Tiểu luận Chủ nghĩa xã hội khoa học – QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – Lênin VỀ DÂN TỘC – BỘ GIÁO DỤC – Studocu

Mục Lục

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN

KHOA XÃ HỘI – TRUYỀN THÔNG Môn học: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Đề tài:

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Thảo MSSV: 201A160163 Lớp học phần: 203POL10706 Nhóm: 07 STT: 69 Giáo viên: Dương Đức Hưng

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 07 năm 2021

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………………3

PHẦN NỘI DUNG……………………………………………………………………………………..4

I- Nội dung các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc……………..4

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc…………………………………4

2. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc…………………..5

3. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin…………………………………….6

4. Quan hệ dân tộc ở Việt Nam……………………………………………………………….8

II-Vận dụng, liên hệ ở Việt Nam…………………………………………………………….11

1. Thực trạng vấn đề quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay………………………..11

2. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng……………………………………………..13

PHẦN KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………20

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………………….21

BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ……………………………………………………………………….22

PHẦN MỞ ĐẦU

Trong học phần “Chủ nghĩa xã hội khoa học”, ta đã được tìm hiểu nhiều về các vấn đề xã hội như sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ, liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,… Mỗi chương bài học gắn liền với tình hình xã hội cũng như con đường chính trị mà nước ta hướng đến và thực hiện. Vấn đề dân tộc là một trong những điểm quan trọng trong học phần này.

Loài người cùng với chiều dài lịch sử phát triển của nhân loại hình thành các loại hình cộng đồng dân cư từ thấp đến cao. Dân tộc được xem là bậc cao nhất trong quá trình phát triển cộng đồng xã hội của loài người. Trên thế giới có rất nhiều dân tộc cùng sinh sống, tồn tại. Qua hàng nghìn năm vận động, mối quan hệ giữa các dân tộc được xây dựng trong nhiều điều kiện khác nhau và mang những nét đặc trưng cơ bản. Vì vậy, việc nghiên cứu về vấn đề dân tộc trong xã hội là một điều vô cùng cần thiết.

Chủ nghĩa Mác – Lênin đã nghiên cứu vấn đề dân tộc một cách có hệ thống cơ sở khoa học, lý luận sắc bén, đầy đủ nhằm làm rõ vấn đề dân tộc và được ứng dụng vào học tập để học sinh, sinh viên có thể tiếp cận lý luận xã hội một cách chính xác.

Với tất cả những lý do trên, việc nghiên cứu và tổng kết lại kiến thức sau một kỳ học tập môn “Chủ nghĩa xã hội khoa học” là điều rất quan trọng. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc và vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay” để làm vấn đề nghiên cứu.

PHẦN NỘI DUNG

I-Nội dung các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc

1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người, trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc.

  • -Thị tộc là hình thức cộng đồng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người, bao gồm tập hợp một số người cùng chung huyết thống và có ràng buộc về kinh tế (quan hệ sản xuất). Các quan hệ sản xuất bao gồm quyền sở hữu công cộng về các tư liệu sản xuất (như đất đai, đồng cỏ, rừng núi, sông ngòi, công cụ sản xuất…). Các thành viên trong thị tộc cùng lao động chung, sử dụng các công cụ lao động chung và hưởng thụ sản phẩm làm ra theo lối bình quân.
  • -Bộ lạc là một hình thức tổ chức xã hội theo kiểu nhóm xã hội trong lịch sử phát triển của loài người. Bộ lạc nguyên thủy là tập hợp dân cư được tạo thành từ nhiều thị tộc do có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ hôn nhân liên kết với nhau, trong đó có một thị tộc gốc tạo thành bộ lạc gọi là bào tộc.
  • -Bộ tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng dân cư được hình thành từ sự liên kết của nhiều bộ lạc và liên minh các bộ lạc trên cùng một vùng lãnh thổ nhất định và thường có quan hệ máu mủ nhất định (huyết tộc). Đứng đầu một bộ tộc thường là một tộc trưởng hay tộc chủ.
  • -Dân tộc là một hình thức tổ chức xã hội cộng đồng phát triển nhất theo lịch sử phát triển của xã hội loài người. Dân tộc là một cộng đồng người chia sẻ ngôn ngữ, văn hóa, sắc tộc, nguồn gốc hoặc lịch sử.

    Khái niệm dân tộc thường được dùng với hai nghĩa:

    Xét về nghĩa thứ nhất, dân tộc hay quốc gia dân tộc là cộng đồng người ổn định, bền vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, là cộng đồng chính trị – xã hội có những đặc trưng cơ bản sau đây:

  • -Có chung phương thức sinh hoạt kinh tế là đặc trưng quan trọng nhất và là cơ sở để liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tảng vững chắc.
  • -Có lãnh thổ chung ổn định không bị chia cắt là địa bàn sinh tồn, phát triển của cộng đồng dân tộc.
  • -Có sự quản lý của một nhà nước, nhà nước – dân tộc độc lập.
  • -Có ngôn ngữ chung của quốc gia là công cụ giao tiếp trong cộng đồng xã hội (bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết)
  • -Có nét tâm lý biểu hiện qua nền văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng.

    Ví dụ: Các quốc gia dân tộc như Việt Nam, Nga, Mỹ, Ba Lan,…

  • Xét về nghĩa thứ hai, dân tộc là một tộc người, là cộng đồng người cụ thể có những mối liên hệ chặt chẽ, bền vững, được hình thành lâu dài trong lịch sử và có ba đặc trưng cơ bản như sau:

  • -Cộng đồng về ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết; hoặc chỉ riêng ngôn ngữ nói). Đây là tiêu chí cơ bản để phân biệt các tộc người khác nhau và là vấn đề luôn được các dân tộc tôn trọng và gìn giữ.
  • -Cộng đồng về văn hóa. Văn hóa bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể ở mỗi tộc người phản ánh truyền thống, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của tôc̣ người đó. Trong sinh hoạt văn hóa có những nét đặc thù so với những cộng đồng khác. Đặc biệt, lịch sử phát triển của các tôc ngườị gắn liền với truyền thống văn hóa của họ.
  • -Ý thức tự giác tôc̣ người là tiêu chí quan trọng nhất để phân định môṭ tôc̣ người và có vị trí quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi tôc̣ người. Đặc trưng nổi bâṭ là các tôc̣ người tự ý thức về nguồn gốc, tôc̣ danh của dân tôc̣ mình; còn là ý thức tự khẳng định sự tồn tại và phát triển của mỗi tôc̣ người dù cho có những tác đông̣ làm thay đổi địa bàn cư trú, lãnh thổ, hay tác đông ảnh hưởng của giao lưu kinh tế, văn hóa…̣
  • Ví dụ: Việt Nam ta có 54 dân tộc anh em như dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Chăm, Hmông, Pa cô,…

