Thực trạng và giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

Thực trạng và giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam

I. Thực trạng phát triển ngành

1. Kết quả đạt được

Với sự quan tâm và đẩy mạnh hỗ trợ về cơ chế, chính sách, ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Việt Nam đã đạt một số kết quả rõ nét. Theo Ban Chỉ đạo 35 Bộ Công Thương (2020), Việt Nam hiện có khoảng 2.000 doanh nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện, trong đó chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng đa quốc gia, tạo việc làm cho hơn 600.000 lao động. Số doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực CNHT hiện chiếm gần 4,5% tổng số doanh nghiệp của ngành công nghiệp chế biến – chế tạo.

Một số doanh nghiệp sản xuất linh kiện của Việt Nam có năng lực tốt ở các lĩnh vực như: Sản xuất khuôn mẫu các loại; Linh kiện xe đạp, xe máy; Linh kiện cơ khí tiêu chuẩn; Dây cáp điện; Linh kiện nhựa – cao su kỹ thuật; Săm lốp các loại… Các sản phẩm này đã đáp ứng tốt nhu cầu trong nước và được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới. Doanh nghiệp CNHT trong nước cũng ngày càng tích cực áp dụng các tiêu chuẩn, công cụ quản lý hiện đại vào sản xuất, chế tạo, trong đó đã hình thành và phát triển được các tập đoàn kinh tế lớn hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp cơ bản, vật liệu, cơ khí chế tạo như: Viettel, Vingroup, Trường Hải, Thành Công, Hòa Phát…, đã tạo nền tảng cho ngành CNHT, giúp các doanh nghiệp CNHT của Việt Nam từng bước tham gia sâu hơn vào mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

Có thể kể tới một thành công rõ nét của ngành CNHT Việt Nam nhìn từ trường hợp Samsung. Theo báo cáo Bộ Công Thương năm 2021, năm 2014, Tập đoàn Samsung đưa ra danh sách 170 phụ kiện doanh nghiệp Việt Nam có thể cung ứng cho sản phẩm GalaxyS4 và Tab, nhưng các doanh nghiệp CNHT của Việt Nam đã không thể đáp ứng được dù chỉ là linh kiện đơn giản nhất và phải chấp nhận thất bại ngay trên sân nhà. Một năm sau, để không bỏ lỡ cơ hội, 4 doanh nghiệp CNHT Việt Nam đã đạt cấp độ nhà cung ứng cấp 1 của Samsung và tiếp tục gia tăng số lượng nhà cung ứng cho Samsung trong những năm sau đó. Theo đó, số lượng nhà cung ứng cấp 1 của Samsung tăng từ 35 doanh nghiệp năm 2018 lên 42 doanh nghiệp. Số lượng nhà cung ứng cấp 2 cũng tăng từ 157 doanh nghiệp năm 2018 lên 170 doanh nghiệp. 240 doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào mạng lưới cung ứng của Samsung. Bên cạnh đó, việc đầu tư xây dựng trung tâm nghiên cứu và phát triển có quy mô lớn nhất khu vực Đông Nam Á vào đầu năm 2020 trong bối cảnh dịch Covid-19 vẫn diễn biến phức tạp một lần nữa khẳng định chiến lược phát triển lâu dài và định hướng để Việt Nam trở thành cứ điểm sản xuất toàn cầu của Samsung. Ngoài Samsung, đến năm 2020, Toyota Việt Nam có tổng cộng 33 nhà cung cấp thì đã có 5 nhà cung cấp Việt Nam (chiếm 15,15%).

Việc các doanh nghiệp FDI đã có những thay đổi tích cực trong sử dụng nhà cung cấp khi chú ý hơn tới nguồn cung cấp từ các doanh nghiệp Việt Nam cũng được thể hiện qua kết quả khảo sát của Qima – một nhà cung cấp các giải pháp chuỗi cung ứng. Qima đã thực hiện khảo sát với hơn 700 doanh nghiệp trên toàn cầu trong tháng 3/2021 cho thấy, Việt Nam tiếp tục được nhiều doanh nghiệp Mỹ và châu Âu lựa chọn vào chuỗi cung ứng. 25% doanh nghiệp có trụ sở tại châu Âu trong cuộc khảo sát này đã bình chọn Việt Nam là một trong 3 quốc gia cung ứng hàng đầu của họ trong quý I/2021, riêng với doanh nghiệp ở Mỹ, con số này thậm chí còn cao hơn, ở mức 43%. Trong số các doanh nghiệp tham gia khảo sát đã chuyển sang các nhà cung cấp khác vào năm 2020 để tránh đại dịch và các rủi ro khác, có 1/3 doanh nghiệp cho biết Việt Nam là lựa chọn hàng đầu của họ. Riêng với doanh nghiệp Mỹ, con số này thậm chí còn cao hơn, ở mức 40%. Trong số những doanh nghiệp được hỏi có ý định tìm kiếm các nhà cung ứng mới trong 12 tháng tới, có 38% doanh nghiệp Mỹ và 28% doanh nghiệp châu Âu cho biết có kế hoạch chọn Việt Nam hoặc mua thêm từ các nhà cung cấp ở đây.

