Tiểu luận Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp

Trên cơ sở nâng cao nhận thức, nắm vững quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của
Đảng, cần vận dụng và xửlý một cách linh hoạt, sáng tạo việc kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụquốc phòng an
ninh, bảo vệ tổ quốc XHCN.Trong hoạt động hợp tác quốc phòng, tuy có đặc thù
và nhiệm vụriêng, nhưng đều phải quán triệt và phục vụmục tiêu chung của
cách mạng; đó là, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng XHCN. Hợp tác quốc phòng muốn đạt hiệu quảcao phải phối
hợp chặt chẽvới các lĩnh vực hợp tác và đấu tranh khác, nhất là vềkinh tế, chính
trị, khoa học – công nghệ, văn hoá, nhằm đạt được yêu cầu là hợp tác trên các
lĩnh vực đều phải tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc phòng và xây dựng
sức mạnh quốc phòng; ngược lại, kết quảhợp tác quốc phòng phải góp phần thúc
đẩy các quan hệhợp tác vềkinh tế, khoa học – công nghệ, đầu tư, thương mại
phát triển.

pdf

31 trang

|

Chia sẻ: lylyngoc

| Lượt xem: 4655

| Lượt tải: 10

download

Bạn đang xem trước

20 trang

tài liệu Tiểu luận Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

đồng … đã tạo nên sự bất ổn
trong xã hội.
Nội dung mới:
+ Đấu tranh giữa lao động và tư bản (ở các nước TBCN phát triển).
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
9
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
+ Đấu tranh của nhân dân lao động (các nước đang phát triển và các nước
XHCN) chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, vì độc lập
dân tộc và CNXH và vì lợi ích chân chính của mình.
+ Trọng tâm của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trên toàn thế giới là đấu
tranh vì độc lập dân tộc và CNXH chống các thế lực phản động, đế quốc chủ
nghĩa đang ráo riết thực hiện “diễn biến hòa bình (lật đổ chế độ XHCN mà không
cần chiến tranh).
Hình thức mới: Vẫn tồn tại 3 hình thức cơ bản: đấu tranh kinh tế, đấu tranh
chính trị và đấu tranh tư tưởng. Nhưng vận dụng uyển chuyển, lồng ghép vào các
hình thức đấu tranh khác, không được cường điệu hóa dẫn đến cục bộ, không
đoàn kết được các lực lượng hòa bình, dân chủ, tiến bộ. Đồng thời cũng không
được chủ quan, thỏa hiệp, mất cảnh giác làm cho lực lượng cách mạng rơi vào
thế bị động, phân liệt.
3. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
Điều kiện mới
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam vẫn tồn tại lâu dài các giai cấp,
tầng lớp khác nhau. Đấu tranh giai cấp là một thực tế khách quan. Vấn đề không
phải là lảng tránh danh từ đấu tranh giai cấp, mà cơ bản là nhận thức đúng tính
chất, đặc điểm, nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp để từ đó xây dựng các
phương pháp xử lý tốt các quan hệ xã hội – giai cấp.
Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra trong điều kiện mới: cơ cấu giai cấp,
vị trí giai cấp thay đổi dẫn đến quan hệ giữa các giai cấp cũng có sự thay đổi.
Nội dung mới
Mục tiêu của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, đấu
tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra với nhiều hình thức nhưng nổi bật lên là đấu
tranh giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là quần chúng nhân dân lao động, các
lực lượng xã hội đi theo con đường dẫn tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất do Đảng
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
10
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
cộng sản lãnh đạo với một bên là các thế lực, các tổ chức, các phần tử chống độc
lập dân tộc và CNXH. Các thế lực phản động trong nước cấu kết với các thế lực
phản động quốc tế sử dụng “Âm mưu diễn biến hoà bình” hòng thủ tiêu sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản đối với xã hội đi đến chỗ lật đổ chế độ xã hội. Cuộc đấu
tranh giai cấp hiện nay không còn trực diện như thời kỳ đấu tranh giải phóng dân
tộc mà nó ẩn giấu đằng sau qua các cuộc đấu tranh về kinh tế, văn hoá, tư tưởng.
Cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay không chỉ là đấu tranh bảo vệ chính quyền mà
còn định hướng đi lên CNXH.
Hình thức mới
Đấu tranh giai cấp ở nước ta còn thể hiện ở cuộc đấu tranh giữa hai con
đường XHCN và TBCN. Đó là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất
nước đi theo con đường XHCN chống lại các nhân tố thúc đẩy đất nước chuyển
dịch theo hướng TBCN.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
11
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
CHƯƠNG 2: QUAN HỆ GIAI CẤP VỚI DÂN TỘC VÀ NHÂN
LOẠI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
1. Dân tộc và quan hệ giai cấp với dân tộc
1.1. Khái niệm dân tộc và sự hình thành dân tộc
Khái niệm dân tộc
Theo nghĩa khoa học (hiện đại), dân tộc là khái niệm dùng để chỉ hình thức
cộng đồng người ổn định, bền vững, được hình thành trong lịch sử lâu dài, trên cơ
sở cộng đồng về ngôn ngữ, về lãnh thổ, về kinh tế và về văn hóa, tâm lý, tính cách.