    Như vậy, xét về nghĩa thứ nhất, dân tộc là toàn bộ nhân dân một nước, là quốc gia dân tộc, còn theo nghĩa thứ hai thì dân tộc là bộ phận của một quốc gia, là cộng đồng xã hội theo nghĩa là các tộc người. Thực chất, hai vấn đề này tuy khác nhau nhưng lại gắn bó rất mật thiết với nhau và không thể tách rời nhau.

    2. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển quan hệ dân tộc

    Nghiên cứu về dân tộc và phong trào dân tộc trong chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã phân tích và chỉ ra hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc:

    Xu hướng thứ nhất, cộng đồng dân cư muốn tách ra để hình thành cộng đồng dân tộc độc lập. Nguyên nhân là do sự chín muồi về ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về quyền sống của mình, các cộng đồng dân cư đó muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Xu hướng này biểu hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc để tiến tới thành lập quốc gia dân tộc độc lập và có tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản.

    Xu hướng thứ hai, các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiêp lạị với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của giao lưu kinh tế, văn hóa trong chủ nghĩa tư bản đã tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế mở rộng giữa các dân tộc, xóa bỏ sự biệt lập, khép kín, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.

    Trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc, sự vận động của hai xu hướng trên gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Xu hướng các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng bị chủ nghĩa đế quốc phủ nhận, thay vào đó là những khối liên hiệp với sự áp đặt, thống trị của chủ nghĩa đế quốc nhằm áp bức, bóc lột các dân tộc còn nghèo nàn và lạc hậu.

    Khi nghiên cứu về dân tộc, quan hệ dân tộc và những xu hướng phát triển của nó, chủ nghĩa Mác -Lênin khẳng định rằng, chỉ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, khi tình trạng áp bức giai cấp, tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu thì tình trạng áp bức dân tộc cũng bị xóa bỏ.

    Trong thời đại ngày nay, hai xu hướng này diễn ra với những biểu hiêṇ rất đa dạng và phong phú.

    Ngày nay, xu hướng xích lại gần nhau thể hiêṇ ở sự liên minh của các dân tôc̣ trên cơ sở lợi ích chung về kinh tế, về chính trị, văn hoá, quân sự… để hình thành các hình thức liên minh đa dạng, như liên minh khu vực: ASEAN, EU…

    Tóm lại, dân tộc và quan hệ dân tộc trong tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa là một nội dung quan trọng trong toàn bộ nội dung của sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Xã hội mới từng bước tạo ra những điều kiện để xây dựng quan hệ hợp tác giữa các dân tộc. Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc gắn với sự phát triển của cả cộng đồng các dân tộc. Sự tăng cường tính thống nhất các dân tộc trở thành một quá trình hợp quy luật. Tuy nhiên, tính cộng đồng chung, tính thống nhất vẫn trên cơ sở giữ gìn và phát huy tinh hoa, bản sắc của từng dân tộc.

    3. Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin

    Dựa vào kinh nghiêṃ của phong trào cách mạng thế giới và thực tiễn cách mạng Nga trong viêc̣ giải quyết vấn đề dân tôc̣ những năm đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã khái quát Cương lĩnh dân tôc̣ như sau: “Các dân tôc̣ hoàn toàn bình đẳng, các dân tôc̣ được quyền tự quyết, liên hiêp̣ công nhân tất cả các dân tôc lại”.̣

    Một là: Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.

    Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc, không phân biệt dân tộc lớn hay nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp. Các dân tộc đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

    Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế, trong đó việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.

    Trong quan hệ giữa các quốc gia – dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ quốc tế.

    Quyền bình đẳng giữa các dân tôc̣ là cơ sở để thực hiêṇ quyền dân tôc̣ tự quyết và xây dựng mối quan hê ̣ hữu nghị, hợp tác giữa các dân tôc. ̣

    Hai là: Các dân tộc được quyền tự quyết.

    Đó là quyền làm chủ của các dân tôc,̣ tự quyết định lấy vâṇ mênḥ của dân tôc̣ mình, quyền tự lựa chọn chế đô ̣ chính trị và con đường phát triển kinh tế – xã hội của dân tôc̣ mình.

    Quyền tự quyết dân tôc̣ bao gồm quyền tách ra thành lâp̣ môṭ quốc gia dân tôc̣ đôc̣ lâp,̣ đồng thời có quyền tự nguyêṇ liên hiêp̣ với dân tôc̣ khác trên cơ sở bình đẳng.

    Quyền tự quyết dân tộc không đồng nhất với quyền của các dân tộc thiểu số trong một quốc gia đa tộc người, thủ đoạn của các thế lực phản động lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, hoặc kích động đòi li khai dân tộc.

    Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc, cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân: ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại những mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc.

    Ba là: Liên hiêp công nhân tấṭ cả các dân tộc

    Liên hiêp̣ công nhân các dân tôc̣ phản ánh sự thống nhất giữa giải phóng dân tôc̣ và giải phóng giai cấp; phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa tinh thần của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế chân chính.

    Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp giải phóng dân lộc. Nó có vai trò quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây cũng là yếu tố tạo nên sức mạnh bảo đảm cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

    Cương lĩnh dân tôc̣ của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lý luâṇ quan trọng để các Đảng công ̣ sản vân ̣ dụng thực hiên ̣ chính sách dân tôc ̣ trong quá trình đấu tranh giành đôc lậ p dân tộ c và xây dựng chủ nghĩạ xã hôi.̣

    4. Quan hệ dân tộc ở Việt Nam

    Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, được xem như một đại gia đình gồm 54 dân tộc anh em sinh sống khắp nơi trên toàn lãnh thổ, từ miền núi đến miền xuôi, từ vùng đồng bằng đến miền duyên hải.

