Tiểu luận Đạo lý sinh học trong nhân bản vô tính động vật và người – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp
+ Không ít người cho rằng nhân bản người là một việc làm trái đạo đức. Theo quan điểm của họ, một phôi vô tính là một mầm sống tiềm tàng của con người, nên việc phá hủy một mầm sống như thế là sai trái. Họ cho rằng việc tạo ra phôi vô tính là một vấn đề rất khó chấp nhận về mặt đạo đức.
+ Một cuộc thăm dò ý kiến trong công chúng cho thấy phần lớn (90%) dân Mĩ phản đối việc tạo sinh vô tính.
+ Rudolf Jaenisch: nhà sinh vật học tại Massachusetts Institute of Technology, tuyên bố việc nghĩ tới cloning con người là một hành động vô trách nhiệm. Lý do: có thể sau khi tạo ra, hài nhi đó có vẻ lành mạnh nhưng khi lớn lên chưa biết sức khỏe nó sẽ ra sao. Ông ta kết luận là không nên thử nghiệm con người như thử trên loài vật.
+ Alta Charo: Khoa Trưởng trường Luật tại Wisconsin không tin tưởng là việc sinh sản vô tính người đã thực hiện được. Và nếu có thì đây là một thử nghiệm vô trách nhiệm vì cho tới nay ngay cả thử trên súc vật cũng chưa ai biết có an toàn hay không
34 trang
|
Chia sẻ: lylyngoc
| Lượt xem: 4879
| Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước
20 trang
tài liệu Tiểu luận Đạo lý sinh học trong nhân bản vô tính động vật và người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong vài thập kỷ gần đây, chúng ta đã được chứng kiến nhiều thành tựu quan trọng trong nghiên cứu về nhân bản cũng như những tranh cãi về tính đạo đức trong nghiên cứu lĩnh vực này. Nghiên cứu về nhân bản trang bị cho chúng ta những hiểu biết về quá trình hình thành cơ thể sinh vật từ một tế bào đơn lẻ và quá trình các mô/tạng khỏe mạnh thay thế các mô/tạng bị tổn thương trong các cơ thể trưởng thành, mang lại cho nhân loại hy vọng chữa được nhiều bệnh mãn tính và nan giải mà hiện nay chưa có biện pháp điều trị hiệu quả.
Mặc dù những lợi ích của nhân bản thật to lớn nhưng những hiểm họa mà nó mang lại không thể lường trước được. Nhân bản vô tính không những gặp nhiều trở ngại trong kỹ thuật nhân bản mà còn vấp phải sự phản đối về mặt đạo đức và luân lí. Chúng ta nên có thái độ như thế nào đối với sự nhân bản ở người? Đó là một câu hỏi đòi hỏi chúng ta phải nghiêm túc suy nghĩ
Đây thực sự là vấn đề đã và đang gây nên nhiều tranh cãi trong các quốc gia và trên toàn thế giới. Đó là lí do tôi chọn đề tài tiểu luận “ Đạo lý sinh học trong nhân bản vô tính động vật và người”
.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VÀ KỸ THUẬT NHÂN BẢN VÔ TÍNH
1. Khái niệm về nhân bản vô tính
Nhân bản (cloning) là tạo ra “bản sao” của một tế bào hoặc một sinh vật. Các “bản sao” được tạo ra bằng kỹ thuật cloning được gọi là các clone, các clone này giống y hệt nhau về mặt di truyền.[ 3]
Nhân bản người và động vật có thể xảy ra trong tự nhiên hoặc nhân tạo. Đây là một hình thức sinh sản đặc biệt mà kết quả là tạo ra các cơ thể giống hệt nhau về gen. Có hai kiểu nhân bản động vật là nhân bản phôi (nhân bản từ các tế bào phôi) và nhân bản vô tính từ các tế bào trưởng thành. Nhân bản phôi người và động vật có thể xẩy ra trong tự nhiên hoặc nhân tạo (các trường hợp sinh đôi cùng trứng là ví dụ điển hình của nhân bản phôi người và động vật trong tự nhiên) còn nhân bản vô tính từ các tế bào trưởng thành chỉ có thể xảy ra trong phòng thí nghiệm.
Trong nhân bản vô tính từ một tế bào trưởng thành, “bản sao” (clone) sẽ là một động vật giống y chang “bố/mẹ” về mặt di truyền. “Bố/mẹ” này chính là động vật cho nhân tế bào lưỡng bội để nhân bản. Nhân bản vô tính có thể thực hiện được với các tế bào có nhân lưỡng bội lấy từ phôi, thai, hoặc từ một động vật trưởng thành, thậm chí có thể từ các mô đông lạnh. [3,6]
2. Kỹ thuật nhân bản
Nhân bản phôi động vật (cloning) hiện nay dùng một trong 3 kỹ thuật sau: Phân tách các tế bào blastomere (blastomere separation), chia cắt phôi túi (blastocyst division) và kỹ thuật chuyển nhân tế bào thân (somatic cell nuclear transfer).
2.1 Nhân bản phôi bằng phân tách các tế bào blastomere (blastomere seperation):
Đầu tiên trứng và tinh trùng được thụ tinh trong ống nghiệm tạo thành phôi. Phôi này được nuôi cấy cho phát triển đến giai đoạn 2 hoặc 4 tế bào (mỗi tế bào trong khối 2 hoặc 4 tế bào này được gọi là một blastomere). Đến giai đoạn này người ta tách bỏ màng bọc phôi và chuyển phôi vào một môi trường đặc biệt làm cho các blastomere tách rời nhau ra. Mỗi blastomere này sau đó được nuôi cấy riêng biệt cho phép hình thành nên một phôi. Phương pháp này có thể tạo ra tối đa là 4 phôi bản sao giống hệt phôi ban đầu về mặt di truyền. Mỗi phôi mới được tạo ra bằng phương pháp này sau đó có thể đem cấy vào tử cung một “mẹ nuôi” cho phép phôi phát triển thành thai nhi trong quá trình mang thai của “mẹ nuôi”. Trong kỹ thuật này, các cá thể “bản sao” vẫn mang bộ gen lưỡng bội có nguồn gốc từ hai bố-mẹ.[3,6]
2.2 Nhân bản phôi bằng chia cắt phôi túi (blastocyst division)[3,6]
Đầu tiên trứng và tinh trùng cũng được thụ tinh trong ống nghiệm tạo thành phôi. Nhưng khác với kỹ thuật phân tách blastomere, phôi này được nuôi cấy cho phân chia tới khi tạo thành blastocyst. Lúc này người ta chia cắt blastocyst đó thành 2 phần và cấy vào hai nửa đó vào tử cung của một “mẹ nuôi”. Qua quá trình mang thai tự nhiên, hai nửa blastocyst này phát triển thành hai cá thể sinh đôi giống hệt nhau. Cũng như các “bản sao” được tạo ra bằng kỹ thuật phân tách blastomere, các “bản sao” được tạo ra trong kỹ thuật chia cắt blastocyst cũng mang bộ gen lưỡng bội có nguồn gốc từ hai bố-mẹ.