Dân tộc là một cộng đồng người có những đặc điểm chung thống nhất sau đây:
– Một là, cộng đồng về ngôn ngữ – một phương tiện giao tiếp chung thống
nhất của các thành viên trong cộng đồng dân tộc.
– Thứ hai, cộng đồng về lãnh thổ – đó là vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải
đảo… thuộc chủ quyền quốc gia dân tộc
– Ba là, cộng đồng về kinh tế – một thị trường thống nhất để thực hiện các
hoạt động kinh tế, các hoạt động này được cũng cố bằng thể chế chính trị là nhà
nước tập quyền. Đây là đặc trưng quan trọng nhất phân biệt với bộ lạc, bộ tộc.
Thiếu sự cộng đồng chặt chẽ về kinh tế thì cộng đồng dân tộc không thể hình
thành được.
– Bốn là, cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách. Đây là nhân tố quan trọng
của sự liên kết cộng đồng. Văn hóa dân tộc được hình thành trong quá trình lịch
sử lâu dài, tạo ra sắc thái riêng của dân tộc. Văn hóa dân tộc mang nhiều sắc thái
của các địa phương, các sắc tộc, các tập đoàn người, nhưng đó vẫn là một nền
văn hóa thống nhất, chứ không phải bị chia cách, tách rời nhau. Tính thống nhất
trong đa dạng là đặc trưng của văn hóa dân tộc. Các dân tộc thường xuyên giao
lưu văn hóa với các dân tộc khác trong quá trình phát triển. Trong sự giao lưu
văn hoá đó, các dân tộc không ngừng đấu tranh để bảo tồn và phát triển bản sắc
văn hóa của mình. Văn hóa dân tộc là kết tinh tâm lý, tính cách dân tộc. Mỗi dân
tộc có tính cách riêng, không pha trộn với tâm lý, tính cách của dân tộc khác.
Đây chính là cốt lõi bản sắc dân tộc.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
12
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Như vậy, bốn đặc trưng: cộng đồng về kinh tế, cộng đồng về lãnh thổ, cộng
đồng về ngôn ngữ về văn hóa, tâm lý, tính cách là bốn đặc trưng không thể thiếu
được của mỗi dân tộc. Tuy nhiên, dân tộc không phải là phép cộng giản đơn của
bốn đặc trưng – bốn mối quan hệ cộng đồng trên mà chính là kết hợp một cách
biện chứng các mối quan hệ ấy. Nó vừa kết nối dân tộc thành một khối vừa tạo ra
động lực để liên kết và phát triển cho mỗi quốc gia dân tộc.
Sự hình thành dân tộc
Sự hình thành dân tộc rất đa dạng: có dân tộc được hình thành từ một bộ tộc
phát triển lên, nhưng đa số dân tộc được hình thành trên cơ sở nhiều bộ tộc và tộc
người hợp nhất lại. Việc hình thành dân tộc từ các hình thức cộng đồng người
trước dân tộc phát triển lên dân tộc là một quá trình có tính chất liên tục vừa là
bước nhảy vọt. Ở Việt Nam, dân tộc được hình thành sớm hơn do điều kiện
chống xâm lược và chống thiên nhiên. Dân tộc không chỉ là sản phẩm của sự
phát triển kinh tế văn hóa, mà còn là động lực cho sự phát triển. Trong tương lai
của loài người, dân tộc sẽ tồn tại lâu dài ngay cả khi các giai cấp đã mất đi. Do
vậy, đấu tranh chống lại sự nô dịch và áp bức dân tộc chính là đấu tranh vì sự
phát triển và tiến bộ chung của nhân loại.
1.2. Quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong lịch sử
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng, vấn đề dân tộc không thể tách rời
khỏi vấn đề giai cấp, đấu tranh dân tộc không thể tách rời khỏi vấn đề giai cấp,
đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng dân
tộc và giai cấp là những phạm trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, mỗi nhân tố
có vai trò lịch sử của nó trong sự phát triển xã hội, không thể quy mối quan hệ
này vào quan hệ kia. Giai cấp có trước dân tộc hàng nghìn năm. Khi nhân loại
tiến lên chủ nghĩa cộng sản, giai cấp sẽ mất đi, nhưng dân tộc còn tồn tại lâu dài.
Việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn
đề dân tộc, và vấn đề dân tộc bao giờ cũng được chỉ đạo bởi một quan điểm giai
cấp nhất định. Đồng thời, chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định tầm quan trọng đặc
biệt của nhân tố dân tộc đối với sự phát triển xã hội, ý nghĩa cực kỳ to lớn của
việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
13
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
công nhân và nhân dân lao động. Tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể
mà giải quyết vấn đề dân tộc hay vấn đề giai cấp trở thành nhiệm vụ chủ yếu
trong từng giai đoạn cách mạng.
Quan hệ giai cấp, với tư cách là sản phẩm của một phương thức sản xuất
nhất định, là nhân tố có vai trò quyết định đối với sự hình thành dân tộc, tính chất
dân tộc, xu hướng phát triển của dân tộc, quan hệ giữa các dân tộc.