    Về ngôn ngữ, Việt Nam có ngôn ngữ chung là tiếng Việt – chữ Quốc ngữ. Bên cạnh đó, các dân tộc thiểu số khác có ngôn ngữ riêng của dân tộc mình vẫn được giữ gìn, lưu truyền cho các thế hệ con cháu. 54 dân tộc sinh sống tại Việt Nam chia theo ngôn ngữ thì có 8 nhóm gồm: nhóm Việt -Mường ( ngữ hệ Nam Á), nhóm Tày – Thái, nhóm Kadai, nhóm Môn – Khmer, nhóm H’mông – Dao, nhóm Nam đảo, nhóm Hán, nhóm Tạng – Miến.

    Với nhiều nét đa dạng trong văn hóa, lối sống, xã hội, dân tộc Việt Nam có những đặc điểm nổi bật như sau:

    Thứ nhất: Có sự chênh lêch vệ̀ số dân giữa các tộc người.

    Dân tộc chiếm đa số là dân tộc Kinh ( 86% tổng dân số), các dân tộc còn lại chỉ chiếm 14% tổng dân số, phân bố rải rác trên phạm vi cả nước. Tỷ lê ̣ số dân giữa các dân tôc̣ cũng không đồng đều, có dân tôc̣ với số dân lớn hơn 1 triêụ người (Tày, Thái, Mường, Khmer, H’mông, Nùng…), nhưng có dân tôc̣ với số dân chỉ vài ba trăm (Si la, Pu péo, Rơ măm, Brâu, Ơ đu). Với số liệu được thống kê chi tiết cùng với tình hình thực tế cho thấy một số dân tộc chỉ có đến vài trăm người sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức đời sống thường ngày, việc bảo tồn tiếng nói và văn hóa dân tộc cũng như việc duy trì và phát triển nòi giống. Vì vậy, việc phát triển số dân hợp lý cho các dân tộc thiểu số, đặc biệt là một số dân tộc thiểu số rất ít người đang được Đảng và Nhà nước quan tâm, hỗ trợ hết mức thông qua các chính sách tiến bộ giúp đỡ các dân tộc thiểu số này.

    Thứ hai: Các dân tộc cư trú xen kẽ nhau.

    Nước ta với bề dày lịch sử hình thành cùng với sự giao lưu các nước trong khu vực nên đã trở thành nơi chuyển cư của nhiều dân tôc̣ ở khu vực Đông Nam Á. Tính chất chuyển cư như vâỵ đã tạo nên bản đồ cư trú của các dân tôc̣ trở nên phân tán, xen kẽ và làm cho các dân tôc̣ ở Viêṭ Nam không có lãnh thổ tôc̣ người riêng. Vì vây,̣ không có môṭ dân tôc̣ nào ở Viêṭ Nam cư trú tâp trung và duy nhấṭ trên môṭ địa bàn.

    Đặc điểm này môṭ mặt tạo điều kiêṇ thuâṇ lợi để các dân tôc̣ tăng cường hiểu biết lẫn nhau, mở rông̣ giao lưu giúp đỡ nhau cùng phát triển và tạo nên môṭ nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Mặt khác, do có nhiều tôc̣ người sống xen kẽ nên trong quá trình sinh sống cũng dễ nảy sinh mâu thuẫn, xung đôt,̣ tạo kẽ hở để các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tôc̣ phá hoại an ninh chính trị và sự thống nhất của đất nước.

    Trong thời đại hiện nay, các dân tộc trong nước cùng với sự dẫn dắt của Nhà nước đã trở thành một thể thống nhất hữu cơ giữa các dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày càng được củng cố.

    Thứ ba: Các dân tộc thiểu số ở Viêṭ Nam phân bố chủ yếu ở địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng.

    Mặc dù chỉ chiếm 14% dân số, nhưng 53 dân tôc̣ thiểu số Viêṭ Nam lại cư trú trên ¾ diêṇ tích lãnh thổ và ở những vị trí trọng yếu của quốc gia cả về kinh tế, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái – đó là vùng biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa của đất nước. Môṭ số dân tôc̣ có quan hê ̣dòng tôc̣ với các dân tôc̣ ở các nước láng giềng và khu vực. Ví dụ: dân tôc̣ Thái, dân tôc̣ H’mông, dân tôc̣ Khmer, dân tôc̣ Hoa… do vây,̣ các thế lực phản đông̣ thường lợi dụng vấn đề dân tôc̣ để chống phá cách mạng Viêṭ Nam.

    Đây là một trong những vấn đề đáng lo ngại của Đảng và Nhà nước cần phải khắc phục triệt để “ý nghĩ thù địch, phản động” không có cơ sở. Vì thế, Nhà nước rất mực quan tâm đến đời sống của người dân sống tại các vùng biên giới, mở các lớp học dạy chữ, nâng cao kiến thức và ý thức cho các làng bản, tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân…

    Thứ tư: Các dân tộc ở Viêṭ Nam có trình độ phát triển không đều

    Các dân tôc̣ ở nước ta còn có sự chênh lêcḥ khá lớn về trình đô ̣ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hôi.̣ Về phương diêṇ xã hôi,̣ trình đô ̣ tổ chức đời sống, quan hê ̣ xã hôị của các dân tôc̣ thiểu số khác nhau. Về phương diêṇ kinh tế, có thể phân loại các dân tôc ̣ thiểu số Viêṭ Nam ở những trình đô ̣ phát triển rất khác nhau: Môṭ số ít các dân tôc̣ còn duy trì kinh tế chiếm đoạt, dựa vào khai thác tự nhiên; tuy nhiên, đại bô ̣ phâṇ các dân tôc̣ ở Viêṭ Nam đã chuyển sang phương thức sản xuất tiến bô,̣ tiến hành công nghiêp̣ hóa, hiêṇ đại hóa đất nước. Về văn hóa, trình đô ̣dân trí, trình đô ̣chuyên môn kỹ thuâṭ của nhiều dân tôc thiểu số còṇ thấp.