2.3 Nhân bản bằng chuyển nhân tế bào thân (Nuclear Transplanation)
Để nhân bản bằng kỹ thuật chuyển nhân cần có hai tế bào, một tế bào trứng và một tế bào cho. Qua thực nghiệm thấy trứng chưa thụ tinh phù hợp nhất cho kỹ thuật này vì dường như nó dễ dàng dung nạp nhân cho hơn. Tế bào trứng phải được loại bỏ nhân, quá trình này làm mất đi hầu hết thông tin di truyền của trứng. Bằng các kỹ thuật khác nhau, tế bào thân được đưa về giai đoạn G0 (pha không hoạt động) khi đó hoạt động sinh học của tế bào thân được “tắt” nhưng tế bào không chết. Ở trạng thái này nhân tế bào thân đã sẵn sàn được trứng chấp nhận. Đặt nhân tế bào cho vào trong tế bào trứng đã loại nhân. Sau đó tế bào trứng được kích thích phát triển thành phôi trên in vitro và được đưa vào tử cung “mẹ nuôi” cho phát triển thành thai. Nếu tất cả các khâu trong quá trình này được thực hiện một cách chính xác, một bản sao hoàn hảo của động vật cho nhân sẽ ra đời.
Nếu trứng được dùng trong quy trình này được lấy từ cùng cá thể cho nhân tế bào thân, kết quả sẽ là một phôi vô tính thừa hưởng toàn bộ vật chất di truyền của cá thể đó (cả DNA nhân và DNA ty thể) bởi vì DNA ngoài nhân (DNA ty thể) có nguồn gốc từ bào tương tế bào trứng của cơ thể “mẹ”. Nhiều “bản sao” có thể được tạo ra bằng cách chuyển các nhân giống nhau vào các trứng lấy từ một cơ thể cho duy nhất. Nếu các nhân tế bào thân và trứng lấy từ các cá thể khác nhau, chúng sẽ không hoàn toàn giống cơ thể cho nhân vì các “bản sao” sẽ khác ở một số gen ty thể. [3,5]
* Tóm tắt quy trình nhân bản bằng phương pháp chuyển nhân gồm các bước sau:
1. Lấy tế bào trứng của cơ thể “mẹ”, hút bỏ nhân đơn bội.
2. Lấy tế bào thân trưởng thành (máu, da …) của cá thể sẽ nhân bản, đồng bộ hóa chu trình tế bào của tế bào này, hút lấy nhân lưỡng bội.
3. Đưa nhân lưỡng bội vào trong trứng đã hút bỏ nhân nói trên (bằng tiêm trực tiếp hoặc bằng kích thích xung điện) để tạo nên “hợp tử” hay “phôi vô tính”.
4. Kích thích để “hợp tử” tiếp tục phát triển và phân chia tạo nên khối blastocyst
5. Sau đó khối blastocyst này có thể được:
+ Nuôi cấy trong labo nhằm để lấy tế bào gốc, qua đó có thể tạo ra các clone tế bào gốc phôi mang gen giống với cơ thể cho tế bào thân (Mục đích nhân bản trị liệu)
+ Hoặc đem cấy vào tử cung của một “mẹ nuôi” để cho phát triển thành bào thai, qua đó có thể tạo nên một “bản sao” giống hệt cơ thể cho nhân tế bào thân (Mục đích nhân bản vô tính động vật/người)
H: Quy trình chung nhân bản vô tính người và động vật
Như vậy, vật liệu của nhân bản phôi bằng kỹ thuật phân tách blastomere và phân chia blastocyst là phôi được thụ tinh bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (có sự tham gia của trứng và tinh trùng) còn vật liệu của nhân bản bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào là các “phôi vô tính” được tạo ra bằng cách chuyển nhân một tế bào thân sang một tế bào trứng đã hút bỏ nhân. Cả phôi thụ tinh nhân tạo và phôi được tạo ra bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào thân đều là các tế bào gốc toàn năng, có khả năng phát triển thành một cơ thể hoàn chỉnh. Khác với nhân bản bằng kỹ thuật phân tách blastomere và phân chia blastocyst, các động vật được nhân bản bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào thân chỉ mang vật liệu di truyền của một bố hoặc mẹ. [3]
2.4 Nhân bản vô tính (reproductive cloning) người và động vật có vú
Nhân bản vô tính, còn gọi là nhân bản DNA trưởng thành, là một dạng sinh sản vô tính nhân tạo dựa trên kỹ thuật nhân bản. Kỹ thuật nhân bản vô tính được dùng với mục đích tạo ra một “bản sao” giống hệt một động vật hoặc một người đang tồn tại. Kỹ thuật này đã được dùng để nhân bản cừu và các động vật có vú khác. [web1,2]
Nhân bản vô tính người và động vật được thực hiện dựa trên kỹ thuật chuyển nhân tế bào thân. Quy trình này bắt đầu bằng việc thay thế nhân đơn bội của một tế bào trứng bằng nhân lưỡng bội lấy từ một tế bào thân của cá thể hoặc phôi sẽ được nhân bản. Trứng này sau đó được kích thích cho phép phân chia hình thành blastocyst. Sau đó cấy blastocyst này vào tử cung của một “mẹ nuôi” cho phát triển thành thai và cho ra đời một cá thể. Cá thể này sẽ là một “bản sao” của cá thể đã cho nhân tế bào. DNA trong nhân tế bào của cá thể “bản sao” được thừa hưởng chỉ từ một bố/mẹ (bản gốc) duy nhất. Cho tới nay có hai kỹ thuật chuyển nhân được dùng trong nhân bản vô tính động vật:
* Kỹ thuật Roslin (1996)
Do Ian Wilmut và Keith Campbell ở viện Roslin (Scotland) dùng để nhân bản cừu Dolly
Đầu tiên một tế bào (tế bào cho thông tin di truyền) được lấy ra từ tuyến vú của một cừu mẹ. Tế bào này sau đó được nuôi cấy nhân lên trên in vitro nhằm tạo ra nhiều bản sao nhân tế bào. Sau đó một tế bào được lấy ra khỏi nuôi cấy và đồng bộ hóa chu trình tế bào (synchronizing cell cycles) bằng cách để đói trong môi trường thiếu dinh dưỡng (lượng chất dinh dưỡng chỉ vừa đủ giữ cho tế bào không chết). Trong điều kiện này tế bào tắt tất cả các gen hoạt động tế và chuyển vào pha ngủ G0. Loại bỏ nhân của tế bào trứng chưa thụ tinh lấy từ một cừu “mẹ nuôi”, đặt tế bào trứng này sát vách tế bào cho (đã đưa về pha G0). Sau khi rút nhân trứng từ 1 đến 8 tiếng, cho một dòng điện chạy qua hai tế bào này, shock có tác dụng hòa tế bào trứng (đã bỏ nhân) và tế bào cho nhân với nhau, đồng thời khởi động tế bào mới tạo thành phát triển thành phôi. Nếu phôi đó sống, nó được cho phát triển trong khoảng 6 ngày và cuối cùng được đặt vào tử cung “mẹ nuôi” cho phát triển thành thai và sinh sản như bình thường. Kỹ thuật tạo ra cừu Dolly có tỷ lệ thành công là 1/277 [web5]
H: Quy trình nhân bản cừu Dolly
* Kỹ thuật Honolulu
Kỹ thuật này được Teruhiko Wakayama và Ryuzo Yanagimachi ở đại học tổng hợp Hawai giới thiệu năm 1998. Kỹ thuật của Honolulu hiệu quả hơn nhiều (thành công 3 lần trong mỗi 100 lần thực hiện) so với kỹ thuật của Roslin (thành công 1 lần trong 277 lần thực hiện)
Wakayama thực hiện đồng bộ hóa chu trình tế bào bằng phương pháp khác với Wilmut. Wilmut dùng tế bào tuyến vú, một tế bào phải được đưa vào giai đoạn G0. Wakayama ban đầu dùng ba loại tế bào: các tế bào Sertoli (tế bào lát ống tinh hoàn), các tế bào não, và các tế bào gò trứng (cumulus cells). Bình thường trong cơ thể cả hai loại tế bào Sertoli và tế bào não đã được duy trì ở pha G0 và các tế bào gò trứng hầu như luôn ở pha G0 hoặc G1 (trạng thái ngủ hay tình trạng ẩn dật).