CNTB và giai cấp tư sản đang lên có vai trò quyết định đối với quá trình
hình thành dân tộc (quá trình hình thành dân tộc mang tính chất điển hình). Đối
với các dân tộc phương Đông, vai trò này thuộc về tập đoàn xã hội tiên tiến
đương thời.
Tính chất của dân tộc được quy định bởi phương thức sản xuất thống trị
trong dân tộc, bởi kết cấu giai cấp được sản sinh từ phương thức sản xuất đó. Thí
dụ, sự thống trị của giai cấp tư sản đối với xã hội và đối với dân tộc nói lên tính
chất TBCN của dân tộc đó. Sau cách mạng XHCN, giai cấp tư sản mất vai trò
thống trị, giai cấp công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo xã hội và dân tộc. Sự
thay đổi quan hệ giai cấp đó làm cho dân tộc tư bản chủ nghĩa chuyển hướng trở
thành dân tộc XHCN.
Vai trò của nhân tố giai cấp còn thể hiện ở mối quan hệ giữa áp bức giai cấp
và áp bức dân tộc, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc.
Chủ nghĩa Mác đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa, căn bản của áp bức dân tộc là
chế độ người áp bức bóc lột người, nói cách khác, áp bức giai cấp là nguyên nhân
căn bản của áp bức dân tộc. Trong thời đại ngày nay, CNTB, do bản chất kinh tế
của nó, là nguyên nhân căn bản và phổ biến của áp bức dân tộc và sự bất bình
đẳng giữa các dân tộc. Thực tế hiện nay, hầu hết các dân tộc thuộc địa, do đấu
tranh đã giành được độc lập về chính trị, thì các nhà lý luận tư sản cho rằng,
CNTB đã có khả năng khắc phục tệ áp bức, bóc lột dân tộc. Nhưng thực tế liệu
có như vậy, hay trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, áp bức, bóc lột dân tộc không
mất đi mà ngược lại vẫn phổ biến và ngày càng trầm trọng?
Nhân tố giai cấp đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ giai cấp – dân
tộc. Nhưng cũng không thể tuyệt đối hóa nhân tố giai cấp, coi nhẹ vai trò của dân
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
14
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
tộc. Thực tiễn cho thấy, các phong trào cách mạng không thể phát triển được,
thậm chí có thể gặp thất bại nếu coi thường hoặc phạm sai lầm nghiêm trọng
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc.
Kể từ khi có dân tộc thì cộng đồng xã hội dân tộc là địa bàn trực tiếp của
quá trình kinh tế – xã hội, các cuộc đấu tranh giai cấp, các biến cố chính trị, các
cuộc cách mạng xã hội. Dân tộc là cái nôi của các nền văn hóa mà nếu không có
những nền văn hóa do nhiều dân tộc tạo ra thì không thể có nền văn minh nhân
loại và không có CNXH.
Dân tộc là địa bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công
nhân. Lênin nói: “Tổ quốc, nghĩa là hoàn cảnh chính trị văn hóa và xã hội, là
một nhân tố cực kỳ mạnh mẽ đối với cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
Sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân là sự nghiệp quốc tế xét về các
mặt: Lợi ích căn bản, mục tiêu cuối cùng, chống kẻ thù chung là chủ nghĩa tư
bản quốc tế…” Vì vậy, đoàn kết quốc tế là nguyên tắc căn bản hàng đầu bảo đảm
thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng. Song, sự nghiệp cách mạng của
giai cấp công nhân của mỗi nước còn là sự nghiệp có tính dân tộc sâu sắc. Địa
bàn chiến đấu trực tiếp của giai cấp công nhân là dân tộc, là Tổ quốc. “Giai cấp
vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”. Là đại biểu chân chính của lợi
ích và truyền thống dân tộc, giai cấp công nhân có khả năng đoàn kết mọi lực
lượng yêu nước và cách mạng xây dựng mặt trận dân tộc trong cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc và CNXH.
Áp bức giai cấp gây nên áp bức dân tộc và ngược lại áp bức dân tộc lại trở
thành nguyên nhân làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. Đặc biệt trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa, đấu tranh giải phóng dân tộc ở thuộc địa và đấu tranh giai cấp ở
chính quốc có quan hệ tác động lẫn nhau hết sức mật thiết. Đấu tranh dân tộc
chứa đựng những nội dung giai cấp sâu sắc, nó không chỉ là kết quả mà còn là
nguyên nhân làm cho đấu tranh giai cấp phát triển cả về bề rộng, bề sâu và có
bước nhảy vọt về chất. Đánh giá đúng vai trò cách mạng của dân tộc thuộc địa,
Lênin đã phát triển khẩu hiệu của tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Vô sản tất cả
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
15
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
các nước đoàn kết lại!” thành khẩu hiệu mới: “Vô sản tất cả các nước và dân tộc
bị áp bức đoàn kết lại!”. Đó là lời kêu gọi tập hợp lực lượng xung quanh giai cấp
công nhân, tất cả các lực lượng có khả năng cách mạng, chống đế quốc của thời
đại đấu tranh vì các mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Vấn đề dân tộc chỉ có thể được giải quyết từng bước và triệt để cùng với sự
thắng lợi của CNXH. CNXH có sức mạnh xóa bỏ áp bức giai cấp, đồng thời xóa
bỏ áp bức dân tộc, bảo đảm quyền của các dân tộc tự do phát triển tất cả các giá
trị của mình. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc – giai cấp, quan hệ giữa
các dân tộc là vấn đề cực kỳ phức tạp. Quan niệm cho rằng, khi chính quyền đã
về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì vấn đề dân tộc sẽ trở lên rất
đơn giản, tự nó được giải quyết là một quan niệm hết sức sai lầm. Phải hiểu rằng,
những mâu thuẫn của vấn đề dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH và dưới
CNXH không chỉ là di sản của xã hội cũ mà còn bao gồm các mâu thuẫn mới nảy
sinh đòi hỏi được giải quyết. Vấn đề dân tộc trở nên đặc biệt phức tạp khi các
đảng cầm quyền phạm những sai lầm lớn trong việc xử lý các quan hệ dân tộc,
coi thường các lợi ích dân tộc cụ thể, coi thường bản sắc dân tộc, tình cảm dân
tộc, truyền thống dân tộc… Sự khủng hoảng về vấn đề dân tộc đã khiến cho
khủng hoảng kinh tế – xã hội nói chung ở một số nước XHCN thêm trầm trọng.