    Thứ năm: Các dân tộc Viêṭ Nam có truyền thống đoàn kết gắn bó lâu đời trong cộng đồng dân tộc – quốc gia thống nhất

    Đây là đặc trưng vô cùng quan trọng và thể hiện được tinh thần yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam ta bao đời nay. Đặc trưng này được hình thành qua quá trình cải biến tự nhiên là đời sống con người gắn với nền kinh tế trồng lúa nước (một kết cấu nông thôn bền chặt đã sớm xuất hiện) và nhu cầu phải hợp sức, hợp quần để cùng đấu tranh chống ngoại xâm nên dân tôc̣ Viêṭ Nam đã hình thành từ rất sớm và tạo ra đô ̣kết dính cao giữa các dân tôc.̣

    Đoàn kết dân tôc̣ trở thành truyền thống quý báu của các dân tôc̣ ở Viêṭ Nam, là môṭ trong những nguyên nhân và đông̣ lực quyết định mọi thắng lợi của dân tôc̣ trong các giai đoạn lịch sử; đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược để giành đôc̣ lâp thống nhấṭ Tổ quốc. Bên cạnh những mặt tích cực, nước ta vẫn có đối mặt với hiện tượng tiêu cực trong quan hệ dân tộc. Các thế lực thù địch, phản động dùng nhiều âm mưu, thủ đoạn để chia rẽ và can thiệp vào nội bộ nước nhà. Vì vậy, để thực hiêṇ thắng lợi chiến lược xây dựng và bảo vê ̣ vững chắc Tổ quốc Viêṭ Nam, các dân tôc̣ thiểu số cũng như đa số đều dốc sức phát huy nôị lực, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết dân tôc,̣ nâng cao cảnh giác, kịp thời đâp̣ tan mọi âm mưu và hành đông̣ chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tôc.̣

    Thứ sáu: Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của nền văn hóa Viêṭ Nam thống nhất.

    Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa bản sắc văn hóa, mang nhiều sắc thái độc đáo riêng biệt của mỗi dân tộc góp phần làm cho nền văn hóa Viêṭ Nam thống nhất trong đa dạng. Đặc trưng của sắc thái văn hóa dân tộc bao gồm ngôn ngữ, tiếng nói, văn hóa, nghệ thuật, tình cảm dân tộc, y phục, phong tục tập quán, quan hệ gia đình dòng họ…. Sự thống nhất đó có được là nhờ vào lịch sử dựng nước và giữ nước tiếp nối nhiều thế hệ hình thành nên một quốc gia độc lập, tự do, hạnh phúc của ngày hôm nay.

    II-Vận dụng, liên hệ ở Việt Nam

    1. Thực trạng vấn đề quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay

    Mặc dù Việt Nam ủng hộ Tuyên bố về quyền của người bản địa (UNDRIP), Chính phủ không đồng nhất khái niệm người dân tộc thiểu số với người bản địa. Thay vào đó, Chính phủ dùng thuật ngữ “dân tộc thiểu số” để chỉ chung cho những người không thuộc dân tộc Kinh, thể hiện chủ trương “thống nhất trong đa dạng” của Chính phủ.

    Giữa các dân tộc thiểu số cũng có rất nhiều điểm khác biệt. Trong số đó, người Hoa (dân tộc Hán) có nhiều đặc điểm văn hóa tương đồng với văn hóa Việt Nam, họ cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, người Hoa thường không được ghi nhận là một “dân tộc thiểu số” ở Việt Nam dù tổng số người dân tộc Hoa chỉ đứng ở vị trí thứ 5~6 trong bảng thống kê dân số.

    a) Địa bàn sinh sống của các dân tộc thiểu số

    Đồng bào các dân tộc thiểu số thường tập trung vào các vùng núi và vùng sâu vùng xa, tuy nhiên họ cũng phân bố rải rác trên toàn lãnh thổ Việt Nam do chiến tranh và nhập cư. Các dân tộc thiểu số sinh sống ở khu vực thành thị thường sung túc hơn các dân tộc thiểu số sống ở khu vực nông thôn. Nhiều làng, xã có tới 3-4 dân tộc thiểu số khác nhau cùng sinh sống. Vị trí địa lý đóng một vai trò quan trọng trong các tập tục văn hóa của các dân tộc thiểu số, song cũng đồng thời tạo ra những rào cản trong việc tiếp cận cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công như y tế và giáo dục.

    Khả năng tiếp cận cơ sở vật chất cơ bản tại những địa bàn người dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu vẫn còn hạn chế. 72% dân tộc thiểu số không có nhà vệ sinh đạt chuẩn, và hơn ¼ số hộ dân tộc thiểu số không được tiếp cận với nguồn nước hợp vệ sinh. Tỉ lệ hộ có điện sinh hoạt tương đối cao ở Việt Nam, tuy nhiên phần lớn các hộ sinh sống tại khu vực nông thôn và vùng núi chưa được sử dụng điện lưới, gây nên tình trạng mất cân đối trong đời sống đồng bào dân tộc thiểu số.

    Tuy còn thiếu thốn về điều kiện giáo dục so với đồng bào Kinh, các dân tộc thiểu số đều có đại diện với vai trò cán bộ và công chức trong các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp tỉnh và thành phố. Tuy nhiên, trình độ văn hóa, đặc biệt là tỷ lệ biết chữ có khác biệt lớn giữa các nhóm dân tộc thiểu số. Tỷ lệ trung bình cho 53 dân tộc thiểu số là 79,8%, tuy nhiên con số này biến thiên từ mức thấp nhất là 34,6% với dân tộc La Hủ, tới cao nhất là các dân tộc Thổ, Mường, Tày và Sán Dìu đạt 95%. Tỷ lệ người lao động là dân tộc thiểu số đã qua đào tạo bằng 1/3 của cả nước.

    Một trong những rào cản của giáo dục ở vùng cao chính là khoảng cách địa lý. Nhiều học sinh người dân tộc thiểu số phải đi một quãng đường xa để tới trường phổ thông, thường rơi vào khoảng từ 9 km thậm chí lên tới 70 km. Thêm vào đó, người được đi học chủ yếu vẫn là nam giới, do tư tưởng lỗi thời “trọng nam khinh nữ” vẫn còn tồn tại ở đồng bào dân tộc thiểu số.

    b) Văn hóa, đời sống, kinh tế của các dân tộc thiểu số

    Đối với các dân tộc thiểu số sống ở vùng cao, rừng đóng vai trò quan trọng tới đời sống kinh tế của người dân. Người H’mông, Thái, Dao đỏ, Vân Kiều, Ja Rai, Ê Đê, và Ba Na sinh sống trên nhiều tỉnh thành trên cả nước vẫn nương tựa vào rừng cộng đồng. Họ có những khu rừng thiêng phục vụ mục đích về tâm linh tín ngưỡng cũng như người Kinh có đền thờ và nhà thờ dòng họ. Luật tục cũng quy định những khu rừng đầu nguồn, rừng nguồn nước nơi người dân thờ Thần Nước. Ngoài ra còn có các khu rừng khai thác sản phẩm chung của cả làng bản, ví dụ như dược liệu, củi, và vật liệu để làm đồ thủ công. Hình thức quản lý rừng truyền thống theo cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong phong tục tập quán cũng như sinh kế của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam.

