩy nhanh tiến độ phân giới cắm mốc, phấn đấu hoàn thành công tác phân giới cắm mốc vào năm 2008; ký Nghị định thư về phân giới cắm mốc và Hiệp định về quy chế biên giới thay thế Hiệp định tạm thời năm 1991. Không mất cảnh giác, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, xây dựng quan hệ láng giềng hữu nghị, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
III. Kết Luận Tiểu Luận Học Phần Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới Trên Bộ Việt Nam – Trung Quốc
Tuyến biên giới trên bộ của nước ta được tạo thành bởi ba bộ phận tiếp liền nhau là đoạn biên giới Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Lào, Việt Nam – Cam Pu Chia. Trải qua nhiều thăng trầm, biến cố lịch sử, với sự quyết tâm nỗ lực sau 16 vòng đàm phán chính phủ và 16 vòng đàm phán cấp chuyên viên Hiệp ước biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc là mốc son quan trọng. Bởi chủ quyền, biên giới, lãnh thổ quốc gia luôn là vấn đề thiêng liêng. Do vậy, thực tiễn xác định biên giới trên bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc luôn kiên trì nguyên tắc mang tính chất nền tảng, công bằng hợp lý, tôn trọng lẫn nhau, quan tâm hợp lý đến lợi ích của nhau trên cơ sở căn cứ pháp lý đã thỏa thuận, luật pháp quốc tế và những nguyên tắc giải quyết vấn đề cụ thể.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiểu Luận Môn Luật Công Pháp Quốc Tế Xác Định Biên Giới
- Luật biên giới quốc gia (số 06/2003/QH11) ngày 17 tháng 06 năm 2003.
- Nghị định 140/2004/NĐ – CP ngày 25 tháng 06 năm 2004 quy định chi tiết một số điều của Luật biên giới quốc gia.
- Hiệp ước biên giới đất đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
- Hiệp định về quy chế quản lý biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Trung Hoa ngày 18 tháng 11 năm 2009.
- Ban tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Hướng dẫn số 75HD – BTGTU ngày 05 tháng 03 năm 2014 về công tác biên giới đấy liền Việt Nam – Trung Quốc; Việt Nam – Lào; Việt Nam – Campuchia.
- Nguyễn Mạnh Đông (2021), “Giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ của Việt Nam: Kết quả và bài học kinh nghiệm”, truy cập tại trang http://m.tapchimattran.vn/ ngày truy cập 06/10/2021
- Đào tạo E – learing (2021), Công pháp quốc tế – Bài 4.
[1] Điều 4 Nghị định 140/2004/NĐ – CP ngày 25 tháng 06 năm 2004 quy định một số điều của Luật biên giới quốc gia.
[2] Đào tạo E – learing (2021), Công pháp quốc tế – Bài 4, tr.8
[3] Ban tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Hướng dẫn số 75HD – BTGTU ngày 05 tháng 03 năm 2014 về công tác biên giới đấy liền Việt Nam – Trung Quốc; Việt Nam – Lào; Việt Nam – Campuchia.
[4] Ban tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Hướng dẫn số 75HD – BTGTU ngày 05 tháng 03 năm 2014 về công tác biên giới đấy liền Việt Nam – Trung Quốc; Việt Nam – Lào; Việt Nam – Campuchia.
[5] Ban tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Hướng dẫn số 75HD – BTGTU ngày 05 tháng 03 năm 2014 về công tác biên giới đấy liền Việt Nam – Trung Quốc; Việt Nam – Lào; Việt Nam – Campuchia.
[6] Nguyễn Mạnh Đông (2021), “Giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ của Việt Nam: Kết quả và bài học kinh nghiệm”, truy cập tại trang http://m.tapchimattran.vn/ ngày truy cập 06/10/2021.