Thực trạng sinh viên thất nghiệp – TIỂU LUẬN MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN – StuDocu

TIỂU LUẬN

MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA

CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

Đề tài: “Sinh viên và thực trạng thất nghiệp ở Việt Nam hiện

nay”.

LỜI NÓI ĐẦU

Từ ngày quốc gia ta có sự thay đổi về kinh tế tài chính, chuyển từ kinh tế tài chính tập trung chuyên sâu sang cơ chế thị trường nhiều thành phần, tự do hoạch động và hạch toán nên quốc gia cũng có nhiều biến hóa. Sự đổi khác này đã mang lại cho quốc gia nhiều thành tựu về kinh tế tài chính cũng như xã hội. Nhưng xét đến tính hai mặt của yếu tố thì cơ chế thị trường bên cạnh những mặt được thì cũng còn những mặt chưa được : Một trong những mặt chưa được đó là những mặt đó là thực trạng sinh viên ra trường thất nghiệp ngày càng tăng, yếu tố xã hội mà gần như không có trong nền kinh tế tài chính bao cấp. Đất nước muốn tăng trưởng thì phải đi lên từ lao động, mà sinh viên là lực lượng lao động trẻ, năng động, dồi dào và được giảng dạy. Vì vậy đây là nguồn nhân lực rất quan trọng cần được sử dụng một cách hài hòa và hợp lý hiệu suất cao. Tình trạng sinh viên thất nghiệp sẽ ảnh hưởng tác động rất nhiều đến tình hình tăng trưởng kinh tế tài chính, xã hội của quốc gia. Vấn đề này nguyên do do đâu, phải chăng là :

  • Trình độ của sinh viên không đáp ứng được yêu cầu ngày một cao của công
    việc, do chất lượng đào tạo thấp của các trường đại học, cao đẳng?

    • Do lượng cung lớn hơn cầu về nguồn lao động?
    • Do chính sách của nhà nước chưa hợp lý trong việc sử dụng lao động?
    • Do sự chủ quan của sinh viên không muốn công tác tại những vùng xa, khó
      khăn?
      Vấn đề này được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau vì mỗi người có một
      quan điểm khác nhau. Điều này xảy ra là vì về mặt nhận thức chủ thể chưa nhìn
      nhận vấn đề một cách toàn diện, tổng thể mà chỉ nhìn ở một phía nhất định. Do vậy
      bài tiểu luận này em sẽ vận dụng quan điểm toàn diện của triết học Mác – Lênin để
      giải thích nguyên nhân của vấn đề và đưa ra một vài giải pháp.

A. NỘI DUNG

I. Quan điểm toàn diện của triết học Mác – LêninI. Quan điểm toàn diện của triết học Mác – Lênin
Trong sự tồn tại của thế giới quanh ta, mọi sự vật và hiện tượng đều có mối
liên hệ và tác động qua lại với nhau chứ không tách rời nhau, cô lập nhau.
Như chúng ta đã biết “Quan điểm toàn diện” là quan điểm được rút ra từ
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Muốn nhận thức hoặc hoạt động thực tiễn đúng về đối tượng nào đó phải tính
đến những mối liên hệ trong sự tồn tại của đối tượng, đề phòng khắc phục quan
điểm phiến diện
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là mối liên hệ của bản thân thế giới
vật chất, không do bất cứ ai quy định và tồn tại độc lập với ý thức. Trên thế giới
này có rất nhiều mối liên hệ chẳng hạn như mối liên hệ giữa sự vật và hiện tượng
vật chất, giữa cái vật chất và cái tinh thần. Các mối liên hệ đều là sự phản ánh
những tác động qua lại, phản ánh sự quy định lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng
của thế giới khách quan.
Không chỉ có vậy, các mối liên hệ còn có tính nhiều vẻ (đa dạng):

  • Mối liên hệ bên trong và bên ngoài;
  • Mối liên hệ cơ bản và không cơ bản;
  • Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu;
  • Mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
    Ở thế giới của các mối liên hệ, mối liên hệ bên ngoài tức là sự tác động lẫn
    nhau giữa các sự vật, mối liên hệ bên trong tức là sự tác động qua lại lẫn nhau của
    các mặt, các yếu tố, các bộ phận bên trong của sự vật. Có mối liên hệ cơ bản thuộc
    về bản chất của sự vật, đóng vai trò quyết định, còn mối liên hệ không cơ bản chỉ
    đóng vai trò phụ thuộc, không quan trọng. Đôi khi lại có mối liên hệ chủ yếu hoặc
    thứ yếu. Ở đó còn có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hoặc nhiều sự vật và hiện tượng,
    có mối liên hệ gián tiếp trong đó có các sự vật và hiện tượng tác động lẫn nhau
    thông qua nhiều khâu trung gian.