    Ngoài sản xuất lâm nghiệp, sản xuất nông nghiệp là sinh kế với nhiều dân tộc thiểu số. Cả hai hình thức canh tác lâm nghiệp và nông nghiệp đều cần có đất. Tuy nhiên các dân tộc thiểu số vẫn còn gặp nhiều khó khăn về quyền đất đai để duy trì hoạt động sản xuất và sinh hoạt văn hóa. Trong nỗ lực bảo vệ sinh kế và khuyến khích bảo vệ môi trường, một số cộng đồng đã được chính phủ giao đất để họ tiếp tục quản lý rừng truyền thống theo cộng đồng. Tuy nhiên, việc làm này chưa được phổ biến rộng rãi. Năm 2015, chỉ có 26% tổng diện tích đất rừng được giao cho các hộ, và chỉ có 2% được giao cho cộng đồng quản lý. Thêm vào đó, mặc dù Luật Đất đai thừa nhận quyền sở hữu đất đai theo luật tục, đất đai phần lớn vẫn thuộc sự quản lý của Chính phủ, và Luật Dân sự không thừa nhận cộng đồng như một pháp nhân.

    Mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhằm cải thiện bất bình đẳng giới ở Việt Nam, vấn đề này vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng đặc biệt tới cộng đồng dân tộc thiểu số. Cần có nhiều chương trình cụ thể hơn hướng tới đối tượng phụ nữ dân tộc thiểu số. Ví dụ, liên quan tới đất đai cần có những biện pháp để giúp cải thiện sự chủ động và tự tin cho phụ nữ dân tộc thiểu số. Một ví dụ khác, để tăng cường tiếp cận các dịch vụ y tế và chăm sóc sức khỏe sinh sản, giáo dục và các dịch vụ khác cần được cung cấp dưới hình thức dễ tiếp cận, nhất là về ngôn ngữ vì phần lớn người dân tộc thiểu số không nói tiếng Việt, và phụ nữ dân tộc thiểu số có tỷ lệ biết chữ thấp hơn so với nam giới.

    2. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng

  • a) Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về dân tộc và giải quyết quan hệ dân tộc

    Trong mỗi thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước ta coi viêc̣ giải quyết đúng đắn vấn đề dân tôc̣ là nhiêṃ vụ có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng của từng dân tôc̣ và đưa đất nước quá đô ̣lên chủ nghĩa xã hôi. ̣ Đại hôị XII khẳng định: “Đoàn kết các dân tôc có ̣ vị trí chiến lược trong sự nghiêp̣ cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiêṇ cơ chế chính sách, bảo đảm các dân tôc̣ bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết giải quyết hài hòa quan hê ̣ giữa các dân tôc,̣ giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rêṭ trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hôị vùng đồng bào dân tôc̣ thiểu số… Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiêṇ các chủ trương, chính sách dân tôc̣ của Đảng và Nhà nước ở các cấp. Chống kỳ thị dân tôc,̣ nghiêm trị những âm mưu hành đông̣ chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tôc”.̣

    Quan điểm cơ bản của Đảng ta về vấn đề dân tôc̣ thể hiêṇ ở các nôị dung sau:

  • -Vấn đề dân tôc̣ và đoàn kết dân tôc̣ là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiêṇ nay của cách mạng Viêṭ Nam.
  • -Các dân tôc̣ trong đại gia đình Viêṭ Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiêṇ thắng lợi sự nghiêp̣ công nghiêp̣ hóa, hiêṇ đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vê ̣ Tổ quốc Viêṭ Nam xã hôị chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tôc.̣
  • -Phát triển toàn diêṇ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hôị và an ninh -quốc phòng trên địa bàn vùng dân tôc̣ và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hôi,̣ thực hiêṇ tốt chính sách dân tôc;̣ quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đôị ngũ cán bô ̣dân tôc̣ thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tôc̣ thiểu số trong sự nghiêp̣ phát triển chung của công̣ đồng dân tôc̣ Viêṭ Nam thống nhất.
  • -Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế -xã hôị các vùng dân tôc̣ và miền núi, trước hết, tâp̣ trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiêụ quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vê ̣bền vững môi trường sinh thái; phát huy nôị lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tôc,̣ đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước.

    -Công tác dân tôc ̣ và thực hiên ̣ chính sách dân tôc ̣ là nhiêṃ vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành và toàn bô ̣ hê ̣ thống chính trị”.

    Trong lịch sử hào hùng của dân tộc ta, dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số đều cùng chung sức, gắn bó với nhau trải qua biết bao nhiêu trận chiến khốc liệt, vững tin vào cách mạng mà mọi người hướng đến. Những điều đó đã được ghi chép trong các văn kiện lịch sử, được chứng minh trong các tác phẩm văn học nổi tiếng như “Việt Bắc” của Tố Hữu, “Tây Tiến” của Quang Dũng, …

    Ngày nay, chính sách dân tộc của Đảng đã được thể chế bằng Hiến pháp, luật pháp và bằng các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 đã ghi:

    “Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.

    Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

    Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình.

    Nhà nước thực hiện chính sách phát triển mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số” -Điều 5, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, 1992.

    Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Hiến pháp, các bộ luật như Bộ Luật Dân sự, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân,… đều thể hiện rõ quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

    Đồng thời với việc thể chế bằng Hiến pháp và pháp luật, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước được cụ thể hoá trong chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, trong các chương trình, dự án đầu tư phát triển cho vùng dân tộc và miền núi, trong các chính sách, các quy định cụ thể ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội,… đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

  • Bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách dân tộc của Đảng đã được thể hiện ở các Nghị quyết Đại hội Đảng. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: “Thực hiện tốt các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc”.