Các trứng chuột chưa thụ tinh được dùng để nhận nhân cho. Sau khi loại bỏ nhân, đưa nhân tế bào cho vào trong tế bào trứng bằng tiêm nhân trực tiếp. Nhân của tế bào cho được lấy ngay trong vài phút khi tế bào thân được lấy từ cơ thể chuột. Khác với kỹ thuật Roslin, kỹ thuật Honolulu không nuôi cấy tế bào thân. Sau một giờ, tế bào trứng chấp nhận nhân mới. Trứng được để yên thêm 5-6 giờ nữa rồi đưa vào ủ trong môi trường nuôi cấy hóa học (có chứa chất cytochalasin B) để khởi động tế bào phân chia. Môi trường này có vai trò giống shock điện nhưng diễn ra êm ái hơn và ít gây tổn thương tế bào hơn. Sau khi được khởi động, trứng này sẽ phát triển thành phôi, phôi này sau đó được cấy vào tử cung “mẹ nuôi” cho mang thai và sinh nở bình thường.
Kỹ thuật Honolulu thành công nhất với các tế bào gò trứng (cumulus cell), vì lý do này các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào sử dụng tế bào này. Kỹ thuật Honolulu được cho là ưu việt hơn kỹ thuật Roslin và đã được ứng dụng rộng rãi để nhân bản vô tính các động vật khác.[web5,6]
Một số khác biệt giữa kỹ thuật Roslin và Honolulu
Kỹ thuật Roslin
Kỹ thuật Honolulu
Tế bào cho:
– Là tế bào tuyến vú, cần được đưa về giai đoạn G0.
– Được nuôi cấy nhân lên ngoài cơ thể
Tế bào cho:
– Là tế bào tự nhiên đã ở trạng thái ngủ (giai đoạn G0 hoặcc G1): các tế bào cumulus, tế bào não, tế bào sertoli
– Dùng ngay, không nuôi cấy ngoài cơ thể
– Đưa nhân tế bào cho vào tế bào nhận bằng shock điện
– Đưa nhân tế bào cho vào tế bào nhận bằng tiêm trực tiếp
– Đồng thời với nhận nhân trứng được dòng điện hoạt hóa luôn.
– Trứng sau nhận nhân (“thụ tinh”) được để yên (không có kích thích nào khác) 5-6 giờ để cho phép chấp nhận nhận mới và có thời gian tái lập trình nhân tế bào
– Hoạt hóa tế bào phân chia phát triển thành phôi bằng shock điện
– Hoạt hóa tế bào phân chia phát triển thành phôi bằng ủ trong môi trường hóa học có chứa cytochalasin B.
– Tỷ lệ nhân bản thành công cừu Dolly thấp (1 trong số 277 lần làm)
– Tỷ lệ nhân bản thành công trên chuột rất cao (3 trong số mỗi 100 lần làm)
II. NHÂN BẢN VÔ TÍNH Ở ĐỘNG VẬT
1. Một số thành tựu trong nhân bản vô tính động vật. [3]
1959 – Thỏ ra đời bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
1968 – Edwards và Bavister thụ tinh trứng người trên in vitro.
1979 – Karl Illmensee công bố nhân bản được ba con chuột từ một phôi ban đầu.
1984 – Steen Willadsen nhân bản thành công cừu từ các tế bào phôi bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào phôi.
1986 – Steen Willadsen nhân bản một con bò từ các tế bào phôi một tuần tuổi đã biệt hóa.
1993 – Bò được tạo ra bằng cách chuyển nhân từ các tế bào phôi nuôi cấy
1996 – Ian Wilmut và Keith Campbell ở viện Roslin, Scotland nhân bản thành công cừu Dolly từ các tế bào tuyến vú của một con cừu mẹ. [web5]
H: Tiến sĩ – Ian Wilmut và chú cừu Dolly
1997- các nhà khoa học đã nhân bản được chuột. Cumulina là một loại chuột nhà màu nâu quen thuộc. Cumulina được nhân bản vô tính từ những tế bào trưởng thành tại ĐH Hawaii. Cô chuột mẹ đã sống đến trưởng thành, sinh thêm hai chú chuột con, trước khi lìa đời vào tháng 5/2000.
1998 – Ryuzo Yanagimachi, Toni Perry, và Teruhiko Wakayama ở đại học Hawaii công bố đã nhân bản thành công 50 chuột từ các tế bào đã trưởng thành.
1999 – Khỉ Rhesus cái Tetra được nhân bản bằng phân chia các tế bào phôi sớm
2001- Nỗ lực đầu tiên của các nhà nhân bản học là nhân bản vô tính một loài bò rừng sắp bị tiệt chủng, tên là Noah. Noah đã được nhân bản tại Mỹ, nhưng đã chết sau khi chào đời 48 giờ.[web7]
2002 – Thỏ và mèo được nhân bản từ các tế bào trưởng thành. Chú mèo nhân bản CopyCat đã chào đời vào năm 2002, tại Texas. Với một chú mèo đực bình thường, CopyCat đã làm mẹ của ba chú mèo khác vào tháng 9/2006.
2003 – Cừu Dolly chết ngày 14 tháng 2 năm 2003 vì bệnh phổi và khớp trầm trọng khi được 6 tuổi trong khi một con cừu bình thường sống được 12 năm. Việc nhân bản vấp phải vấn đề lão hóa
5/2003, Chú ngựa tên Prometeap, phiên bản nhân bản vô tính đầu tiên của loài ngựa được sinh ra tại Ý.[web11]
Chú ngựa tên Prometeap sinh tại Ý (Ảnh: BBC)
4/8/2005: nhóm các nhà khoa học Hàn Quốc do Giáo sư Woo Suk Hwang, Seoul National University đứng đầu đã loan báo rằng họ đã tạo dòng thành công 2 chó săn Afghan bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào da trưởng thành vào tế bào trứng chín in vitro.