Đảng cộng sản Việt nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập đã thực hiện
nhất quán đường lối chiến lược giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH,
đoàn kết các cộng đồng dân tộc đứng lên đấu tranh giành quyền làm chủ vận
mệnh của mình.
1.3. Vấn đề dân tộc và quan hệ giai cấp với dân tộc trong thời đại hiện nay
Thời đại ngày nay có nhiều biến đổi ảnh hưởng sâu sắc đến vấn đề dân tộc
và quan hệ dân tộc – giai cấp. Đó là:
– Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ tạo
bước nhảy vọt lớn về chất của lực lượng sản xuất, thúc đẩy nhanh chóng quá
trình xã hội hóa, quốc tế hóa các kết cấu giai cấp, các quan hệ giai cấp – dân tộc
– nhân loại.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
16
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
– Sự thất bại của CNXH đã được xây dựng ở Liên Xô và Đông Âu làm thay
đổi căn bản cán cân lực lượng giữa CNXH và CNTB. Dù bị suy yếu nhưng
CNXH không bị tiêu diệt mà đang đổi mới để tồn tại và phát triển. CNTB tạm
thời ở thế có lợi hơn CNXH.
– Các quốc gia dân tộc hiện đại đều trở thành yếu tố thị trường thế giới thống
nhất và duy nhất. Cơ cấu kinh tế toàn cầu hiện nay là cơ cấu TBCN, do vậy lực
lượng chi phối cơ cấu kinh tế thế giới hiện nay là các cường quốc, các trung tâm
tư bản lớn, các công ty xuyên quốc gia.
Những biến đổi trên đây không làm mất tính thời đại ngày nay là thời đại
quá độ từ CNTB lên CNXH, mà chỉ làm cho những mâu thuẫn của thời đại trở
nên gay gắt và phức tạp hơn. Chúng đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến vấn đề
dân tộc và quan hệ giữa dân tộc với giai cấp.
– Nội dung vấn đề giai cấp hiện nay quan hệ chặt chẽ với vấn đề dân tộc độc
lập, thực chất là đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi sự áp bức bóc lột của chủ
nghĩa đế quốc, của các tập đoàn tư bản lớn. Ngược lại, vấn đề dân tộc, xây dựng
mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, phong trào giải phóng dân tộc tác động
mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới, vì sự nghiệp giải
phóng người lao động, xây dựng XHCN.
– Trong thời đại ngày nay, vai trò nhân tố dân tộc trong sự nghiệp phát triển
xã hội nói chung và trong quan hệ với vấn đề giai cấp, vận động theo hai hướng:
9 Một là, xu hướng giảm tương đối vai trò nhân tố dân tộc và sự khác biệt
giữa các dân tộc, tăng sự phụ thuộc lẫn nhau, sự giao lưu giữa các dân tộc. Mặt tích
cực của xu hướng này là mở rộng sự hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hóa giữa các
dân tộc, thúc đẩy sự hỗ trợ nhau phát triển; còn mặt tiêu cực của nó là tư tưởng coi
thường bản sắc văn hóa dân tộc, xem thường yêu cầu độc lập, chủ quyền dân tộc và
trong điều kiện hiện nay dễ dàng áp đặt “giá trị phương Tây” lên các dân tộc khác.
9 Hai là, xu hướng khẳng định và tăng cường nhân tố dân tộc, bản sắc
của các dân tộc. Mặt tích cực của xu hướng này là coi trọng độc lập dân tộc, thúc
đẩy phong trào giải phóng dân tộc phát triển, thúc đẩy chủ nghĩa yêu nước; còn
mặt tiêu cực của nó là dễ rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan, chủ nghĩa
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
17
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
bài ngoại… Do vậy, cần khẳng định mặt tích cực và đấu tranh chống lại các yếu
tố tiêu cực trong cả hai xu hướng trên.
Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay, quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp có nhiều biểu hiện phức tạp. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ này,
các đảng của giai cấp công nhân cần nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, hiểu rõ xu hướng vận động của nhân tố dân tộc trong sự phát triển xã hội
để vận dụng vào điều kiện cụ thể cho thích hợp, bảo vệ lợi ích chân chính của
dân tộc và giai cấp công nhân, của nhân dân lao động.
2. Nhân loại và quan hệ giai cấp với nhân loại
2.1. Nhân loại, lợi ích của nhân loại và vấn đề nhân loại
Nhân loại là khái niệm dùng để chỉ toàn thể cộng đồng người sống trên trái
đất hàng triệu năm nay, không phân biệt chủng tộc, dân tộc, giai cấp, tôn giáo…
Nhân loại là một thể thống nhất, cơ sở của sự thống nhất đó là những nhân tố tồn
tại khách quan quy định lợi ích chung của mỗi cá thể và của cả cộng đồng.
Lợi ích nhân loại: bao gồm tất cả điều kiện và quá trình khách quan, mọi
nhân tố đảm bảo cho nhân loại tồn tại tại và phát triển.
Vấn đề nhân loại là vấn đề liên quan đến sự tồn tại của cả loài người, đòi
hỏi sự hợp tác của toàn nhân loại mới giải quyết được:
9 Bảo vệ môi trường,
9 Chống chiến tranh hạt nhân,
9 Phòng chống thiên tai, dịch bệnh
9 Phát triển dân số,
9 Giải phóng dân tộc, bình đẳng cho con người, …
2.2. Quan hệ giai cấp và nhân loại
Lợi ích giai cấp chi phối lợi ích nhân loại
ƒ Giai cấp khác nhau có địa vị xã hội khác nhau nên nhìn nhận và giải
quyết các vấn đề nhân loại không giống nhau; về cơ bản:
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
18
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
– Giai cấp tiên tiến, cách mạng có lợi ích phù hợp với lợi ích nhân loại,
giải quyết các vấn đề nhân loại theo xu hướng tích cực.
– Giai cấp bảo thủ, phản động có lợi ích đối lập với lợi ích nhân loại,
giải quyết các vấn đề nhân loại theo xu hướng tiêu cực.
ƒ Giai cấp công nhân (sản phẩm của phương thức sản xuất TBCN, đại diện
cho lực lượng sản xuất tiên tiến, xã hội hóa cao) mang bản chất cách mạng và có
tính quốc tế có lợi ích giai cấp phù hợp với lợi ích nhân loại giải quyết đúng đắn
các vấn đề nhân loại hiện nay (không sa vào chủ nghĩa duy tâm cực đoan, chủ
nghĩa bè phái, chủ nghĩa cực quyền nước lớn).
ƒ Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân vì lợi ích của mình, gắn liền với
cuộc đấu tranh vì dân chủ, bình đẳng, tự do, gắn liền với phong trào giải phóng
dân tộc, đó cũng là vì lợi ích nhân loại.
Khi nào nhân loại còn tồn tại thì mới còn tồn tại của giai cấp
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp dân tộc nhân loại trong cách
mạng Việt Nam
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tiễn của cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có nhiều quan điểm sâu sắc về mối quan hệ
giai cấp, dân tộc, nhân loại, đáp ứng yêu cầu mới của thực tiễn cách mạng Việt
Nam trong thời đại ngày nay. Những quan điểm đó có thể kể đến như sau:
3.1. Về vấn đề dân tộc thuộc địa
Vấn đề dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc
thuộc địa nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước ngoài, giành độc lập dân tộc, xoá
bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà
nước dân tộc độc lập.
a. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc
Giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam – một nước thuộc địa nửa phong kiến,
trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi quân xâm
lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hoà
bình và thống nhất đất nước. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là
khát vọng cháy bỏng của người dân mất nước. Bởi vì mất nước là mất tất cả.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
19
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Sống trong cảnh nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược
và bọn tay sai thì quyền sống của con người cũng bị đe dọa chứ nói gì đến quyền
bình đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc,
bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí
Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt Nam và
của cả nhân loại có lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí Minh đã
trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó được quán
triệt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể hiện nổi bật
trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử.
Hồ Chí Minh nói: “chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ
thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính
nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh. Độc lập tự do là quyền
tự nhiên của dân tộc, thiêng liêng và vô cùng quý giá. Hồ Chí Minh đã tiếp xúc
với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
của Pháp 1791, Người đã khái quát chân lý: “Tất cả các dân tộc trên thế giới
sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”.
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là: đánh đổ Đế quốc Pháp và phong
kiến, làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Sau Cách mạng Tháng Tám thành
công, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập và khẳng định: “Nước Việt
Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ quyền tự do độc lập ấy”.
b. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành
độc lập
Do kinh tế lạc hậu, sự phân hoá giai cấp chưa triệt để, vì thế “cuộc đấu
tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây”, điều này có ý nghĩa đối
với các dân tộc phương Đông: có sự tương đồng lớn, dù là ai, cũng đều là nô lệ
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
20
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
mất nước. Chủ nghĩa dân tộc bản xứ là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa dân tộc
chân chính, động lực to lớn để phát triển đất nước.
c. Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin (CNMLN) khi Hồ Chí Minh bàn
đến vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc thì độc lập dân tộc phải gắn
với CNXH, mối quan hệ dân tộc và giai cấp được đặt ra.
Vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo lập trường
của một giai cấp nhất định. Theo quan điểm của CNMLN, chỉ trên lập trường của
giai cấp vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, đã nhận thức được mối
quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và
CNXH, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Hồ Chí Minh nêu, các nước thuộc địa phương Đông không phải làm ngay cách mạng
vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi mới bàn đến cách
mạng XHCN. Từ thực tiễn của đấu tranh cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phê phán
quan điểm của các đảng cộng sản Tây Âu không đánh giá đúng vai trò, vị trí, tương
lai của cách mạng thuộc địa và Nguyễn Ái Quốc đi đến luận điểm: “Các dân tộc
thuộc địa phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng
hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để phải đấu tranh giành độc lập
cho dân tộc, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng XHCN.”
3.2. Về cách mạng giải phóng dân tộc
a. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản
Thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc dưới
ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu
khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Hồ Chí Minh rất
khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Người không tán thành các con
đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
21
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng
có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng
của CNMLN và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người quyết tâm
đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.
Con đường cách mạng vô sản, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, bao hàm
những nội dung chủ yếu sau:
– Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bước “đi tới xã
hội cộng sản”.
– Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của
nó là Đảng Cộng sản.
– Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
– Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách
mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.
b. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo
Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của
tổ chức cách mạng nhưng các tổ chức cách mạng kiểu cũ không thể đưa cách
mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối chính trị
đúng đắn và một phương pháp cách mạng khoa học, không có cơ sở rộng rãi
trong quần chúng.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Kách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ,
phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu, phải hiểu phong triều thế giới,
phải bày sách lược cho dân… Vậy nên sức kách mệnh phải tập trung, muốn tập
trung phải có đảng kách mệnh”.
Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính đảng
của giai cấp công nhân Việt Nam, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh và
liên hệ mật thiết với quần chúng.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
22
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
c. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc “là việc chung cả dân
chúng chứ không phải việc một hai người”. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò
của nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực
sáng tạo vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, Hồ
Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “lấy dân làm gốc”
xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người.
d. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi
của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính
quốc. Đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa
được thông qua tại Đại hội VI Quốc tế cộng sản (ngày 1-9-1928) cho rằng: “Chỉ
có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản
giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Quan điểm này, vô hình chung
đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại
lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là
mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính –
phụ. Năm 1925, Hồ Chí Minh viết: “CNTB là một con đỉa có một cái vòi bám
vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở
các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả
hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của
giai cấp vô sản; con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.
Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng cách mạng to lớn. Theo Hồ
Chí Minh, khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924),
Người khẳng định vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa: “Vận mệnh
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
23
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các
nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các
thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc TBCN đang tập trung ở các
thuộc địa hơn là ở chính quốc, nếu xem thường cách mạng ở thuộc địa tức là
“muốn đánh chết rắn đằng đuôi”.
Do nhận thức được vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa, đánh giá
đúng sức mạnh dân tộc, năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Trong tác phẩm Đường kách mệnh, Hồ Chí Minh có sự phân biệt về nhiệm
vụ của cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc và cho rằng: hai thứ
cách mạng đó tuy có khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người nêu
ví dụ: “An Nam dân tộc cách mệnh thành công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp
yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu công nông
Pháp làm cách mệnh thành công, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do”.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một
cống hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của CNMLN, đã
được thắng lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới
trong gần một thế kỷ qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
e. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường
cách mạng bạo lực
9 Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn
áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một
hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý chí xâm lược của
chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc
lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực. Đánh giá đúng bản chất
cực kỳ phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong
cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo
lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo
vệ chính quyền”.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
24
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
9 Phương châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng
dân tộc
Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương
châm chiến lược đánh lâu dài. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người
nói: “Địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị nó, thì
địch nhất định thua, ta nhất định thắng”, “Trường kỳ kháng chiến… nhất định
thắng lợi”.
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế là
một quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân tộc,
đồng thời ra sức vận động, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu quả, cả
về vật chất và tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để
kháng chiến thắng lợi.
3.3. Về đại đoàn kết dân tộc
a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách
mạng
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là cả nước đã
không đoàn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy rằng, muốn đưa
cách mạng đến thành công phải có lực lượng cách mạng đủ mạnh để chiến thắng
kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới; muốn có lực lượng cách mạng mạnh
phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ mọi lực lượng cách mạng thành một khối
vững chắc. Do đó, đoàn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là
nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối
tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người nhận thức là
vấn đề sống còn của cách mạng.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
25
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
b. Đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chúng ta không chỉ
thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà còn coi đại đoàn kết dân
tộc là mục tiêu của cách mạng.
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh coi vấn đề
đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản của cách
mạng. Hồ Chí Minh còn cho rằng đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cả dân
tộc. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp của quần chúng, do quần
chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng
tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do
cho nhân dân, hạnh phúc cho con người.
c. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm Dân, có nội hàm rất rộng. Người
dùng các khái niệm này để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “con Rồng cháu Tiên”,
không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người tín ngưỡng với người
không tín ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu, nghèo. Nói đến đại
đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp được mọi người dân vào một khối
trong cuộc đấu tranh chung. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi, Người đã dùng khái
niệm đại đoàn kết dân tộc để định hướng cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn
dân trong suốt tiến trình cách mạng, bao gồm mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo.
Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống
yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ
lượng với con người. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh có lập trường giai
cấp rõ ràng, đó là đại đoàn kết toàn dân với nòng cốt là khối liên minh công –
nông – trí thức do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Muốn xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc rộng lớn như vậy, thì phải xác định rõ đâu là nền tảng của
khối đại đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo nên cái nền tảng đó.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
26
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
d. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là
Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng, để làm
cách mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đoàn kết dân tộc
không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở
thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng,
toàn dân ta. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ
chức và tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh
vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành
một khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn; nếu
không, quần chúng nhân dân dù có hàng triệu, hàng triệu con người cũng chỉ là
một số đông không có sức mạnh.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một
thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo Mặt
trận. Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong
Mặt trận. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với
nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh bên trong, để dân tộc vượt qua mọi khó khăn,
chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
3.4. Về kết hợp sức mạnh Dân tộc với sức mạnh thời đại
a. Nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển thời đại, đặt cách mạng
giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động là thời đại đã chấm dứt sự tồn
tại biệt lập của các quốc gia, mở ra mối quan hệ quốc tế ngày càng rộng lớn giữa
các dân tộc. Nhận thức được sự biến chuyển của thời đại, Hồ Chí Minh đã tìm
thấy con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản.
Cách mạng giải phóng dân tộc nói chung và cách mạng Việt Nam nói riêng là
một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trên thế giới, do vậy cần có liên
minh chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa và giai cấp vô sản các nước để chiến
đáu chống lại kẻ thù chung.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
27
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Người đã bảo vệ và phát triển quan điểm của V. Lênin về khả năng to lớn
và vai trò chiến lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với thắng
lợi của cách mạng vô sản. Cũng từ đó, Người đã xác định chính xác đường lối
chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu
nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản.
b. Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng
Là nhà yêu nước chân chính, Hồ Chí Minh đã triệt để phát huy sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, đòng thời là nhà quốc tế chủ nghĩa
trong sáng, Hồ Chí Minh đã suốt đời đấu tranh không mệt mỏi để cũng cố và
tăng cường tình đoàn kết và hữu nghị giữa Việt Nam và các dân tộc khác đang
đấu tranh cho mục tiêu chung là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Đề cao sự giúp đỡ quốc tế với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đồng
thời nhấn mạnh trách nhiệm của cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, từ đại đoàn kết dân tộc phải đi đến đại đoàn
kết quốc tế, đại đoàn kết dân tộc đúng đắn là cơ sở cho việc đại đoàn kết quốc tế
trong sáng. Đại đoàn kết dân tộc là một trong những nhân tố bảo đảm thắng lợi
cho cách mạng cho cách mạng Việt Nam. Đoàn kết quốc tế cũng là một trong
những nhân tố hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi
hoàn toàn của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước
quá độ lên CNXH. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế đòi hỏi
phải đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa xô
vanh và mọi chủ nghĩa cơ hội khác.
c. Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp
đỡ của các nước XHCN, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không
quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình
Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Chủ tịch
Hồ Chí Minh bao giờ cũng coi nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định, còn
nguồn lực ngoại sinh chỉ phát huy tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Vì vậy,
Người luôn nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
28
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Hồ Chí Minh cho rằng muốn tranh thủ được sức mạnh thời đại, ngoài sức
mạnh cần thiết bên trong, còn phải có đường lối độc lập tự chủ đúng đắn mới
tranh thủ được sức mạnh thời đại. Để tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của
nhân dân thế giới, Đảng ta và Hồ Chí Minh đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ mục
tiêu đấu tranh cho độc lập, thống nhất của dân tộc mình với mục tiêu của thời đại
là hoà bình, độc lập dân tộc và CNXH.
d. Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng “làm bạn với tất cả
các nước dân chủ”
Trong cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng,
vun đắp cho tình hữu nghị, hợp tác và đoàn kết giữa nhân dân các nước theo tinh
thần “bốn phương vô sản đều là anh em” nhằm tạo nên sức mạnh to lớn cho sự
nghiệp cách mạng của các dân tộc. Hồ Chí Minh chủ trương giương cao ngọn cờ
hoà bình, đoàn kết quốc tế, đồng thời luôn phân biệt giữa bạn và thù của cách
mạng, tỉnh táo với mọi âm mưu xấu xa của các thế lực phản động quốc tế, chân
trọng mọi sự giúp đỡ, hợp tác chân thành, nhưng cũng kiên quyết đấu tranh
chống sự chia rẽ xâm lược.
4. Quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng Việt Nam hiện nay
Hiện nay, tình hình thế giới có nhiều thay đổi lớn, khoa học và công nghệ
sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá
trình phát triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách
quan, lôi cuốn càng nhiều nước tham gia.
Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới, biểu hiện dưới những hình thức và mức
độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và
đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay gắt. Các nước với chế độ xã hội và trình độ
phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt
vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một quốc gia riêng rẽ
nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương. Khu vực Đông Nam
Á tiếp tục phát triển năng động, nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn
định, nhất là các hoạt động khủng bố, xung đột tôn giáo, tranh chấp tài nguyên,
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
29
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
lãnh thổ, biển, đảo cùng những vấn đề toàn cầu khác, như: đói nghèo, dịch bệnh,
biến đổi khí hậu và các thảm họa thiên nhiên…, đòi hỏi phải có sự hợp tác giải
quyết của các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn
và quyết định con đường phát triển của mình. Đối với nước ta, trong xu thế hoà
bình, hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ (nhất là khi nước
ta là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Ủy viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 – 2009 và
Chủ tịch ASEAN năm 2010), các mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong
khu vực, trên thế giới và các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ cũng mở
rộng hơn về quy mô, phát triển cao hơn về cấp độ, phong phú, đa dạng hơn về
hình thức; quyền hạn và nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam cũng tăng lên, nặng nề
hơn. Cùng với đó, những thách thức về an ninh đối với nước ta cũng đa dạng,
phức tạp, nguy hiểm hơn, nhất là việc giải quyết tranh chấp chủ quyền biển, đảo
và chống lại mưu đồ lợi dụng “mở cửa” để đẩy mạnh “diễn biến hoà bình”, bạo
loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Tình hình đó đòi hỏi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới phải có chiến lược, sách
lược, hình thức và phương pháp xử lý đúng đắn, sáng tạo. Để tận dụng thời cơ,
đẩy lùi thách thức, đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam tiến lên, vấn đề quan hệ
giai cấp, dân tộc, nhân loại ở nước ta cần phải đảm bảo những nội dung sau:
a. Giải quyết tốt mối quan hệ giai cấp với đoàn kết dân tộc
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay vẫn còn giai cấp và đấu tranh
giai cấp. Vấn đề này có quan hệ mật thiết với đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết toàn dân
tộc không có nghĩa là loại trừ đấu tranh giai cấp mà là thực hiện đấu tranh giai cấp đúng
quy luật, phục vụ mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân…
Mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH đáp ứng lợi ích chung của mọi tầng
lớp, mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc, nên đấu tranh giai cấp ở nước ta sẽ
không mâu thuẫn với đại đoàn kết dân tộc, không những thế còn củng cố vững
chắc hơn khối đại đoàn kết toàn dân.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
30
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
b. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường với đoàn kết dân tộc
Kinh tế thị trường đang và sẽ dẫn đến sự khác biệt ngày càng lớn giữa các
giai cấp và tầng lớp xã hội. Tầng lớp tư sản rất có thể phát triển thành giai cấp tư
sản, khi đó xuất hiện nhiều vấn đề mới phức tạp về quan hệ giai cấp, dân tộc và
nhân loại. Vì vậy, việc kết hợp phát triển kinh tế thị trường với đoàn kết dân tộc
phải bảo đảm sự công bằng và bình đẳng xã hội.
c. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của toàn dân tộc với
tranh thủ sức mạnh của thời đại.
Kiên định ý chí độc lập, tự chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, phát huy cao độ nội lực; đồng thời, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế,
tranh thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Xuất phát từ bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước, kế thừa
và phát triển những kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
trong quá khứ, Đảng ta đã rút ra bài học và khẳng định: phải “phát huy dân chủ,
khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất
nước”. Đồng thời, Đảng ta cũng xác định rõ mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại, giữa yếu tố nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước; trong đó, coi “phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc
là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố
quan trọng”. Đây là những quan điểm cơ bản chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây
dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN thời kỳ mới.
Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi
của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia, dân tộc. Đó chính là bài học
xây dựng, sử dụng sức mạnh tổng hợp, làm cho các yếu tố thời đại, quốc tế
chuyển hoá và kết hợp với nội lực tạo ra thế và lực mới, giúp chúng ta vượt qua
khó khăn, thách thức, tận dụng tốt thời cơ để đổi mới và phát triển bền vững.
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa Nhóm 9 – Đêm 6 – Khóa 20   
31
Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện nay và vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trên cơ sở nâng cao nhận thức, nắm vững quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của
Đảng, cần vận dụng và xử lý một cách linh hoạt, sáng tạo việc kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng an
ninh, bảo vệ tổ quốc XHCN. Trong hoạt động hợp tác quốc phòng, tuy có đặc thù
và nhiệm vụ riêng, nhưng đều phải quán triệt và phục vụ mục tiêu chung của
cách mạng; đó là, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng XHCN. Hợp tác quốc phòng muốn đạt hiệu quả cao phải phối
hợp chặt chẽ với các lĩnh vực hợp tác và đấu tranh khác, nhất là về kinh tế, chính
trị, khoa học – công nghệ, văn hoá, nhằm đạt được yêu cầu là hợp tác trên các
lĩnh vực đều phải tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc phòng và xây dựng
sức mạnh quốc phòng; ngược lại, kết quả hợp tác quốc phòng phải góp phần thúc
đẩy các quan hệ hợp tác về kinh tế, khoa học – công nghệ, đầu tư, thương mại
phát triển.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnoi_dung_chuong_9_file_word_578.pdf