    Tiếp theo, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đã khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ…”.

    Các quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề dân tộc và giải quyết dân tộc đã được chỉ rõ qua các nội dung quan điểm chính thức cùng với các văn bản quy phạm pháp luật rõ ràng. Điều đó cho thấy Đảng, Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề dân tộc, luôn đặt vấn đề dân tộc vào trong những luận điểm, chính sách cần được cải thiện những mặt tiêu cực và phát huy những mặt tích cực mà trước nay vẫn luôn giữ gìn.

    b) Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Viêṭ Nam phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi

    Chính sách dân tôc̣ cơ bản của Đảng và Nhà nước ta được thể hiêṇ cụ thể ở những điểm sau:

    Về chính trị: thực hiêṇ bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tôc.̣ Chính sách dân tôc̣ góp phần nâng cao tính tích cực chính trị của công dân; nâng cao nhâṇ thức của đồng bào các dân tôc̣ thiểu số về tầm quan trọng của vấn đề dân tôc,̣ đoàn kết các dân tôc,̣ thống nhất mục tiêu chung là đôc̣ lâp̣ dân tôc̣ và chủ nghĩa xã hôi,̣ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

    Về kinh tế: nôị dung, nhiêṃ vụ kinh tế trong chính sách dân tôc̣ là các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế -xã hôị miền núi, vùng đồng bào các dân tôc̣ thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển, từng bước khắc phục khoảng cách chênh lêcḥ giữa các vùng, giữa các dân tôc. ̣ Thực hiêṇ các nôị dung kinh tế thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế ở các vùng dân tôc̣ thiểu số, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hôị chủ nghĩa. Thực hiêṇ tốt chiến lược phát triển kinh tế -xã hôị ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ địa cách mạng.

    Về văn hóa: xây dựng nền văn hóa Viêṭ Nam tiên tiến đâṃ đà bản sắc dân tôc.̣ Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các tôc̣ người, phát triển ngôn ngữ, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, nâng cao trình đô văn hóa cho nhân dân các dân tôc.̣ Đào tạo cán bô ̣ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết chế văn hóa phù hợp với điều kiên củạ các tôc ngườị trong quốc gia đa dân tôc.̣ Đồng thời, mở rông̣ giao lưu văn hóa với các quốc gia, các khu vực và trên thế giới. Đấu tranh chống tê ̣nạn xã hôi, ̣ chống diễn biến hòa bình trên mặt trâṇ tư tưởng- văn hóa ở nước ta hiên nay.̣

    ̣

    Về xã hội: thực hiêṇ chính sách xã hôi,̣ đảm bảo an sinh xã hôị trong vùng đồng bào dân tôc thiểu ̣ số. Từng bước thực hiên ̣ bình đẳng xã hôi, ̣ công bằng thông qua viêc̣ thực hiêṇ chính sách phát triển kinh tế -xã hôi,̣ xóa đói giảm nghèo, dân số, y tế, giáo dục trên cơ sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tôc.̣ Phát huy vai trò của hê ̣ thống chính trị cơ sở và các tổ chức chính trị – xã hôị ở miền núi, vùng dân tôc thiểu số. ̣

    Về an ninh quốc phòng: tăng cường sức mạnh bảo vê ̣ tổ quốc trên cơ sở đảm bảo ổn định chính trị, thực hiêṇ tốt an ninh chính trị, trâṭ tự an toàn xã hôi.̣ Phối hợp chặt chẽ các lực lượng trên từng địa bàn. Tăng cường quan hê ̣ quân dân, tạo thế trâṇ quốc phòng toàn dân trong vùng đồng bào dân tôc̣ sinh sống.

    Xuất phát từ những quan điểm trên, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:

  • -Xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, trong những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn.
  • -Phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng dân tộc. Khuyến khích đồng bào các dân tộc khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
  • -Ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức dân tộc thiểu số.
  • -Kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đa dạng, phong phú, giàu bản sắc dân tộc.
  • Để đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi, nâng cao dần mức sống của đồng bào các dân tộc, trong những năm đổi mới vừa qua và nhất là giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương chính sách ưu tiên đối với đồng bào dân tộc thiểu số một cách đồng bộ và toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Đồng thời, đã triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án đầu tư phát triển trên địa bàn miền núi, vùng đồng bào dân tộc như: Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, Chương trình xoá đói giảm nghèo, Chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135),…

    Với sự quan tâm sâu sắc, chăm lo đầy đủ, cụ thể của Đảng và Nhà nước, cùng với tinh thần nỗ lực, cố gắng của đồng bào các dân tộc, tình hình kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc đã có bước chuyển biến, tiến bộ đáng kể, cuộc sống của bà con dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa được cải thiện rõ rệt, quyền của các dân tộc thiểu số được bảo đảm đầy đủ và toàn diện.

  • c) Những thành tựu cơ bản trong việc thực hiện chính sách dân tộc
  • Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng sự nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc, trong những năm qua, tình hình kinh tế-xã hội vùng dân tộc đã có những chuyển biến quan trọng, quyền bình đẳng giữa các dân tộc ngày càng được thể chế hóa và thực hiện trên thực tế các lĩnh vực của đời sống.

    Các địa phương vùng dân tộc thiểu số và miền núi đều đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bình quân các tỉnh vùng Tây Bắc tăng 8,4%, các tỉnh vùng Tây Nguyên tăng 8,1%, các tỉnh vùng Tây Nam Bộ tăng 7,3%. Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn giảm bình quân 3-4%/ năm. Đây là những con số biết nói đã thể hiện được mặt tích cực trong đời sống người dân ở các vùng dân tộc nghèo khó thông qua các chính sách ưu tiên của Nhà nước.

    Bên cạnh đó, việc ưu tiên đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội thiết yếu đã có nhiều điểm khởi sắc như: giao thông, nước dùng trong sinh hoạt và sản xuất, điện, thông tin liên lạc, trạm xá, trường học, cơ sở y tế đã làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn tại các vùng quê nghèo, vùng dân tộc thiểu số sống tại miền núi.

    Ðến nay đã có 98,4% số xã có đường ô tô đến trung tâm; hơn 98% số hộ dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới quốc gia;hơn 90% số xã được phủ sóng phát thanh, truyền hình; 100% số xã có hạ tầng viễn thông; 100% số xã có trường lớp mầm non, tiểu học, trung học cơ sở; 99,3% số xã có trạm y tế.

    Sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo nhân lực cho các dân tộc thiểu số có nhiều tiến bộ. Các trẻ em đã được đến trường học tập, vui chơi. Nhà nước khuyến khích cùng với các chính sách đãi ngộ thiết thực dành cho các giáo viên tình nguyện lên vùng cao dạy học. Bước đầu đã đạt nhiều thành tựu trong việc xóa nạn mù chữ, phổ cập kiến thức cho người dân tộc thiểu số.

    Đời sống văn hóa, tinh thần của các dân tộc thiểu số có nhiều khởi sắc , các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống vẫn được giữ gìn, bảo tồn và phát triển. Đồng thời, các tập tục lạc hậu, lỗi thời, vô nhân đạo ở một số dân tộc thiểu số đã được bãi bỏ.

    Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe vùng dân tộc thiểu số được cải thiện, góp phần nâng cao sức khỏe, thể trạng và chất lượng dân số.

    Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong vùng dân tộc và miền núi có chuyển biến tốt, dịch vụ trợ giúp pháp lý đang tiếp cận với người dân.

    Bình đẳng giới từng bước được tạo lập giúp người phụ nữ nâng cao nhận thức, vươn lên phát huy vai trò của bản thân trong gia đình và xã hội.

    Trong thời chiến, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta có tác dụng cổ vũ, khích lệ tinh thần cách mạng của đồng bào dân tộc thiểu số kháng chiến, làm nên thắng lợi lịch sử của dân tộc, thì trong thời kỳ đổi mới, chính sách ấy có ý nghĩa củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tạo ra khối sức mạnh tổng hợp để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ổn định tình hình an ninh, chính trị của đất nước.

    d) Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng và thực thi chính sách dân tộc trong thời gian tới

    Từ nhu cầu thực tiễn của công tác dân tộc, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc trong tình hình hiện nay. Để làm tốt nhiệm vụ này, cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

    Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, nhất là Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12-3-2003, của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, “Về công tác dân tộc”; Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị, về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới” và Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14-1-2011, của Chính phủ, “Về công tác dân tộc”.

    Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân tộc thiểu số tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc. Đặc biệt động viên, khuyến khích đồng bào phát hiện những điểm chưa hợp lý, chưa phù hợp trong các chính sách dân tộc để kiến nghị với các cấp xây dựng và hoàn thiện các chính sách dân tộc.

    Hai là, hoàn thiện các văn bản pháp luật về vấn đề dân tộc, công tác dân tộc, trong đó sớm xây dựng và ban hành Luật Dân tộc. Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc từ Trung ương đến địa phương; đào tạo, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác dân tộc ở các cấp.

    Ba là, xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách dân tộc phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế -xã hội, đặc trưng văn hóa của từng vùng, miền, đặc điểm của từng dân tộc, từng địa phương. Trong tổ chức thực hiện các chính sách dân tộc cần có sự phân loại cụ thể để thực hiện có trọng điểm, hiệu quả, dứt điểm, nhất là đối với những chính sách quan trọng, cấp bách, phù hợp với khả năng tiếp nhận và sự chuẩn bị ở mỗi dân tộc, mỗi địa phương, đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

    Bốn là, nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách dân tộc là công việc quan trọng, cơ bản, thường xuyên, lâu dài, đòi hỏi phải được tiến hành có lộ trình, kiên trì, nhất quán và không ngừng đổi mới, hoàn thiện. Các chính sách dân tộc được xây dựng và ban hành phải là động lực trực tiếp thúc đẩy bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc và phát huy vai trò, tiềm năng thật sự của mỗi dân tộc.

    PHẦN KẾT LUẬN

    Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng triệt để vào con đường xây dựng đất nước theo chế độ xã hội chủ nghĩa bình đẳng – văn minh – phát triển. Đảng và Nhà nước hiểu rất rõ tầm quan trọng của tinh thần đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc trong quốc gia, có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội của đất nước. Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc, các tộc người ở Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, thậm chí chúng ta có nhiều chính sách ưu tiên cho đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh những mặt tích cực đang được nâng cao trong quá trình đất nước tiến lên công nghiệp hóa – hiện đại hóa, chúng ta không được chủ quan mà lơ là cảnh giác, phòng thủ để đập tan những phần tử phản quốc. Vì vậy, chúng ta cần hiểu đúng đắn, sâu sắc, đầy đủ tư tưởng của V.I.Lênin để đấu tranh chống lại âm mưu lợi dụng, cái gọi là quyền dân tộc tự quyết của các thế lực thù địch để chống phá Việt Nam.

    Hiện nay, đất nước ta đang phải chống chọi, đẩy lùi cơn sóng dịch bệnh Covid-19 lần thứ ba. Dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số đều chung tay phòng chống dịch bệnh, hỗ trợ nhu yếu phẩm cần thiết đến các vùng trung tâm của dịch bệnh như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, các tỉnh Đông và Tây Nam Bộ. Hình ảnh cậu bé người dân tộc Pa Kô ở Quảng Trị cùng người thân góp vào quỹ hỗ trợ miền Nam chống dịch gây xôn xao mạng xã hội bởi tinh thần tương thân, tương ái của đồng bào ta. Ngoài ra, còn rất nhiều câu chuyện ấm lòng giữa tâm bão đại dịch làm xích lại tình đoàn kết, thương yêu của dân tộc Việt Nam.