Bên cạnh việc gia tăng số lượng nhà cung ứng, nhiều sản phẩm “made in Việt Nam” đã ra đời. Năm 2015, đánh dấu bước đầu phát triển của ngành công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam với sự xuất hiện của chiếc điện thoại cao cấp “Made in Việt Nam” thương hiệu Bphone trên thị trường. Đến năm 2019, ô tô VinFast thương hiệu Việt xuất hiện đánh dấu vị thế mới của ngành công nghiệp ô tô đang vươn lên tự chủ trong đầu tư, sản xuất, làm chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, sau 30 năm chủ yếu làm lắp ráp với tỷ lệ nội địa hóa chưa bao giờ đạt kỳ vọng.

2. Tiềm năng và thách thức đối với doanh nghiệp CNHT

Trong năm 2021, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đã gặp nhiều khó khăn, thách thức do chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy, chuỗi cung ứng trong nước cũng bị gián đoạn bởi các chính sách, quy định về giãn cách, phòng chống dịch. Doanh nghiệp CNHT liên tục đối mặt với giá nguyên vật liệu đầu vào tăng (gấp 2 lần so với năm 2019) trong khi số lượng đơn hàng giảm đáng kể. Các quy định về hạn chế đi lại quốc tế và trong nước cũng làm giảm cơ hội tiếp cận trực tiếp với khách hàng, khó khăn trong việc nhập khẩu nguyên liệu, linh kiện đầu vào, đồng thời, xu hướng thị trường khó dự báo khiến doanh nghiệp CNHT không thể lập kế hoạch dài hạn. Xu hướng làm việc trực tuyến chưa phù hợp và thích nghi với môi trường làm việc và nhân công tại các doanh nghiệp CNHT nói riêng và ngành sản xuất nói chung, bởi chuyển đổi số trong lĩnh vực sản xuất vẫn còn khá mới mẻ.

Tuy nhiên, năm 2021 cũng có một số điểm sáng trong lĩnh vực CNHT. Vai trò của các công ty đa quốc gia ngày càng lớn mạnh và tác động đến kinh tế toàn cầu. Từ năm 2017, căng thẳng thương mại Trung – Mỹ đã tạo ra xu hướng dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang nước thứ ba, trong đó có Việt Nam. Từ giữa năm 2018 đến nay các doanh nghiệp CNHT đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế đã nhận được thêm nhiều hợp đồng từ nước ngoài, ngay cả trong 2 năm COVID-19 vừa qua. Xu hướng này đã mở ra cơ hội mới cho các doanh nghiệp CNHT Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia, được thử sức ở thị trường rộng lớn hơn. Theo VASI, có khoảng 5-10% doanh nghiệp sản xuất linh kiện cơ khí và khuôn nhựa đang là nhà cung cấp cấp 1, chủ yếu ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, đã mở rộng sản xuất, đầu tư dây chuyền mới hoặc mở nhà máy mới trong hai năm vừa qua.

Khảo sát của Hiệp hội công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) cho thấy nhiều doanh nghiệp CNHT đã tận dụng tốt cơ hội do COVID-19 mang lại và cho rằng trong thời gian tới họ sẽ nhận được nhiều đơn hàng hơn nhờ làn sóng dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc, hầu hết các doanh nghiệp CNHT đều sẵn sàng nguồn lực và phương án tài chính để đáp ứng nhu cầu của các khách hàng nước ngoài. Sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu cũng là cơ hội cho doanh nghiệp trong nước, do hàng nhập khẩu cả qua đường tiểu ngạch hay chính ngạch bị hạn chế, các khách hàng có xu hướng tìm nguồn cung trong nước tăng lên, doanh nghiệp Việt Nam có đôi chút lợi thế khi vẫn duy trì được các dịch vụ hỗ trợ, cung ứng hàng hóa… tới những khách hàng trước đây chủ yếu sử dụng nguồn cung từ nước ngoài.