Khi nghiên cứu và điều tra hiện tượng kỳ lạ khách quan, tất cả chúng ta hoàn toàn có thể phân loại những mối liên hệ ra thành từng loại như trên tuỳ theo đặc thù đơn thuần hay phức tạp, khoanh vùng phạm vi rộng hay hẹp, vai trò trực tiếp hay gián tiếp, điều tra và nghiên cứu sâu hay sơ qua … Phân chia những mối liên hệ phải phụ thuộc vào vào việc điều tra và nghiên cứu đơn cử trong sự đổi khác và tăng trưởng của chúng. Hay nói khác đi, khi xem xét sự vật thì phải có quan điểm tổng lực tức là nhìn nhận vấn đề, yếu tố ở mọi góc cạnh, mọi phương diện. Theo Lênin : “ Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và điều tra và nghiên cứu toàn bộ những mối quan hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó. Chúng ta không hề làm được điều đó một cách trọn vẹn không thiếu, nhưng sự vật thiết yếu phải xét đến toàn bộ mọi mặt sẽ đề phòng cho tất cả chúng ta khỏi phạm phải sai lầm đáng tiếc và cứng ngắc ”. ( Lênin toàn tập – NXB Tiến bộ ). Khi xem xét sự vật hiện tượng kỳ lạ thì luôn phải chú ý quan tâm đến quan điểm tổng lực tức là khi xem xét sự vật, hiện tượng kỳ lạ phải điều tra và nghiên cứu mọi mối liên hệ và sự ảnh hưởng tác động qua lại giữa chúng, sự ảnh hưởng tác động qua lại của những yếu tố, kể cả khâu trung gian, gián tiếp cấu thành sự vật đó, phải đặt nó trong một khoảng trống, thời hạn đơn cử, nghiên cứu và điều tra quy trình tăng trưởng từ quá khứ, hiện tại và Dự kiến cho tương lai. Thế nhưng xem xét tổng lực không có nghĩa là xem xét tràn ngập mà phải xem xét từng yếu tố đơn cử nhưng có tính tinh lọc. Có như vậy tất cả chúng ta mới thực sự nắm được thực chất của sự vật. Và cả khi điều tra và nghiên cứu xã hội thì cũng rất cần đến quan điểm tổng lực vì những mối quan hệ trong xã hội không cô lập nhau, tách rời nhau mà trái lại chúng xen kẽ tác động ảnh hưởng qua lại với nhau. Tình trạng sinh viên ra trường thất nghiệp cũng là một yếu tố xã hội mà nguyên do gây ra là tập hợp của nhiều yếu tố tác động ảnh hưởng ảnh hưởng tác động đến nhau. Chính vì thế, trong bài tiểu luận này em sẽ dùng quan điểm tổng lực của triết học Mác – Lênin để nghiên cứu và phân tích thực trạng này .

Vậy nguyên nhân của vấn đề này do đâu?
III. Nguyên nhân của vấn đề
1. Từ phía nền kinh tế- xã hội:
Trong những năm nước ta còn thực hiện chính sách bao cấp thì không có
hiện tượng sinh viên ra trường thất nghiệp. Phần lớn là vì ngày đó sinh viên còn ít
số lượng các trường đại học không nhiều nhưng chủ yếu là sinh viên sau khi tốt
nghiệp thường được nhà nước phân công tác. Nhìn bề ngoài thì có thể là đủ việc
làm nhưng đôi khi những vị trí được sắp xếp vào chỉ cho đủ vị trí, cho có hình thức,
nhiều lúc “chơi dài ngày” hết tháng thì nhận lương nhà nước.
Nhưng từ khi nhà nước có chính sách mở cửa kinh tế nhà nước chuyển sang
kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự lo cho mình, tự tính toán “lời ăn, lỗ
chịu” không có sự bao cấp của nhà nước thì vấn đề việc làm thực sự trở nên bức
bách. Cũng từ đây cơ cấu bộ máy trong các cơ quan gọn nhẹ hơn nhiều do số lao
động tuyển vào được cân nhắc kỹ lưỡng theo khối lượng và mức độ đòi hỏi của
công việc. Hiện nay, sau khi tốt nghiệp thì đa số sinh viên phải tự đi tìm việc cho
mình ngoại trừ một số trường thuộc ngành quân đội hay công an thì ngành chủ
quản sẽ phân công công tác.
Ngày nay, chúng ta có thể thấy một hiện tượng là sinh viên tốt nghiệp ra
trường chỉ muốn trụ lại thành phố để làm việc kể cả những sinh viên xuất thân và
lớn lên từ những miền quê. Họ chấp nhận ở lại thành phố để làm việc dù là việc
không đúng với nghành được đào tạo hoặc có thu nhập. Như vậy một số nơi như
hải đảo, vùng sâu, vùng xa thì vẫn thiếu trầm trọng nguồn nhân lực trong khi thành
phố vẫn phải đương đầu với sức ép của tình trạng thất nghiệp.
Đến đây ta có thể thấy được tính hai mặt của nền kinh tế thị trường. Một mặt
nó tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế có khả năng phát triển mạnh hơn, nó
cũng tạo ra sự cạnh tranh và chính sự cạnh tranh cũng là động lực thúc đẩy kinh tế
phát triển, đi lên. Hơn nữa kinh tế thị trường sẽ làm cho mọi người phải cố gắng nỗ
lực để trang bị cho mình vốn kiến thức đầy đủ thì mới có thể tìm được việc làm.