H: chó săn Afghan sinh ra nhờ nhân bản vô tính
[web 18]
30/11/2006, Nhóm nghiên cứu của TS Bùi Xuân Nguyên, Viện Công nghệ sinh học (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã thành công trong tạo phôi nhân bản vô tính thực hiện trên các loài chuột, trâu, bò, gấu, lợn, khỉ và sao la
2007 – Các nhà khoa học Mỹ đã nhân bản thành công chuột từ tế bào gốc của chuột trưởng thành được lấy từ da của loài gặm nhấm này. [web 16]
H: Hình ảnh chuột nhân bản từ tế bào gốc lấy từ da
11/2008, các nhà khoa học Nhật Bản đã thành công trong việc tạo chuột sống từ mẫu chuột chết cách đó 16 năm [web 21]
H: Mẫu chuột để đông lạnh sau 16 năm
H: Hậu duệ của chuột chết
2008- Các nhà khoa học Anh lần đầu tiên nhân bản được 12 cái phôi từ những con khỉ trưởng thành.
Những bước đột phá công nghệ đã cho phép các nhà khoa học Anh lần đầu tiên nhân bản được 12 cái phôi từ những con khỉ trưởng thành. Công trình nghiên cứu này do Shoukhrat Mitalipov, một nhà khoa học gốc Nga tại Trung tâm Nghiên cứu Động vật Linh trưởng Quốc gia Oregon – tại Beaverton, Anh, chủ trì. [ web 20]
H: Các nhà khoa học Anh lần đầu tiênnhân bản được 12 cái phôi từ những con khỉ trưởng thành. (Ảnh: www.grg.org)
06/08/2008- Hàn Quốc nhân bản thành công chó vô tính Các nhà khoa học thuộc miền Nam Hàn Quốc vừa mới công bố họ đã thành công trong việc nhân bản những chú chó vô tính đầu tiên trên thế giới [web 19]
H: Bà Bernann McKinney ôm trên tay một trong số chú chó nhân bản vô tính (Ảnh: Koreatimes.co.kr)
22/4/2009 các nhà khoa học Hàn Quốc thông báo đã nhân bản vô tính một con lợn để lấy các cơ quan nội tạng đã biến đổi gen cấy ghép cho người
H: Lợn nhân bản để lấy cơ quan nội tạng
2009- Lạc đà nhân bản vô tính đầu tiên trên thế giới
Thành phố Dubai thuộc Các tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất vừa công bố một thành tựu khoa học mới: lạc đà được nhân bản vô tính đầu tiên trên thế giới. [web18]
H: Con lạc đà Injaz chào đời hôm 8/4/2009.
Ti Injaz được nhân bản từ một con lạc đà bị giết lấy thịt năm 2005. Các nhà khoa học đã sử dụng ADN được tách từ tế bào trong buồng trứng của con vật đã chết và cấy ghép ADN đó vào trứng của bà mẹ thay thế để tạo ra phôi. Kết quả kiểm tra cho thấy Injaz mang ADN của con lạc đà đã chết chứ không phải lạc đà mẹ sinh ra nó.
2009- Iran nhân bản vô tính bò
Giám đốc viện Nghiên cứu Hoàng gia Iran, tiến sĩ Mohammed Hossein Nasr E Isfahani cho biết nước này vừa nhân bản thành công một con bò đực có tên Bonyana. Con bò chào đời ngày 11/7 tại thành phố Isfahan, miền trung Iran và là con bò nhân bản vô tính đầu tiên ở khu vực Trung Đông [web 21]
H: Con bò đực được nhân bản vô tính đầu tiên tại Iran có tên Bonyana. (Ảnh: Daylife)
2. Một số quan điểm về nhân bản vô tính động vật:
– Phương pháp này giúp lưu giữ các nguồn gene quí.
– Có ý nghĩa trong nghiên cứu y học.
– Nhân bản các động vật đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Với những thành tựu của nhân bản vô tính, trong tương lai việc phục hồi được một số động vật đã tuyệt chủng là khả năng có thể
– Tạo ra nguồn thực phẩm từ động vật nhân bản vô tính an toàn. Nhân bản động vật cũng có tiềm năng to lớn trong ngành công nghiệp chăn nuôi, cho phép nhân bản các vật nuôi mang các đặc tính quý báu (lợn siêu nạc, bò siêu sữa…).
– Khoảng cách nhân bản vô tính ở động vật đến việc nhân bản con người là một khoảng ngắn
– Dường như chỉ tạo ra những sinh vật có vấn đề về sức khỏe: giảm tuổi thọ, lão hóa sớm…. Năm 2003 cừu Dolly chết do các căn bệnh của tuổi già (viêm khớp và viêm phổi nặng) khi nó được 6 tuổi, trong khi tuổi thọ của một cừu bình thường trung bình là 12. Các nhà khoa học nhận thấy rằng các tế bào cừu Dolly già hơn tuổi của nó đến 6 tuổi. Cừu Dolly được tạo ra từ một con cừu 6 tuổi, như vậy khi được sinh ra, bộ gen của cừu Dolly đã không đặt lại đồng hồ sinh học về 0 mà vẫn ghi nhớ tuổi của nó trước đây. Như vậy về gen, cừu Dolly là một chú cừu 6 tuổi được sinh ra. Hiện tại nhân bản vô tính đang phải đối mặt với vấn đề lão hóa. Trong khi đó nhân bản từ phôi không gặp phải vấn đề này.
– Tổ chức FAWC (1998) đã liệt kê một số yêu cầu đòi hỏi cần phải có những hiểu biết đầy đủ trước khi tạo dòng ở động vật nhằm bảo vệ các loài động vật.[3,7]
III. NHÂN BẢN VÔ TÍNH Ở NGƯỜI.
1. Nhân bản trị liệu từ tế bào gốc phôi:
1.1 Đặc điểm của tế bào gốc phôi [2]
Tế bào gốc phôi (Embryonic stem cells-ESCs)là các tế bào gốc vạn năng được lấy từ phôi giai đoạn sớm (4-7 ngày tuổi). Ở giai đoạn này phôi có hình cầu và được gọi là phôi túi (blastocyst). Blastocyst có cấu trúc gồm 3 thành phần: Một lớp tế bào bên ngoài (trophoblast), một khoang chứa đầy dịch và một nhóm có khoảng 30 tế bào vạn năng nằm lệch về một cực gọi là khối tế bào bên trong (inner cellmass). Dùng một loại enzyme đặc biệt để phân tách cáctế bào của khối này sẽ thu đượccác tế bào gốc phôi. H: Tế bào gốc phôi
Các mẫu tế bào gốc phôi người hiện đang được nghiên cứu. Một vài nhóm nghiên cứu đang tìm hiểu liệu tế bào gốc phôi người có sở hữu cùng những đặc tính giống tế bào gốc phôi chuột hay không. Do tế bào gốc phôi người chỉ mới được tách trong thời gian gần đây, do đó vốn hiểu biết của chúng ta còn hạn chế về cách thức phân chia nơi tế bào gốc. Tiến hành nghiên cứu trên hệ thống cơ thể con người cũng khó khăn hơn so với chuột. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã và đang đạt được những tiến bộ đáng kể, hầu có thể tìm ra những liệu pháp nhằm thay thế hoặc khôi phục các mô bị hủy hoại, trong việc sử dụng những tế bào gốc này.
Tế bào gốc phôi người còn có thể được thu hoạch nhờ kỹ thuật chuyển nhân (nuclear transfer). Kỹ thuật chuyển nhân tế bào, tỷ dụ tế bào da cũng là một phương thức có tiềm năng tạo ra tế bào gốc phôi.