Dịch COVID-19 cũng góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Nhiều doanh nghiệp CNHT tìm kiếm giải pháp công nghệ trong nước để phát triển hệ thống vận hành online linh hoạt, giúp cho quá trình phát triển khách hàng và xuất khẩu thuận tiện hơn, việc trao đổi chỉ cần qua trực tuyến, quá trình đánh giá ngắn và nhanh hơn. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp đã phát triển thêm các sản phẩm mới phục vụ công tác phòng chống dịch. Trải qua những khó khăn do dịch bệnh, các doanh nghiệp CNHT đã tạo dựng được văn hoá doanh nghiệp, có dược sự đồng lòng, quyết tâm của CBCNV trong việc tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp phòng trách dịch và đồng hành cùng chủ doanh nghiệp vượt qua khó khăn.

Bên cạnh đó, các gói hỗ trợ của Chính phủ trong việc duy trì chi phí lãi vay và tỷ giá ổn định cũng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, nhờ đó duy trì được việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động.

Mặc dù các doanh nghiệp CNHT đã tận dụng tốt cơ hội trong bối cảnh dịch bệnh diễn ra phức tạp trên toàn thế giới, vẫn tồn tại một số thách thức cần có sự hỗ trợ của chính sách để giúp doanh nghiệp CNHT duy trì được cơ hội, lợi thế của mình. Đó chính là những thách thức về tiếp cận thị trường, khách hàng, tiếp cận vốn vay và các chương trình hỗ trợ của Chính phủ; về xu hướng chuyển đổi số diễn ra chậm trong lĩnh vực sản xuất, thiếu sự quan tâm, sát sao về phát triển các giải pháp phục vụ chuyển đổi số trong doanh nghiệp, chứ không chỉ là các hoạt động tuyên truyền, bề nổi như hiện nay; và về khả năng tiếp cận nguồn cung nguyên liệu, đặc biệt là nguyên liệu trong nước để tránh rủi ro về đứt gãy chuôi cung ứng như thời gian vừa qua. 

Để hỗ trợ các doanh nghiệp CNHT, thời gian qua Bộ Công Thương đã chủ trì xây dựng và hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 03 tháng 11 năm 2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ. Bộ đã có Công văn số 7999/TTr-BCT trình Chính phủ phê duyệt Nghị định 111 sửa đổi và sửa đổi Quyết định 68/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình phát triển CNHT theo tinh thần sửa đổi của Nghị định 111.

3. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ngành CNHT Việt Nam vẫn đứng trước những khó khăn, hạn chế như sau:

Thứ nhất, tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm CNHT trong nước vẫn còn thấp. Cụ thể, đối với các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm phụ tùng linh kiện ô tô, phần lớn doanh nghiệp CNHT mới chỉ cung ứng sản phẩm cho lắp ráp ô tô trong nước. Theo Cục Công nghiệp – Bộ Công Thương, tỷ lệ nội địa hóa đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi đạt thấp, đạt bình quân khoảng 7%-10%. Trong khi mục tiêu đề ra là 40%-45% vào năm 2025 và 50%-55% vào năm 2030. Hay, tỷ lệ nội địa hóa của ngành điện tử hiện mới đạt 5%-10%. Các sản phẩm điện tử trên thị trường Việt Nam đa số là hàng nhập khẩu nguyên chiếc hoặc lắp ráp trong nước bằng phần lớn các linh kiện nhập khẩu. Trong khi đó, mục tiêu đến năm 2025, ngành điện tử phải nội địa hóa đến 45%, đây là mục tiêu đầy thách thức.

Thứ hai, mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ sự phát triển các doanh nghiệp CNHT, nhưng thực tế nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này vẫn rất khó để tiếp cận được với những ưu đãi của Chính phủ. Nguyên nhân là do, sự phối hợp giữa các bộ, ngành còn chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ dẫn đến nhiều doanh nghiệp CNHT chưa tiếp cận được các ưu đãi theo quy định. Với lĩnh vực khoa học, công nghệ, sự gắn kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học với các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ còn hạn chế, không ít các sản phẩm nghiên cứu vẫn gặp rất nhiều khó khăn về ứng dụng và phát triển sản phẩm.