Nhưng mặt khác nền kinh tế thị trường cũng có những tác động không lớn đến vấn
đề xã hội là việc gây ra sự thiếu thừa “giả” về lực lượng lao động, mất cân đối về
nguồn lao động và cũng làm nẩy sinh một số vấn đề tiêu cực trong việc làm.
2. Về vấn đề đào tạo:
Tình trạng sinh viên ra trường không có việc làm một phần cũng có nguyên
nhân ở phía đào tạo. Nhiều chương trình đào tạo quá cũ kỹ, lạc hậu từ nội dung đến
phương pháp giảng dạy. Đôi khi được học là học chay còn vào thực tiễn thì như
mới hoàn toàn vì học nhưng không có thực hành, không có trang thiết bị phục vụ
cho việc giảng dạy, học tập, vì vậy không phát huy được khả năng sáng tạo của sinh
viên. Tại một số nước có nền giáo dục hiện đại, sinh viên sau khi học hết năm thứ 3
thì có thể làm việc được tại một cơ quan theo một ngành nghề đã được đào tạo.
Phần đông ngoài các chương trình đào tạo ở trường đại học, họ còn phải học thêm
các khoá học ở ngoài như ngoại ngữ, tin học để có thể đáp ứng được yêu cầu của
công việc.
2. Cơ cấu đào tạo
Có thể nói cơ cấu đào tạo của nước ta còn quá lạc hậu và chưa bám sát thực
tế. Trong khi một đất nước đang phát triển như Việt Nam rất cần đến đội ngũ kỹ sư
về kỹ thuật, công nghệ, xây dựng cơ bản thì nguồn cung cấp nhân lực từ phía đào
tạo lại chưa đáp ứng được hết nhu cầu. Trong khi đó sinh viên trong khối kinh tế
thì đang quá dư thừa “90% sinh viên khối kinh tế ra trường không có việc làm” là
một phần do bên đào tạo nắm được nhu cầu thực tế về nguồn nhân lực, chưa thông
tin đầy đủ cho sinh viên về việc chọn nhóm ngành học, nhiều sinh viên chọn trường
chỉ theo cảm tính chứ không tính đến mục đích phục vụ tương lai và khả năng xin
việc làm sau này.
2. Chất lượng đào tạo
Hiện nay chất lượng đào tạo và thực tế còn có khoảng cách quá xa. Những gì
sinh viên được học phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Nguyên
nhân một phần là do học không đi đôi với hành, thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị

4. Về phía bản thân và gia đình đối tượng được đào tạo
Bên cạnh những nguyên nhân được nêu ở trên thì nguyên nhân từ phía bản
thân sinh viên cũng là một yếu tố gây ra tình trạng sinh viên thất nghiệp sau khi ra
trường.
Chúng ta có thể nhận thấy một thực tế rằng hiện nay sinh viên ra trường đều
muốn bám trụ lại thành phố để làm việc dù công việc đó không đúng ngành được
đào tạo hoặc thậm chí là công việc phổ thông miễn sao có thu nhập. Nhóm sinh
viên xuất thân từ các tỉnh lẻ ra thành phố học cũng không muốn trở về quê hương
để phục vụ, điều này đang làm cho các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh đang quá tải về dân số cũng như sức ép về nhu cầu việc làm. Tình hình
này đã và đang gây ra những ảnh hưởng xấu đến chủ trương phát triển kinh tế – xã
hội ở miền núi, nông thôn của Đảng và nhà nước.
B. KẾT LUẬN CHUNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
I. Kết luận chung