Ở loài vật, kỹ thuật chuyển nhân được thực hiện bằng cách ghép nhân của tế bào trưởng thành đã biệt hóa, ví dụ tế bào da chẳng hạn, vào trứng đã tách nhân. Trứng đó có chứa chất liệu di truyền của tế bào da, sau đó được kích thích để hình thành phôi bào, rồi sau đó có thể thu hoạch tế bào gốc phôi. Những tế bào gốc được tạo ra theo cách này là những bản sao hay phiên bản vô tính của tế bào trưởng thành ban đầu do ADN4 trong nhân của chúng giống với ADN của tế bào trưởng thành.
H: Nuôi cấy tế bào gốc phôi
Photo courtesyUniversity of Wisconsin Board of Regents
Các tế bào gốc phôi có đặc điểm tốt nhất cho việc nuôi cấy các tế bào gốc do có tính chất:
(i): Các tế bào gốc phôi có tính đa năng, chúng có khả năng biệt hoá thành các loại tế bào khác nhau thuộc ba lớp phôi mầm trừ lớp màng phôi. (ii): Các tế bào gốc phôi có tính “bất tử”. Chúng có thể sinh sôi nhanh chóng trong môi trường nuôi cấy và được duy trì khả năng này khoảng vài trăm lần nhân đôi. Quá trình duy trì khả năng này của các tế bào gốc trong môi trường nuôi cấy là nguồn tạo ra các tế bào chưa biệt hoá. Ở các tế bào gốc trưởng thành, việc này rất khó xảy ra [18,20]:
(iii): Các tế bào gốc phôi duy trì kiểu nhân bình thường và không có bất kì sự thay đổi nào trong cấu trúc Nhiễm sắc thể.
(iv): Các tế bào gốc phôi thể hiện vai trò của protein Oct-4 hay các dấu chuẩn đặc biệt trên bề mặt tế bào.
Tuy các tế bào gốc phôi có thể sinh trưởng trong điều kiện phòng thí nghiệm nhưng cũng không dễ để kiểm soát chúng.
Một ưu điểm của dùng tế bào gốc phôi so với tế bào gốc trưởng thành là các tế bào gốc phôi có khả năng tăng sinh không giới hạn trên in vitro và có khả năng sinh ra nhiều chủng loại tế bào hơn khi được định hướng biệt hóa. Ưu thế này sẽ tăng lên nếu như trong quá trình ghép tế bào/mô, các tế bào gốc phôi không gây kích hoạt quá trình thải ghép do miễn dịch. Có thể tránh tính sinh miễn dịch của các tế bào phát triển từ tế bào gốc phôi người bằng chuyển gen cơ thể nhận vào các tế bào gốc phôi làm cho chúng mang các phân tử kháng nguyên hòa hợp tổ chức (MHC) lớp I của cơ thể nhận, hoặc bằng kỹ thuật chuyển nhân để tạo ra các tế bào gốc phôi đồng nhất về gen với người nhận mô ghép.
Nhược điểm của dùng tế bào gốc phôi cho ghép trị liệu là dễ hình thành các khối u teratoma. Điều này làm cho tế bào gốc phôi chưa được sử dụng trong ghép tế bào gốc trị liệu trên lâm sàng. Hiện đã có một số phương pháp nhằm loại bỏ các tế bào gốc phôi không biệt hóa trước khi ghép cho phép có thể tránh việc hình thành các khối u teratoma trên cơ thể nhận.
So sánh tế bào gốc trưởng thành và tế bào gốc phôi
Tế bào gốc phôi
Tế bào gốc trưởng thành
– Có ở phôi túi (blastocyst) với số lượng lớn
– Có ở các mô trưởng thành, số lượng ít.
– Dễ nuôi cấy nhân tạo.
– Khó nuôi cấy nhân tạo hơn
– Có tính vạn năng cao hơn, dễ tăng sinh trên nuôi cấy in vi tro, cho phép tạo ra lượng lớn.
– Về cơ bản có tính đa năng, có thể có tính vạn năng.
– Gần như bất tử
– Không bất tử, số lần phân chia bị giới hạn
– Nguy cơ tạo các khối u teratoma cao
Vì thế mà tế bào gốc phôi chưa được sử dụng trên lâm sàng. Để tránh tạo khối u, cần định hướng biệt hóa tế bào gốc phôi trước trên nuôi cấy nhân tạo.
– Ít nguy cơ tạo các khối u teratoma
– Do lấy từ một cơ thể khác nên tế bào gốc phôi “lạ” với cơ thể nhận vì thế có nguy cơ gây nên phản ứng thải ghép.
– Không bất đồng miễn dịch, không gây thải ghép nếu là ghép tự thân.
– Nếu ghép cho một người khác thì vẫn bất đồng gây phản ứng thải ghép.
– Không dùng được cho ghép tự thân, trừ trường hợp tế bào gốc tạo ra bằng kỹ thuật nhân bản tạo phôi vô tính.
– Các tế bào gốc của bản thân là nguồn tế bào tốt nhất cho ghép.
1.2 Nguồn lấy tế bào gốc phôi: [web 14]
Tế bào gốc phôi được lấy từ khối tế bào bên trong (inner cell mass) của phôi túi (blastocyst) phát triển từ: – Các phôi tạo nên bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. – Các phôi nhân bản (cloned embryo) tạo nên bằng tách blastosomertrong giai đoạn phôi 2- 4 tế bào, hoặc bằng phân chia blastocyst. – Các phôi nhân bản vô tính tạo nên bằng kỹ thuật chuyển nhân tế bào thân.
1.3 Nuôi cấy tế bào gốc phôi [2]
Đầu tiên, các nhà khoa học cần có túi phôi để lấy các tế bào gốc nội tại bên trong. Khối tế bào gốc này được di chuyển ra đĩa mỏng và thường được phủ với tế bào da ở phôi chuột và các chất dinh dưỡng bổ sung thêm các yếu tố cần cho sự sinh trưởng. Các tế bào này phân chia sau một vài ngày sẽ làm đầy đĩa. Khi đĩa đầy tế bào gốc, chúng sẽ được chuyển sang sang đĩa khác và tiếp tục phân chia. Quá trình này lặp lại khoảng 6 tháng. Sau 6 tháng, từ 30 tế bào ban dầu tạo ra vài triệu tế bào. Những tế bào được sinh ra này là những tế bào có tính vạn năng.
Trong suốt 6 tháng, các thí nghiệm kiểm tra được tiến hành để đảm bảo rằng các tế bào gốc còn khoẻ mạnh và chưa tiến hành biệt hoá. Nếu các tế bào này qua hết các thí nghiệm kiểm tra, chúng được gọi là dòng tế bào gốc phôi. Các nhà khoa học giữ dòng tế bào gốc khỏi sự biệt hoá phát sinh bằng cách kiểm soát các điều kiện cho các tế bào gốc sinh trưởng. Khi chúng cần biệt hoá, các điều kiện này sẽ thay đổi. Để tạo ra dòng tế bào gốc cần cho sự biệt hoá các loại tế bào riêng biệt, các nhà khoa học điều chỉnh thành phần hoá học của môi trường nuôi cấy hay thêm vào các gene đặc biệt
H: Sự biệt hóa của các tế bào gốc phôi
Hiện nay, nghiên cứu tế bào gốc còn gặp rất nhiều khó khăn không những về mặt khoa học (khó nuôi cấy, sự loại thải khi cấy ghép,…) mà còn ở khía cạnh tôn giáo, đao đức xã hội.