Hiện vẫn thiếu những cơ chế chính sách đủ mạnh về việc tạo điều kiện hỗ trợ sản phẩm đầu ra được áp dụng rộng rãi trong thực tế, chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ bảo đảm bù đắp rủi ro trong nghiên cứu, ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Điều này đã phần nào hạn chế khả năng ứng dụng của các doanh nghiệp công nghệ cao trong lĩnh vực CNHT.

Hay đối với các ưu đãi liên quan đến lãi suất, tín dụng, để vay được vốn, doanh nghiệp cần có rất nhiều điều kiện. Trong khi đó, doanh nghiệp CNHT đa số có quy mô nhỏ, khả năng tài chính hạn chế, không có hoặc rất ít tài sản bảo đảm, trong khi nhu cầu vay vốn lại lớn so với quy mô tài sản của doanh nghiệp. Hơn thế, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp CNHT đa phần là trung và dài hạn để đầu tư máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất, trong khi đó, chính sách tín dụng ưu đãi thường chỉ áp dụng cho nhu cầu vốn ngắn, phạm vi ưu đãi hẹp, chưa kể rất ít doanh nghiệp được cấp chứng nhận thuộc đối tượng CNHT ưu tiên phát triển… nên khả năng tiếp cận nguồn vốn bị hạn chế.

Thứ ba, mặc dù trình độ sản xuất và công nghệ của doanh nghiệp đã từng bước được cải thiện, nhưng các sản phẩm CNHT trong nước chủ yếu vẫn là linh kiện và chi tiết đơn giản, với hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Năng lực tổ chức quản lý sản xuất và công nghệ kỹ thuật của phần lớn các doanh nghiệp CNHT Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đáng chú ý, khoảng cách giữa yêu cầu của các tập đoàn đa quốc gia và năng lực đáp ứng của các doanh nghiệp sản xuất nội địa còn rất lớn. Một số doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia cung ứng sản phẩm CNHT, tuy nhiên rất ít doanh nghiệp có chiến lược phát triển dài hạn để có thể đầu tư chiều sâu về thiết bị, công nghệ, quản lý, cũng như nhân lực.

II. Đề xuất giải pháp

Để thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển mạnh mẽ hơn nữa, hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam cần thực hiện những giải pháp sau:

– Về mặt cơ chế, chính sách, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về phát triển CNHT, xây dựng khung chính sách đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển của các ngành CNHT, tạo nền tảng cơ bản cho công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và bền vững.

– Cần thiết hình thành những trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) và hỗ trợ cho CNHT, trước mắt là tại 3 trung tâm kinh tế lớn khu vực miền Bắc, Trung, Nam. Những trung tâm này không chỉ tập trung vào giới thiệu công nghệ, hỗ trợ điều kiện tiếp cận công nghệ cho doanh nghiệp thông qua hợp tác quốc tế và các chính sách của Chính phủ nói chung, mà còn hỗ trợ cho R&D nói riêng, từ đó những trung tâm này sẽ đóng góp cả vào sự phát triển về giá trị gia tăng.

– Xây dựng cơ sở dữ liệu về các doanh nghiệp CNHT Việt Nam và cụm liên kết nhằm thúc đẩy kết nối giữa nhà cung cấp VN và các tập đoàn đa quốc gia có nhu cầu tìm kiếm nhà cung cấp tại Việt Nam.

– Xúc tiến kết nối đầu tư tại thị trường các nước mà Việt Nam đã ký kết các hiệp định thương mại tự do nhằm đa dạng hoá và mở rộng thị trường xuất khẩu nhằm tạo cơ hội thị trường cho các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ.

– Phối hợp chặt chẽ và hướng dẫn các địa phương triển khai Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ và các chính sách hỗ trợ, ưu đãi khác đối với doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tại địa phương.

– Tăng cường hợp tác, trao đổi với các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp sản xuất lớn để hỗ trợ chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp CNHT Việt Nam từng bước tiếp nhận, ứng dụng các công nghệ cao.

– Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho ngành CNHT. Để thực hiện được điều này, cần mở rộng sự liên kết trong đào tạo giữa các trường đại học trong nước và các trường đại học có uy tín trên thế giới. Đồng thời, cần có sự đầu tư nâng cấp các cơ sở đào tạo từ các trường đại học cho đến các trường dạy nghề để nâng cao dần chất lượng của những người lao động trong tương lai.

– Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về chính sách phát triển CNHT để thu hút đầu tư nguồn lực xã hội vào phát triển CNHT./.

Ngô Mai Hương

Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại – VIOIT