Qua việc phân tích những nguyên nhân gây ra hiện tượng sinh viên thất
nghiệp sau khi ra trường bằng việc vận dụng “quan điểm toàn diện của triết học
Mác-Lênin” phần nào cũng cho ta thấy được góc cạnh của vấn đề mặc dù phần
phân tích ở trên chỉ là rất khái quát. Chúng ta đều nhận thấy rằng tình trạng thất
nghiệp ở sinh viên sau khi ra trường không phải do lỗi toàn bộ của bất cứ ban
ngành nào mà nó do nhiều yếu tố tác động đến, nguyên nhân khách quan như tình
hình kinh tế xã hội, nguyên nhân chủ quan là về hệ thống giáo dục đào tạo, chính
sách sử dụng và đãi ngộ lao động chưa hợp lý cũng như tâm lý chủ quan về phía
bản thân sinh viên. Nhưng dù nói gì đi nữa thì thất nghiệp ngày càng tăng sẽ ảnh
hưởng không tốt đến tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhất là Việt
Nam, một nước đang phát triển với dân số trẻ rất cần mọi tài năng, nỗ lực và sự
đóng gópcủa lớp trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy để giải quyết
vấn đề này thì không phải một sớm một chiều mà cần phải có thời gian và sự kết
hợp từ nhiều phía. Với tư cách là một sinh viên cũng đang băn khoăn và lo lắng về

vấn đề xã hội này nên trong phần giải pháp của bài tiểu luận này em xin phép được
đưa ra một số giải pháp dưới đây.
II. Giải pháp
1. Phát triển cả về chiều sâu lẫn chiều rộng các ngành nghề sản xuất –
kinh doanh

Với số dân gần 80 triệu người và chắc chắn sẽ còn tăng trong những năm tới,
lượng sinh viên ra trường ngay càng nhiều vì vậy việc làm là một vấn đề cấp bách
của xã hội. Để tạo thêm được công ăn việc làm thì không còn cách nào khác là phải
mở rộng các ngành nghề sản xuất – kinh doanh. Muốn làm được điều này thì nhà
nước cần có những chính sách nhằm đẩy mạnh, khuyến khích các thành phần kinh
tế tham gia vào đầu tư, phát triển mở rộng sản xuất cũng như tạo ra các điều kiện
thuận lợi về môi trường để họ có thể hoạt động thuận tiện hơn. Bên cạnh đó nhà
nước cũng phải là người đi đầu, chủ trương trong việc thực hiện các chương trình
quốc gia về khoa học – kỹ thuật cũng như đưa nó vào thực tiễn sản xuất nhằm nâng
cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, nâng cao điều kiện sống cho
người lao động. Nếu các chính sách này được đưa vào thực tiễn thì người lao động
sẽ phải cố gắng hơn để nâng cao trình độ chuyên môn cho công việc và đơn vị sử
dụng cũng sẽ có điều kiện để thu hút nhiều hơn lực lượng lao động được đào tạo
với chất lượng cao.
2. Về phía ngành giáo dục – đào tạo
Đào tạo chính là nền tảng, là cơ sở để cho “ra lò” những lao động có kĩ năng,
có tay nghề, vì vậy đào tạo cần phải đổi mới nâng cao chất lượng để làm sao khi tốt
nghiệp sinh viên có khả năng đáp ứng những nhu cầu ngày một cao của công việc.
Bên cạnh đó nhà nước và bộ giáo dục cũng cần có sự phối hợp để tính toán để cân
đối tỷ lệ hợp lý giữa các ngành nghề đào tạo, đáp ứng được nhu cầu của thực tế,
tránh hiện tượng thừa thì vẫn cứ thừa còn thiếu thì vẫn cứ thiếu. Ngành đào tạo
cũng có mối liên hệ với thị trường lao động để luôn cập nhập được xu hướng của
nhu cầu để đào tạo cho phù hợp cả về chất lượng cũng như số lượng.

Tài liệu tham khảo

1 Báo tiền phong số135 ra ngày 24-3 – 2002 2 Sách Lê Nin toàn tập – Nhà xuất bản Tiến Bộ 3 Tạp chí Lao động và Xã hội tháng 3 – 4 Nguồn tin từ Internet : tinvan

Source: https://evbn.org
Category: Học Sinh