1.4. Nhân bản trị liệu (therapeutic cloning)[ web 5]
Nhân bản trị liệu là một chiến lược điều trị bằng tế bào gốc. Nhân bản trị liệu kết hợp các biện pháp thay thế nhân tế bào (nhằm tạo ra các tế bào gốc người “cá thể hóa”), nuôi cấy và làm biệt hóa các tế bào gốc người này và sử dụng chúng vào điều trị. Mục đích của nhân bản trị liệu là tạo ra các mô/tạng phù hợp (khỏe mạnh và không bất đồng miễn dịch) để ghép cho người bệnh.
Quy trình nhân bản trị liệu khởi đầu với các giai đoạn giống hệt nhân bản vô tính. Các tế bào khỏe mạnh được lấy ra từ một bệnh nhân, sau đó nhân tế bào khỏe mạnh này được hút ra và đưa vào một tế bào trứng đã hút bỏ nhân (liệu pháp thay thế nhân tế bào) tạo thành một “phôi vô tính”. Khác với nhân bản vô tính người và động vật, “phôi vô tính” này không được cấy vào tử cung mà được nuôi cấy trên in vitro cho phát triển thành blastocyst. Sau đó thu hoạch và nhân cấy các cụm tế bào gốc phôi vạn năng từ blastocyst và định hướng cho chúng biệt hóa thành các loại tế bào gốc hoặc tế bào trưởng thành cần cho ghép hoặc điều trị. Như vậy biện pháp điều trị này chính là trị liệu bằng tế bào gốc đặc hiệu bệnh nhân (patient-specific stem cell therapy). Mục đích của nhân bản trị liệu là tạo ra một bản sao mô hoặc tạng khỏe mạnh của người bệnh để ghép trở lại cho người bệnh đó. Kỹ thuật này có nhiều điểm ưu việt hơn so với ghép mô/tạng từ một người khác: nguồn cung cấp không bị hạn chế do đó không phải chờ đợi lâu; mô hoặc tạng sẽ mang gen của người bệnh do đó bệnh nhân không phải dùng thuốc ức chế miễn dịch sau ghép trong suốt phần đời còn lại, không có nguy cơ thải ghép.
1.5. Các vấn đề đạo đức và tôn giáo đối với vấn đề nhân bản trị liệu từ tế bào gốc phôi [web 3,4,7]
(i) Sử dụng phôi/thai người là giết chết một con người:
Các quan điểm chống lại việc nghiên cứu tế bào gốc phôi người chủ yếu dựa trên vấn đề tín ngưỡng và quan niệm về việc phá hủy phôi người. Điều tra xã hội của Nisbet M. C. cho thấy năm 2001, 53% dân Mỹ cho rằng sự sống bắt đầu từ lúc thụ thai (4) và cho rằng các nghiên cứu tế bào gốc phôi người là sai lầm về mặt đạo đức. Nhiều ý kiến chống đối cho rằng phôi người phải có nhân quyền, phải được bảo vệ như đối với bảo vệ con người. Tuy nhiên cái nhìn của công chúng về vấn đề nghiên cứu tế bào gốc phôi có thay đổi. Năm 2002 chỉ có 39% và năm 2003 chỉ có 38% số người được phỏng vấn còn cho rằng nghiên cứu phôi người là sai lầm về đạo đức, nhiều người cho rằng các phôi thừa trong quá trình làm thụ tinh nhân tạo điều trị vô sinh thay vì vứt bỏ nên được hiến cho khoa học.
(ii) Công cụ hóa phôi người, biến cuộc sống thành món hàng thương mại:
Nhiều người lo ngại rằng các nghiên cứu tế bào gốc và nhân bản sẽ biến phôi người thành công cụ cho các nghiên cứu y sinh học. Họ lo ngại rằng để chữa bệnh cho một người, ta tạo ra một “bản sao” giống hệt người đó, giết chết sinh linh này để lấy mô/tạng dùng cho “bản gốc”. Khi đó cuộc sống sẽ là món hàng để mua bán.
Các nghiên cứu tế bào gốc phôi người đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Các tế bào gốc phôi có thể được nuôi cấy và dùng công nghệ mô để sản xuất ra các mô/tạng. Nếu không bị ngăn cấm, trong tương lai, kỹ thuật nhân bản vô tính người có thể kết hợp với công nghệ mô (khi đó được biết đến là “kỹ thuật nhân bản trị liệu”) để tạo ra các mô thậm chí các tạng hoàn chỉnh phù hợp hoàn toàn với chính bệnh nhân để sửa chữa, thay thế các mô/tạng tổn thương (chế da cho bệnh nhân bỏng, chế các tế bào não cho tổn thương não, có thể chế tim, phổi, gan, thận cho ghép tạng.) mà không vấp phải các vấn đề thải ghép do bất đồng miễn dịch)
(iii) Nguy cơ xuất hiện các đột biến mới trong quá trình tạo tế bào gốc phôi, trong nuôi cấy và biệt hóa nhân tạo:
Đây là một khả năng hoàn toàn có thể vì tế bào được tạo ra và xử lý can thiệp bởi các hóa chất, dòng điện trong môi trường phòng thí nghiệm. Trong điều kiện đó không thể kiểm soát chính xác được tất cả, vấn đề sai lạc gen hoàn toàn có khả năng xảy ra gây các bất thường về gen. Khi áp dụng điều trị cho con người, có khả năng phát sinh bệnh mới.
(4i) Đối với một số quốc gia [web 20,21]
+ Thụy Điển, Aó, Na Uy, Thụy sĩ, Ba Lan: không có đạo luật nào nghiêm cấm nghiên cứu hay sử dụng tế bào gốc phôi.
+ Đức: cho phép nghiên cứu đối với tế bào nhập khẩu hợp pháp.
+ Úc: vẫn đang bàn cãi gay gắt.
+ Anh: có chính sách rộng rãi và thực tế về vấn đề này. Anh cho phép tạo phôi người để lấy tế bào gốc.
+ Nhật Bản, Canada: cho phép sử dụng tế bào gốc trong 1 giới hạn nhất định.
+ Quecbec: cấm nghiêm ngặt.
+ Mỹ: hiện nay cho phép thực hiện nhưng dưới sự kiểm soát của tổ chức HFEA.
+ Trung Quốc: Nghiên cứu trên tế bào phôi bị cấm nhưng cho phép nghiên cứu tế bào gốc có nguồn gốc từ máu cuống rốn
+ Hiện nay, những quốc gia đầu tư nhiều nhất cho công tác nghiên cứu tế bào gốc là Mỹ, Anh, Hàn Quốc, Trung Quốc, Australia, Israel, Singapore, Argentina, Uruguay và Thụy Điển
+ Một số nước châu Âu cho phép nghiên cứu tế bào gốc là Thụy Sĩ, Phân Lan, Hy Lạp và Hà Lan.