    Bởi thế, ông cha ta vẫn thường dạy con cháu thế hệ đời sau rằng: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Dù mai sau này Việt Nam sẽ cùng sánh vai với các cường quốc năm châu thì 54 dân tộc anh em vẫn một lòng một dạ cùng đắp xây, phát triển quê hương Việt Nam vững bền.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2019, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật, Hà Nội
  • 2. Không có tên tác giả, 30/06/2020, Dân tộc thiểu số ở Việt Nam, OpenDevelopmentVietnam
  • https://vietnam.opendevelopmentmekong.net/vi/topics/ethnic-

    minorities-and-indigenous-people/

    Đọc từ:

  • 3. Vy Xuân Hoa, 10/12/2008, Chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước trong việc đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số Việt Nam (nhân kỷ niệm 60 năm ngày Nhân quyền thế giới -ngày 10/12), Trang tin điện tử Ủy ban Dân tộc
  • Đọc từ:
  • http://web.cema.gov.vn/modules.php?name=News&op=Print&mid=1692

  • 4. Vietnam Plus, 02/12/2020, Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc, Mega Story
  • Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc

    Đọc từ:

  • 5. Không có tên tác giả, Vấn đề dân tộc và những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, Loigiaihay.com
  • https://loigiaihay.com/van-de-dan-toc-va-nhung-quan-diem-co-ban-

    cua-chu-nghia-mac-lenin-trong-viec-giai-quyet-van-de-dan-toc-

    c126a20328.html

    Đọc từ:

  • BÀI KIỂM TRA GIỮA KỲ

    Đề tài: Trình bày nhận thức của bản thân sau khi nghiên cứu và học tập môn Chủ nghĩa xã hội khoa học.

    Bài làm

    Việt Nam chúng ta đang trên con đường hiện đại hóa – công nghiệp hóa đất nước với quy mô mở rộng trên toàn lãnh thổ. Để đạt được những thành tựu đáng mơ ước trong nhiều năm qua, Việt Nam đã chuyển mình, hội nhập quốc tế năm châu, thay đổi bộ máy hệ thống nhà nước, các chính sách thiết thực nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước. Các nhà lãnh đạo hiểu rất rõ tầm quan trọng của con người trong việc xây dựng, cải tiến quốc gia. Giáo dục là chiếc chìa khóa quan trọng, mở cửa tri thức, là cơ sở để đào tạo nguồn nhân lực dồi dào mà đất nước ta đang có nhiều ưu thế. Vì vậy, để xây dựng đất nước tiến bộ văn minh theo con đường xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đã đưa bộ môn lý luận chính trị vào trong hệ thống giáo dục từ cấp phổ thông đến đại học. Học phần “Chủ nghĩa xã hội khoa học” là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác – Lênin, đây là ngành nghiên cứu sự vận động của xã hội, thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Môn Chủ nghĩa xã hội khoa học đã giúp sinh viên chúng em có cái nhìn sâu sắc hơn về phân tích, lập luận và thuyết trình phục vụ cho công việc mai sau.

    Môn “Chủ nghĩa xã hội khoa học” trang bị cho sinh viên những kiến thức về hệ thống chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những chính sách đường lối, pháp luật của Đảng, của Nhà nước. Bên cạnh đó, cung cấp thêm cho sinh viên tri thức về lĩnh vực như khoa học xã hội và nhân văn. Cá nhân em cũng đã nhận thức, học hỏi được rất nhiều điều sau khi nghiên cứu và học tập môn “Chủ nghĩa xã hội khoa học”.

    Thứ nhất, bộ môn này mang lại nhiều kiến thức cơ bản, hệ thống về sự ra đời, các giai đoạn phát triển; đối tượng, phương pháp và ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học. “Chủ nghĩa xã hội khoa học” giúp em hiểu được chủ nghĩa Mác – Lênin một cách cân đối, toàn diện, đầy đủ và hoàn chỉnh.

    “Chủ nghĩa xã hội khoa học” là học thuyết chính trị -xã hội được các nhà nghiên cứu, chính trị gia nối tiếng như Ăngghen, Các Mác, V.I.Lênin trực tiếp nghiên cứu để chứng minh, khẳng định sự thay thế tất yếu của chủ nghĩa tư bản bằng của chủ nghĩa xã hội; khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; chỉ ra con đường đúng đắn tiến hành cải tạo xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Với những luận điểm, luận cứ, luận chứng rõ ràng, thuyết phục, các vấn đề về dân tộc, tôn giáo, gia đình được thể hiện rõ nghĩa, hàm súc, có cơ sở chứng minh và giúp sinh viên hiểu toàn diện hơn về các vấn đề xã hội này.

    Thứ hai, bộ môn này trang bị cho sinh viên hành trang lý luận để tìm ra con đường, biện pháp đấu tranh giải phóng áp bức triệt để khỏi chế độ sở hữu tư bản bóc lột, thiếu công bằng, bình đẳng.

    Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học giúp ta thay đổi tư tưởng, có niềm tin khát vọng vào một thế giới hòa bình, tốt đẹp. Có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động, hoang mang trước biến cố lịch sử, thấy rõ âm mưu, bản chất của những kẻ phá hoại, phản động, thù địch là những điều cần thiết rút ra được sau khi học.

    Thứ ba, về mặt thực tiễn, giúp ta xác định được mục tiêu đúng đắn, xây dựng đường lối chiến lược, xếp vào đoàn thanh niên tri thức là nòng cốt của Đảng ta. Ta thấy được những sai lầm trong lịch sử, trong những đường lối lạc hậu, không đưa ra giải pháp kịp thời của thời đại trước mà chiêm nghiệm và tránh những sai lầm dẫn đến hệ lụy về sau.

    Chúng ta vững tin vào chế độ mà Đảng và Nhà nước ta đang theo đuổi, khi có niềm tin vào lãnh đạo, quân dân đồng lòng thì mới đẩy mạnh đất nước vươn lên.Chúng ta học được từ thế hệ đi trước là giữ vững sự bình tĩnh, sáng suốt, tự chủ động tìm con đường độc lập dân tộc bằng chính sức lực của dân tộc và nắm bắt kịp thời cơ hội quốc tế.

    Chủ nghĩa xã hội khoa học đã rèn luyện kỹ năng lý luận, phản biện, nhận thức đúng đắn về các vấn đề xã hội, mọi vấn đề đều phải được giải nghĩa theo khoa học mới có ý nghĩa thực tiễn và có giá trị sâu sắc.

    Dù chỉ học môn “Chủ nghĩa xã hội khoa học” trong một học kỳ vừa qua, nhưng đã để lại trong em nhiều cảm xúc và bài học sâu sắc qua lời giảng trìu mến và nguồn kiến thức phong phú của thầy. Môn học đã giúp em nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của thế hệ trẻ ngày nay trong thời đại đất nước khoác lên bộ áo mới, chuyển mình mạnh mẽ cùng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Là một sinh viên, em có trách nhiệm học tập và nâng cao bản thân, rèn luyện thể chất để trở thành một công dân tốt giúp ích nước nhà.