+ Một số nước có những qui định cho phép nhân bản để phục vụ nghiên cứu y học là Anh, Bỉ, Singapore và Nhật.
+ Mới đây Brazil cũng đã phê chuẩn luật về sử dụng tế bào gốc trong nghiên cứu.
+ Hàn Quốc thực hiện nhân bản phôi thai người. Các nhà khoa học Hàn Quốc đã nhân bản được 30 phôi thai con người với hy vọng một ngày gần đây sẽ tách ra tế bào để có thể chữa các bệnh nan y. Giáo sư Woo Suk Hwang thuộc Viện Đại học quốc gia Hàn Quốc và các đồng sự đã lấy di thể của các tế bào bình thường của một số phụ nữ tình nguyện và cấy trở lại vào noãn sào của họ.
+ Nhật Bản cho phép nhân bản phôi người để nghiên cứu
Dự luật cho phép việc nhân bản phôi người một cách hạn chế nhằm mục đích nghiên cứu khoa học vừa được Uỷ ban khoa học và công nghệ thuộc nội các Nhật Bản bỏ phiếu thông qua.
Dự luật này sẽ cho phép các nhà nghiên cứu sử dụng và tạo ra các phôi người bằng phương pháp nhân bản vô tính .
2. Nhân bản người2.1. Một số sự kiện về nhân bản vô tính người.[web 5, 6,9]
– Cuối 1998 : các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Kyeonghee (Nam Hàn) tuyên bố họ đã thành công trong việc tạo ra phôi con người bằng kĩ thuật tạo sinh vô tính. Tuy mục tiêu không phải tạo ra một con người, mà chỉ tạo ra những bộ phận của cơ thể để trị bệnh.
– Cuối 12/2002: một công ty sinh học ở Canada, Clonaid, có liên quan mật thiết với một giáo phái kì dị có tên là Rael, tuyên bố họ đã thành công sáng tạo ra một bé gái, được đặt tên Eve, bằng kĩ thuật tạo sinh vô tính.
à Từ khi tin này được lan truyền đi, dư luận thế giới bàn tán một cách mê loạn, từ hoài nghi đến lên án.
– 10/2003: tại Trung Quốc, các bác sĩ thông báo sự thụ thai đầu tiên bằng kỹ thuật “chuyển nhân”. Nhân của trứng của một nữ bệnh nhân vô sinh được cấy vào trong trứng đã được loại bỏ nhân của một phụ nữ khác.
à Vấp phải sự phản đối kịch liệt của người dân.
– 5/2005: Nhóm nghiên cứu người Hàn Quốc của tiến sỹ Hwang Woo-suk khẳng định đã sử dụng các phôi người bắt nguồn từ sinh sản vô tính. Điều này dẫn tới niềm hy vọng tìm ra các phương pháp điều trị mới đối với các bệnh hiện nay vẫn vô phương cứu chữa.
H: Tiến sĩ Hwang Woo-suk
à Các thành viên Ban điều tra của Trường đại học Seoul đã khẳng định ông đã gian lận các kết quả nghiên cứu. Ít nhất 9 trong số 11 dòng tế bào mà ông đã tạo ra trong năm 2005 là đồ chôm chỉa
– Hiện nay, các tổ chức đang ngấm ngầm nghiên cứu về nhân bản vô tính người một cách bí mật. Tuy nhiên chưa có tổ chức nào công khai đưa ra dẫn liệu xác đáng về sự thành công trong nhân bản vô tính ở người. Có thể là do nguyên nhân về mặt đạo đức, lo sợ sự lên án của xã hội.
2.2. Đạo lý sinh học trong nhân bản vô tính người
(i) Đối với 1 số quốc gia và tổ chức của thế giới.[ web 5]
+ UNESCO: khẳng định rằng việc tạo dòng đã xâm phạm quyền cơ bản của con người đối với 1 “tính đồng nhất” cũng như đối với 1 “tương lai mở”.
+ 2/2005: Với 71 phiếu thuận, 35 phiếu chống và 43 phiếu trắng, Ủy ban lập pháp của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tuyên bố kêu gọi “Cần phải ra lệnh cấm nhân bản vô tính con người trên toàn cầu ngay lập tức, hoặc phải thông qua những qui định cấm bạc đãi những người được nhân bản”.
+ Nhật Bản: nếu nhân bản vô tính sẽ bị phạt tối đa 10 năm tù và 90.000 USD.
+ Pháp: chính phủ đang vận động thiết lập lệnh cấm toàn cầu về những nghiên cứu như vậy. Pháp là một trong các quốc gia phản đối mạnh nhất các công nghệ nhân bản.
+ Mỹ: cấm hoàn toàn việc nhân bản vô tính.
+ Nghị viện Úc vừa mới dỡ bỏ lệnh cấm nhân bản vô tính phôi người với mục đích nghiên cứu tế bào gốc. Việc dỡ bỏ lệnh cấm này đã gặp phải sự phản đối từ Thủ tướng Úc và lãnh đạo những đảng đối lập. Lệnh cấm đã được dỡ bỏ sau khi giành được 82 phiếu thuận ở Hạ viện, so với 62 phiếu chống. Trước đó, Thượng viện cũng đã thông qua việc dỡ bỏ lệnh cấm với tỷ lệ phiếu sít sao: 34 phiếu thuận so với 32 phiếu chống. Hồi năm 2002, nghị viện Úc đã thông qua bộ luật đầu tiên về nghiên cứu tế bào gốc. Khi đó các nhà khoa học được sử dụng những phôi người thừa (trong quá trình thụ tinh nhân tạo) để sử dụng vào việc nghiên cứu tế bào gốc nhưng tuyệt đối không được nhân bản vô tính tế bào
Dù nhiều tờ báo và nhiều nhà xã hội học cho rằng nhân bản vô tính là một “tội ác chống nhân loại” nhưng nhiều phòng thí nghiệm vẫn âm thầm tiến hành nhiều kiểu thí nghiệm khác nhau. Người ta đã lợi dụng sự nhập nhằng giữa hai việc nhân bản vô tính người và nhân bản trị liệu để lách luật và hợp pháp hoá hoạt động của mình vì nhiều quốc gia tuy cấm tuyệt đối việc nhân bản vô tính xong lại rất khuyến khích, thậm chí còn đầu tư để phát triển nhân bản vô tính trị liệu.
Thêm vào đó, mặc dù nhân bản vô tính người đã gieo nhiều dông bão tại Bỉ, Pháp, Anh, Italia, Canada, Hà Lan, nhiều bang của Mỹ… nhưng chỉ riêng tại châu Âu vẫn có đến hơn chục quốc gia phủ nhận Hiệp ước chống NBVTN của Liên minh châu Âu trong đó đa phần là các nước Đông Âu. Năm 2008, một công ty của Mỹ đã liên kết với một giáo phái tương lai học để chấp nhận nhân bản một bé gái theo đơn đặt hàng của cặp vợ chồng người Mỹ sau khi đứa con gái 10 tháng tuổi của họ chết trong cuộc phẫu thuật tim với giá 500.000 USD mà không vướng phải bất kỳ một trở ngại nào về mặt pháp luật.
Ở một số quốc gia khác, mặc dù các nhà nghiên cứu NBVTN không dám công khai trong việc tạo ta một bản sao của con người hoàn thiện, vì sợ phải đối đầu với dư luận. Song không vì thế mà họ từ bỏ tham vọng và ước muốn của mình. “Mánh khoé” của họ là tạo ra những cơ thể khác với những nội tạng hoàn hảo hơn, chẳng hạn có tim, phổi gan lành lặn, khoẻ mạnh hơn “bản gốc”. Đại học Stanford của Mỹ hay một số bệnh viện của Thổ Nhĩ Kỳ đang đi theo hướng này. Theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thì bất cứ bệnh viện hay phòng thí nghiệm nào trên thế giới – nếu có đủ dụng cụ và nắm bắt được kỹ thuật – cũng có thể nhân tế bào để cho ra những đứa trẻ nhân bản.
Mới đây, tại một cuộc họp ở Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, bác sĩ Antinori đã tuyên bố hiện có hàng ngàn cặp vợ chồng vô sinh đang tham gia chương trình nhân bản thử nghiệm do ông khởi xướng. Với ông, đây là một cách hữu ích để giúp đỡ các cặp vợ chồng không có khả năng sinh con có thể gìn giữ giống nòi. Bất chấp sự lên án mạnh mẽ của dư luận, vị bác sĩ này vẫn công khai tuyên bố sẽ theo đuổi con đường nghiên cứu của mình đến cùng. Dư luận trong cộng đồng khoa học lo sợ rằng một làn sóng tuyên chiến với lệnh cấm NBVTN của những người cùng chí hướng với Antinori sẽ hình thành. Và như thế việc hàng loạt những em bé nhân bản vô tính sẽ ra đời trong tương lai là điều cực kỳ khó ngăn cản
+Việt Nam: Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/2/2003 “Về sinh con theo phương pháp khoa học”, Điều 6 quy định: “Nghiêm cấm hành vi sinh sản vô tính. Cuối năm 2003, Việt Nam đã có dự án xây dựng một phòng thí nghiệm về nhân bản vô tính (cloning) tại Khu Công nghệ cao Hoà Lạc với kinh phí vài triệu USD.Theo Bộ Khoa học – Công nghệ, liên quan đến cuộc họp của Liên hợp quốc về việc thảo luận và thông qua luật cấm chế tạo phôi người bằng phương pháp nhân bản vô tính
Tóm lại, việc thành công trong nhân bản vô tính đã dấy lên tranh cãi các vấn đề về đạo đức. Pháp luật nhiều nước cấm nhân bản vô tính người. Người ta cho rằng, việc nhân bản vô tính ở người có thể đặt xã hội trước những thảm hoạ khôn lường, nhiều người coi nhân bản vô tính người là tội ác chống lại loài người.
(ii) Đối với ý kiến người dân trên thế giới.[web 17,18]
+ Không ít người cho rằng nhân bản người là một việc làm trái đạo đức. Theo quan điểm của họ, một phôi vô tính là một mầm sống tiềm tàng của con người, nên việc phá hủy một mầm sống như thế là sai trái. Họ cho rằng việc tạo ra phôi vô tính là một vấn đề rất khó chấp nhận về mặt đạo đức.
+ Một cuộc thăm dò ý kiến trong công chúng cho thấy phần lớn (90%) dân Mĩ phản đối việc tạo sinh vô tính.
+ Rudolf Jaenisch: nhà sinh vật học tại Massachusetts Institute of Technology, tuyên bố việc nghĩ tới cloning con người là một hành động vô trách nhiệm. Lý do: có thể sau khi tạo ra, hài nhi đó có vẻ lành mạnh nhưng khi lớn lên chưa biết sức khỏe nó sẽ ra sao. Ông ta kết luận là không nên thử nghiệm con người như thử trên loài vật.
+ Alta Charo: Khoa Trưởng trường Luật tại Wisconsin không tin tưởng là việc sinh sản vô tính người đã thực hiện được. Và nếu có thì đây là một thử nghiệm vô trách nhiệm vì cho tới nay ngay cả thử trên súc vật cũng chưa ai biết có an toàn hay không
(iii) Một số ý kiến phản đối ở nhiều gốc độ khác nhau.[web 17,18,21]
– Kích thích tố từ người được nhờ mang hộ phôi bào sẽ gây ra nhiều ảnh hưởng khác nhau trên sự tăng sinh của phôi bào. Hậu quả là đứa bé có thể sinh non, mang nhiều khuyết tật, bệnh hoạn.
– Chống lại quy luật của tạo hóa, chống lại thuyết “định mệnh”: Tạo hóa quy định quá trình sinh- lão- bệnh- tử của mỗi cơ thể sinh vật. Nhân bản phải chăng cố gắng cưỡng lại định mệnh, chống lại quy luật sinh học để kéo dài sự sống
– Nguy cơ nhân bản vô tính người, tạo ra các rối loạn về trật tự gia đình, xã hội: Nhân bản vô tính có thể chỉ cần một trứng, không cần đến phái nam. Nếu phương pháp này có thể ứng dụng trong con người thì người ta sẽ không cần đến đàn ông trong tương lai, và khi đứa bé ra đời mối quan hệ tình cảm của nó với người cho DNA và gia đình sẽ không bình thường. Chẳng hạn như một đứa bé sinh ra từ một tế bào của người cha thì em bé này sẽ là em của người cha. Đạo lí xã hội và gia đình sẽ bị hỗn loạn.
C. KẾT LUẬN
Có thể nói lĩnh vực nghiên cứu về nhân bản là một ví dụ điển hình về các mâu thuẫn giá trị đạo đức y sinh học và tôn giáo. Một mặt, chúng ta còn phải đối mặt với rất nhiều bệnh tật mà dường như y học đang bó tay, chưa có các biện pháp điều trị hiệu quả như các bệnh do khiếm khuyết di truyền, đái đường, bệnh tự miễn, Parkinson, ghép tạng…. Vấn đề này đòi hỏi y sinh học nghiên cứu tìm ra các phương pháp điều trị mới, yêu cầu này cũng mang tính “thiện” dưới góc độ tôn giáo .
Thành tựu của nghiên cứu nhân bản mở ra hy vọng có được các phương pháp điều trị mới dựa trên ghép tế bào gốc, thay thế gen, tạo nên các mô/tạng ghép phù hợp với người bệnh…. Mặt khác, các nghiên cứu về nhân bản liên quan đến việc sử dụng phôi người và nhân bản người do đó gây ra mối lo ngại về các vấn đề đạo đức và tôn giáo, vấn đề phạm vi và điều kiện cho các nghiên cứu loại này.
Nhân bản vô tính là một thành tựu lớn của nhân loại, mở ra các tiềm năng ứng dụng to lớn trong tương lai của công nghệ sinh học vào nhiều lĩnh vực y sinh học khác nhau. Mặc dù còn nhiều tranh cãi nhưng các nghiên cứu về nhân bản sẽ vẫn phát triển. Nhân bản vô tính người tạo ra các “bản sao” sống là một công việc nguy hiểm, gây rối loạn xã hội nên cần phải ngăn chặn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhanban_vo_tinh_6618.doc